LÁ RỤNG
VỀ CỘI
Bài chia sẻ nơi nghĩa
trang
+++
Hôm
nay chúng ta tụ họp nơi nghĩa trang này để cầu nguyện cho các người đã qua đời,
đặc biệt cho những người nằm nơi đây, trong đó có những người thân yêu và bạn bè
của chúng ta.
Chúng
ta đang đứng giữa nghĩa trang được bao bọc
bằng một rừng cây. Cảnh vật chung quanh có thể gợi cho chúng ta một vài tư tưởng
để chúng ta có thể chia sẻ với nhau trong giờ cầu nguyện này.
I. NHÌN CẢNH LÁ RƠI.
Hôm
nay đã cuối thu sang đông, tiết trời se lạnh, gió hiu hiu thổi, nhìn những hàng
cây chung quanh, tự nhiên tôi liên tưởng đến bài thơ “Tiếng thu” của thi sĩ Lưu
trọng Lư, trong đó có câu :
Em
nghe không rừng thu,
Lá thu bay
xào xạc,
Con nai
vàng ngơ ngác
Đạp trên
lá vàng khô.
Theo
thời tiết trong năm, khi trời sang thu, lá cây đổi mầu, vàng úa rồi rụng xuống.
Lá rơi ! Lá rơi xào xạc ! Nhìn những chiếc lá rơi, chúng ta thấy có những chiếc
lá khi rụng, chao đảo vài vòng rồi nhẹ nhàng đặt mình dưới gốc cây; nhưng cũng có
những chiếc lá vừa lìa khỏi cành đã bị trận bão loạn gió cuồng cuốn bay đi xa
lắc.
Nhình
cảnh lá rơi, tôi lại nhớ đến câu tục ngữ của dân gian :”Lá rụng về cội”. Theo người
ta giải thích, câu tục ngữ này có nghĩa là : con cháu dù đi xa, dù được ai nuôi
dưỡng, lớn lên cũng tìm về, nhớ về quê cha đất tổ. Vì “cội” là gốc và quê cha
đất tổ là gốc của con người.
Tức
cảnh sinh tình. Cảnh vật chung quanh như cũng có hồn, có tâm tình, nó gợi cho chúng
ta những ý nghĩ mà chúng ta không nên bỏ
qua. Ngắm nhìn cảnh lá lìa cành rơi trên mặt đất, tự nhiên chúng ta nghĩ ngay
đến thân phận con người, và coi đời người như những chiếc lá rơi vì ngày xưa
Chúa đã nói với con người :”Ngươi chỉ là
bụi đất và sẽ trở về cùng bụi đất”(St 3,19).
Như
lá được sinh ra và nuôi dưỡng từ chất nhựa từ cội là gốc rễ đưa lên cành thế nào,
con người cũng được sinh ra, lớn lên sinh hoạt trong dòng đời, từ chính cội
nguồn của sự sống là Thiên Chúa. Cái chết của con người cũng giống như chiếc lá
lìa cành. Những chiếc lá lìa cành đó có trở về cội nguồn hay lại bay đi đâu ?
II. ĐÂU LÀ CỘI NGUỒN ?
Người
Việt nam chúng ta luôn chú trọng đến chữ hiếu đối với tổ tiên ông bà cha mẹ, không
ai có thể quên công ơn sinh thành dưỡng dục của các đấng ấy, vì người ta có cha
có mẹ, có ai ở lỗ nẻ chui lên đâu. Vì thế, mọi người phải khẳng định rằng con
người phải có căn nguyên cội nguồn :
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như
sống có nguồn.
Đành
rằng ông bà cha mẹ là cội nguồn của chúng ta, nhưng nếu đi xa hơn, chúng ta phải
đặt thêm câu hỏi : cội nguồn của tổ tiên ông bà cha mẹ chúng ta ở đâu và rồi
chúng ta cũng sẽ đi về đâu như khi chiếc là lìa cành ?
Đứng
trước câu hỏi này, từ xưa, ông Hoài Nam Tử
đã trả lời cho chúng ta :”Sinh ký, tử qui”
: sống là tạm gửi , chết mới là về. Nhưng
về đâu ? Và đâu là cội nguồn ? Đó mới là vấn đề.
Nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn còn khắc khoải trong
việc đi tìm cội nguồn. Ôn diễn tả khắc khoải ấy trong một bài hát trong đó có
câu :
Bao năm rồi còn mãi đi xa…
Đi lên non
cao đi về biển rộng.
Trăm năm vô
biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết
nơi nào là chốn quê nhà.
Ông
chưa biết nơi nào là chốn quê nhà tức là ông chưa tìm được nguồn gốc của mình để
sau cùng ông sẽ trở về đó. Người ta vẫn
băn khoăn với câu hỏi : sau cùng người ta đi về đâu : Có phải về với lòng đất ?
Có phải là về với hư không ? Có phải là về với tổ tiên ? Hay là về chốn bồng
lai tiên cảnh ?... Điều đó tùy thuộc quan niệm và niềm tin của từng người.
Người
Công giáo chúng ta tin rằng con người có linh hồn bất tử, và khi chết, linh hồn
của mình sẽ về cùng Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình. Thiên Chúa là cội nguồn.
Từ Thiên Chúa, có muôn loài muôn vật, có chính mình. Bởi thế, chết là một cuộc
“lá rụng về cội” lớn lao nhất, quan trọng nhất.
Truyện : Trở
về với Tạo Hóa.
Tuy
Trang Tử sống trước Chúa Giêsu nhiều năm, không hề biết giáo lý Công giáo, nhưng
ông cũng có quan niệm về cái chết giống hệt như quan niệm của ta.
Vợ
Trang Tử chết,
Huệ
Tử đến viếng, thấy Trang Tử ngồi duỗi xoạc hai chân ra, gõ nhịp vào bồn nước mà
hát.
Hệ
Tử bảo :
- Mình đã ăn ở với
người ta, có con với người ta, bây giờ người ta già, người ta chết, mình đã
không khóc cũng đủ, mà lại còn gõ bồn mà hát, chẳng là quá lắm ư ?
Trang Tử nói :
-
Không phải thế, vợ tôi mới chết, tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm… nhưng xét cho
cùng, thì người ta chết, là trở về với Tạo Hóa, cũng như người ta ra ngoài về
nhà, thế mà ta vẫn cứ còn theo đuổi, than van, khóc lóc, thì chẳng hóa ra ta không biết mệnh trời ư ? Cho nên ta không
khóc, mà lại hát.
III. CHUẨN BỊ VỀ VỚI NGUỒN CỘI
1. Cuộc đời chóng qua.
Khi nhìn chiếc là lìa
cành, chúng ta nghĩ ngay đến ngày chúng ta phải từ giã cõi đời này vì trần gian
chỉ là nơi tạm trú, không có gì là vĩnh viễn.
Mọi người đều có cảm tưởng thời gian mau qua, vừa mới sinh ngày nào nay đã
đến tuổi già, mà càng già càng cảm thấy thời gian đi mau hơn. Chúng ta hãy thưởng
thức một bài thơ cổ nói về cuộc đời chóng qua thế nào và điều gì quan trọng vào
giây phút cuối cùng :
Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười tôi khóc, thì
lúc đó thấy thời gian bỏ tôi.
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn, thì thấy thời gian
đi bộ.
Khi tôi trưởng thành, tôi là một người
chững chạc, thì thấy thời gian chạy.
Cuối cùng, khi tôi bước vào tuổi chín mùi,
tuổi già, thì thấy thời gian bay.
Chẳng bao lâu nữa là tôi chết, lúc đó thời
gian đã đi mất.
Ôi, lạy Chúa Giêu, khi cái chết đến, thì
ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa (Thiên đàng là thế đó, tr 92).
2. Chuẩn bị cho ngày ra đi,
Khi quan sát chiếc lá rụng
, chúng ta thấy có chiếc lá chao đảo mấy vòng rồi nằm xuống gốc cây, nhưng cũng
có những chiếc lá bay vèo đi nơi xa lắc. Lá rụng nhưng đâu lá có về cội. Cũng thế,
nếu lá rụng chưa chắc đã về cội thì con người khi chết cũng chưa chắc sẽ được
về cùng Chúa là nguồn cội. Về được với Chúa hay không, cái đó còn tùy ở cách
sống của mình, hoàn toàn tùy ở minh.
Triết
lý tử vong của người Việt chúng ta nằm trong câu tục ngữ này :
Sống về mồ về mả,
Chẳng ai sống
về cả bát cơm.
Đây
là một quan niệm mê tín : người ta làm ăn phát đạt là nhờ mồ mả cha ông chôn cất
vào nơi có địa thế tốt, kết phát. Nhưng
dầu sao, triết lý tử vong có tương quan mật thiết với triết lý nhân sinh : sinh
ký, tử qui. Triết lý tử vong đem lại cho chúng ta tất cả những giáo huấn khôn
ngoan, những hứng khởi sáng suốt về cuộc đời, thành thử nếu đích thực là “sống khôn chết thiêng” thì cũng đích
thực là “triết lý tử vong chi phối triết lý nhân sinh”, vì chỉ có ai biết chết
thiêng thì mới biết sống khôn (P. Bianchi, Tĩnh tâm Linh mục, tr 99).
Từ
quan niệm ấy, người Việt nam hình như không sợ hãi khi đối diện với cái chết.
Vì thế,những cụ già xây sẵn phần mộ, mua sắm cỗ quan tài, ra vào vuốt ve ngắm nghía
nó như ngắm một vật thân quí, đôi khi vào nằm thử một cách bình tĩnh. Các cụ còn định sẵn cả chương trình cho đám
táng của mình, phải tổ chức ra sao, nghi thức thế nào. Thật là một sự chuẩn bị
cho một cuộc trở về.
Mọi
người giầu nghèo sang hèn, giỏi dốt ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì, thì rồi
cũng có ngày phải rời bỏ cõi đời này để trở về thế giời bên kia. Chết là một án
lệ không ai có thể trốn tránh được, chỉ có một điều là phải chuẩn bị cho ngày
đó.
Truyện : Rồi
cũng phải chết.
Ngày
xưa, mỗi lần vua Ấn độ ra gặp thần dân, ông ngồi trên ngai đặt trên lưng voi, có
tiền hô hậu ủng.
Một
viên quan đi trước xứng lên :”Đây là đấng thiên tử vĩ đại, là hoàng đế nước Ấn độ,
hùng cường và đáng kính phục, sống trong cung điện, lợp bằng trăm nghìn viên
hồng ngọc, và có hai vạn vong hoa bằng kim cương”.
Lời
tung hô vừa dứt, thì viên võ quan đứng sau nhà vua lại hô tiếp :”Đấng thiên tử hết
sức hùng cường và hết sức vĩ đại ấy, rồi cũng phải chết… Rồi cũng phải chết”.
Cuộc
sống làm nên ý nghĩa của sự chết. Cuộc sống quyết định cho đích điểm của một chuyến
đi. Chuyến đi xa nhất, quan trọng nhất của đời người. Đây cũng là chuyến đi cô
đơn nhất vì không ai đồng hành với ta.
Thánh
Kinh nhắc bảo chúng ta :”Con hãy nhớ : tử
thần luôn sẵn sàng đó”(Hc 14,12) ,
nên Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta phải nhớ và suy niệm lời Ngài :”Các con hãy sẵn sàng, vì không biết giờ nào,
ngày nào Con Người sẽ tới”(Mt 24,44).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ
Kim phát
Đà lạt