SỐNG
GỬI THÁC VỀ
+++
Chúng ta đọc : Ga 14,1-7
Đời đáng sống hay không đáng sống,
Sống mấy ngày mà
chết sầu thương
Đời nghĩa lý hay
không nghĩa lý
Sao nói rằng : “Sinh ký, tử qui”.
1.
Mọi người đều phải chết.
Chết
là một thực tại hiển nhiên. Đã là người, ai cũng phải chết. Đó là điều quá rõ
ràng, không cần phải minh chứng. Xưa nay ai đã thoát chết :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” (Văn thiên Trường) ? Cái chết vẫn
hằng theo dõi, ám ảnh tâm trí mọi người, dù người ta muốn quên hay chối bỏ
nó. Nhưng càng xa tránh, càng chối bỏ
thì nó lại càng theo sát chặt chẽ.
Phải
chăng đời người chỉ gói trọn trong hai chữ “Sống và Chết” ? Thật vậy, con người sinh ra ở đời này không
phải để sống luôn mãi, nhưng sau một thời gian vắn dài, con người phải chết. Vì
đã có sinh thì lại có tử, không trước thì sau, không sớm thì muộn, thần chết sẽ
đến với ta một cách bất ngờ, đó là định luật của con người. Lối đi một chiều
không có ngày trở lại.
2. Nhưng
chết rồi đi về đâu ?
Ngay
từ xưa, ông Hoài Nam Tử đã đặt câu
hỏi về vấn đề sống chết để cho nó một ý nghĩa :”SINH KÝ, TỬ QUI” : sống gửi,
thác về. Nhưng chết rồi thì đi về đâu thì chưa có câu trả lời.
Đối
với những người vô thần, chết là hết. Chết là đi vào hư vô trống rỗng, là đi
vào ngõ cụt, là phi lý, là vô nghĩa. Họ không hiểu được ý nghĩa của cuộc sống :
tại sao mình sống và tại sao mình chết.
Luồng
triết học nổi tiếng của thế kỷ 20, mệnh danh là chủ nghĩa hiện sinh, tập trung sự suy tư vào thân phận bi thương
của kiếp người. Nó luôn nhấn mạnh tới tính hữu hạn và “dang dở” của đời người,
mà cái chết là bằng chứng rõ nhất và cuối cùng.
Chính
vì cái chết chấm dứt cuộc đời một cách tàn bạo và ngược lại với tất cả những gì
tốt đẹp mà con người khao khát và cố gắng thực hiện trên đời, mà triết gia Albert Camus đã đưa ra thuyết cuộc đời
là phi lý, là vô nghĩa vì chẳng dẫn tới đâu và đầy mâu thuẫn, không có lối
thoát. Những thao thức của họ chưa tìm được câu trả lời cho thỏa đáng.
Đạo
Phật quan niệm rằng “Sau khi chết, nếu khi còn sống ở đời này, người ta ăn ngay
ở lành, sống từ bi hỉ xả với mọi người, thì hồn thiêng của họ sẽ được đi về cõi
cực lạc”. Có thể gọi là Thiên Đàng như đạo Công giáo chúng ta.
Vì
thế, chúng ta thường thấy sau khi người thân chết, người ta hay tung hoặc đốt
giấy bạc, vì họ nghĩ rằng, giấy bạc đó có thể trở thành phương tiện sống cho người chết trong cuộc sống mới. Còn những ai sống trong tội lỗi, phụ bạc xa
hoa, thì họ sẽ đầu thai thành một con vật hoặc một người khác, để tiếp tục đền
tội mình. Tội nặng thì được đầu thai
trong bậc sống thấp hơn, chẳng hạn như con giun con dế; còn tội nhẹ thì được
liệt kê vào bậc cao hơn. Ác quả ác báo. Mọi sự đều được thưởng phạt tùy theo cách sống của mỗi người , theo
nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội
tắc trừng” : có công thì được
thưởng, có tội thì phải đền.
3. Chết
là đi về Nhà Cha.
Trước
cuộc khổ nạn của Chúa, các môn đệ lo âu sợ hãi, Chúa Giêsu đã trấn an các ông
:”Các con đừng xao xuyến, hãy tin vào
Thiên Chúa, hãy tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Thầy đi để dọn
chỗ cho các con… Thầy sẽ đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con
cũng ở đó với Thầy” (Ga 14,1-3).
Thánh
Phaolô cũng quả quyết với tín hữu Corintô :”Nếu
căn nhà (thể xác) dưới đất bị hủy đi, chúng ta có căn nhà ở trên trời do Thiên
Chúa làm ra… vĩnh cửu ở trên trời” (x. 2Cr 5,1-5).
Chính
Chúa Giêsu đã bước qua ngưỡng cửa của sự chết, Ngài đã sống lại, chiến thắng tử
thần và trao ban sự sống mới cho nhân loại.
Mỗi người con cái Chúa cũng bước qua ngưỡng cửa của sự chết mới có thể đi
vào sự sống vĩnh hằng trong nhà
Cha. Đức Giêsu khi nói về cái chết của
mình, Ngài dùng kiểu nói :”Thầy bỏ thế
gian mà về cùng Cha” (Ga 16,28). Cái chết như vậy là ngưỡng cửa bước qua để
hội ngộ, Người ra đi để rồi gặp gỡ Đấng sinh thành ra mình. Đó là một cuộc trở về Nhà Cha thật sự. Sự chết là khởi đầu một sự sống mới, sự sống
vĩnh hằng trong Nhà Cha.
Phụng
vụ diễn tả : đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, khi
thân xác tan rã trở về bụi đất, thì con người lại có một nơi ở do Chúa dựng
lên, đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không do người phàm làm ra” (x. 2Cr
5,1).
Như
vậy, ngày chết là ngày chúng ta từ bỏ ngôi nhà dưới đất để trở về nhà Cha trên
trời, như lòng hằng mong ước mà thi sĩ Tagore
đã diễn tả trong lời kinh tha thiết :
Như
đàn hạc hoài hương
Bay
thẳng về tổ ấm
Nguyện
đời con phiêu diêu
Qua
vùng trời thăm thẳm
Lên
tận chốn thiên đường
(x. Gitanjali, 103)
II. ĐI VỀ
NHÀ CHA TRÊN TRỜI
Chúng
ta được nghe rất nhiều lần rằng chết là một cuộc giải thoát, là một sự chuyển
đổi, là ngày sinh nhật trên trời, là cái cửa đưa vào cõi phúc trường sinh bất
tử. Những quan niệm ấy rất đúng, rất am
hợp với giáo lý Công giáo.
Hôm
nay chúng ta muốn diễn tả cái chết bằng những hình ảnh rất quen thuộc, rất cụ
thể đối với đời sống con người chúng ta. Hay nói rõ hơn : chết là thay đổi từ
nhà này sang nhà khác.
Người
tín hữu chúng ta có 4 ngôi nhà mà từ khi sinh ra cho đến chết, không ai có thể
ở ngoài những ngôi nhà ấy, dù muốn dù không.
1.
Ngôi nhà thứ nhất là “Căn nhà nơi cha mẹ
ta sinh ra”. Đây là nơi chôn nhau cắt rốn của con người, nơi ta được sinh
ra, được cha mẹ nuôi dưỡng, giáo dục để chúng ta lớn lên thành một con người
trưởng thành để giúp ích cho xã hội và Giáo hội. Nơi đây mọi người đoàn kết cùng nhau xây dựng
một gia đình êm ấm trong yêu thương và hòa bình.
2.
Ngôi nhà thứ hai là “Nhà thờ giáo xứ”,
nơi đây cha mẹ đem chúng ta đến lĩnh bí tích rửa tội để trở thành một thành
viên trong Hội thánh và làm con Chúa.
Nơi đây ta đến gặp gỡ Chúa với anh chị em, được lãnh các bí tích Thêm
sức, giải tội, bí tích hôn nhân. Và khi
ta đã nhắm mắt lìa đời thân xác ta lại được đưa đến nhà thờ lần cuối để giã
biệt mọi người.
3.
Ngôi nhà thứ ba là “Nhà mồ”, là chiếc
quan tài chứa đựng thân xác ta và bị chôn vùi dưới lòng đất. Mồ mả cũng là cái nhà cuối cùng chứa đựng thân xác ta. Nếu đọc
Thánh vịnh 48, ta phải xác định cái huyệt mồ là nhà cuối cùng của ta :”ba tấc đất mới thực là nhà”.
Như
vậy, chết là đi từ nhà sinh, qua nhà thờ đến nhà mồ. Nhưng cả ba nhà này chỉ có tính cách tạm bợ,
nhất thời. Tất cả chỉ được coi như cái quán trọ ven đường. Đã là quán trọ thì người ta chỉ dùng qua đêm,
hay một thời gian ngắn chứ không được coi như nơi thường trú.
4.
Ngôi nhà thứ tư là “Ngôi nhà vĩnh cửu”.
Đây là nơi thường trú vĩnh viễn, nơi mà mọi người tín hữu phải nhắm tới. Chúng
ta có thể gọi ngôi nhà nhà là “Nhà Cha trên trời”.
Trong
thư gửi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã đoan chắc với họ rằng :”Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất bị phá
hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu
trên trời, không do người thế làm ra” (2Cr 5,1).
Ngôi
nhà đó là nhà Cha chúng ta trên quê hương vĩnh cửu, nơi không còn khóc lóc than
van, không còn đau khổ, không còn chiến tranh. Ở đó, chỉ có tình yêu, niềm vui,
chỉ có bình an thuận hòa, chỉ có hạnh phúc miên trường, không bao giờ vơi,
không bao giờ tàn lụi.
John Bunyan, tác giả cuốn “Thiên lộ
lịch trình”, đã nói lúc ông gần qua đời :”Các
bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy khóc than cho chính các bạn. Tôi sẽ về
nhà Cha đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô : Ngài sẽ tiếp rước
tôi dù tôi là một tội nhân bởi công lao cứu chuộc của Con Ngài. Tôi tin rằng
chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và
sung sướng trong cõi đời đời”.
III. MUỐN
ĐƯỢC VỀ NHÀ CHA TRÊN TRỜI
Cả
bốn ngôi nhà đó Chúa đã mở ra cho chúng ta, nhưng không phải ai cũng đến được
ngôi nhà thứ tư là “Nhà Cha”. Muốn đến ngôi nhà thứ tư phải có điều kiện, phải
được chuẩn bị sẵn sàng vì người ta nói :”Sống
khôn, chết thiêng” sống sao thác vậy”.
1. Có
những người không sẵn sàng
Chết
là một thực tại hiển nhiên, chung quanh ta có nhiều người chết, nhưng không mấy
người để ý tới, người ta coi chết bằng một con mắt bàng quan, lạnh lùng.
Đời
là một chuyến đi, mà chuyến đi cuộc đời có điểm đến là cái chết; nhưng không ai
coi đó là cùng đích, mục tiêu cả. Tự
nhiên không ai muốn mau mau tới nơi, mà trái lại còn tìm cách lẩn tránh ngày
giờ kết thúc.
Đó
là nhận xét của triết gia Blaise Pascal
của Pháp thế kỷ 17. Ông nói :”Người ta tìm kiếm mọi thú vui giải trí,
người ta thậm chí lao mình vào công việc với tất cả đam mê, nhưng tựu trung đó
chỉ là những cách “đánh trống lảng” để
mình khỏi nghĩ đến cái chết mà thôi.
Nhưng sớm muộn thần chết vẫn lù lù trước mặt mọi người. Nó chấm dứt mọi cuộc vui chơi, mọi đem mê,
mọi vinh quang danh vọng ở đời. Nó san bằng mọi ngăn cách giữa người với người
: giầu nghèo sang hèn, vua chúa hay lê thứ, trai gái, mọi người đều bình đẳng
trước thần chết”.
Không
nghĩ đến chết đối với nhiều người trong thời đại ta, âu cũng là một lối thoát,
tuy giả tạo, khỏi bận tâm đến sự “rầy rà” đè nặng trên cuộc đời. Vì vậy, mới thấy xuất hiện lòng ham sống, yêu đời đến độ cuồng nhiệt của
mọi giới, nhất là giới trẻ, trong thời bình cũng như thời chiến.
Bởi
thế, bao người muốn chôn vùi đời mình trong “canh bạc thâu đêm, trận cười suốt
sáng”. Người ta lý luận rằng, cuộc
đời gang tấc, xuân thì mau qua, nếu không tìm cách hưởng thụ “cái già sồng sộc nó thì theo sau”, thì thật
uổng quá. Bởi vậy :
Cuộc hành lạc bao nhiêu lãi đấy
Nếu không
chơi thiệt ấy ai bù.
(Nguyễn Công Trứ)
Truyện : Thú vui mạnh hơn sự
chết
Ngày
xưa có một dân tộc ít người có tập tục là mỗi 7 năm sẽ đề cử một người lên làm
vua. Trong 7 năm làm vua, người ấy có toàn quyền muốn làm gì cũng được. Nhưng người ấy phải cam kết chấp nhận là sau
7 năm sẽ bị giết chết để nhường chỗ cho một người khác.
Dân
tộc ấy cứ tiếp tục sống như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là , nhiều người muốn
đổi mạng mình để lấy quyền hành và tự do theo ý muốn trong thời gian ngắn ngủi
(Giọt nước mắt cuối cùng, tr 71).
2. Có
những người biết sẵn sàng
Suy
niệm lời Chúa :”Ngươi là tro bụi và ngươi
sẽ trở về cùng bụi tro”(St 3,19), ta thấy cuộc đời chỉ là một giai đoạn
sống ở trần gian, được ví như bóng câu qua cửa sổ, cuộc đời sẽ qua đi và con
người sẽ phải về đời sau, nên phải chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng ấy.
Đại
triết gia Platon đã kể lại cuộc đối
thoại của Socrate với các đồ đệ về
vấn đề linh hồn bất tử, ngay trong tù, trước giờ ông phải uống thuốc độc kết
liễu đời mình, theo bản án của quan tòa. Socrate nói cái chết đó sẽ là một cuộc
mạo hiểm đẹp. Nó chẳng có gì phải sợ. Linh hôn là bạn của những thực tại thường
hằng, siêu việt. Chết là trở về với thế giới vĩnh cửu, chân thật, nơi nó đã
phát xuất.
Ngay khi còn sống,
triết gia cũng không gắn bó với thế giới vô thường, khả giác, chỉ sử dụng nó
cho mức tối cần mà thôi. Còn lúc làm triết
lý, tức là khi đi tìm cái chân, thiện, mỹ đích thực, ông càng dứt với nó, càng
tiến gần đến cùng đích hơn. Đối với triết gia, “sống là tập cho biết chết”.
Tác
giả Anon viết :”Tôi tin rằng chúng ta được sinh ra để chết, chết để có thể sống trọn
vẹn hơn. Tôi tin rằng tôi sinh ra để chết, chết mỗi ngày một phần ích kỷ, một
phần tự phụ, một phần tội lỗi” . Một
lối suy tư tuyệt vời ! Quả thật, chúng ta đang sống nghĩa là chúng ta đang chết, khi chúng ta
chết, là lúc chúng ta bắt đầu sống. Một nghịch-lý-thuận. Đó là triết lý “hiện
sinh” mà chỉ người có niềm tin Kitô giáo mới khả dĩ hiểu.
Cũng
với một cái nhìn lạc quan, thi sĩ Chateaubriand
nói :”Chính trong cái chết mà người Kitô hữu chiến thắng” . Cái chết dưới cái nhìn đức tin, không thể là
một khủng khiếp như người ta quá quen tưởng tượng. Người tín hữu cần nhìn thấy khía cạnh tốt đẹp
của sự chết : kết thúc cuộc lưu đầy, thoát khỏi tội lỗi, được Chúa Kitô tiếp
đón.
Nhìn
như thế, cái chết xuất hiện như một ngày đẹp nhất của cuộc đời, ngày sinh nhật
vào sự sống vĩnh cửu. Thánh Têrêsa thành
Truyện : Rồi cũng phải chết
Ngày
xưa, mỗi lần vua Ấn độ ra gặp thần dân, ông ngồi trên ngai đặt trên lưng voi,
có tiền hô hậu ủng.
Viên
quan đi trước xướng lên :”Đây là đấng thiên tử vĩ đại, là hoàng đế nước Ấn độ,
hùng cường và đáng kính phục, sống trong cung điện, lợp bằng trăm nghìn viên
hồng ngọc, và có hai vạn vòng hoa bằng kim cương.
Lời
tung hô vừa dứt, thì viên võ quan đứng sau nhà vua lại hô tiếp :”Đấng thiên tử
hết sức hùng cường và hết sức vĩ đại ấy, rồi cũng phải chết… Rồi cũng phải chết
. (Đỗ Đình Tiệm, Lương thực hôm nay, tr 181).
Hãy
dọn mình để đi về đời sau vì sống chết
là hai đầu mối của đời người : ta vào đầu này, ta ra cửa kia, không thể nào
khác được.
Triết
gia Heidegger gọi hiện hữu của con
người là “hiện hữu qui tử”. Còn thi sĩ Tagore
lại ví von, coi việc sống chết như hai bầu sữa mẹ : bú xong bên này thì bú sang
bên kia :
“Khi
mẹ giằng con khỏi bầu vú bên này, con òa khóc.
“Nhưng
liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia”.
Cha
Duval viết :”Trời của bạn sẽ được hình thành ngay dưới đất bằng cánh tay của bạn”. Đối với các tín hữu, với những người đang
sống đức tin, trời không là cái gì hoàn toàn mới mẻ, nhưng là sự khai nở, tỏ
hiện và thành toàn cái đã có sẵn trong họ.
Guy de Larigaudi cũng nói :”Chúng ta xây dựng đời đời trong mọi hành vi
của mình : đó là khả năng kỳ diệu của con người. Chúng ta xây dựng Nước Trời
từng mỗi phút giây”.
Đức
Giêsu cũng đã dùng những dụ ngôn “Tiệc cưới và chiếc áo cưới” (Mt 22), dụ ngôn
mười người trinh nữ (Mt 25) để nói về ngày Cánh chung. Ngài mời gọi chúng
ta luôn sẵn sàng tỉnh thức, khoác áo tân
hôn và cầm đèn sáng, chờ đợi Ngài đến vào lúc hoàng hôn của cuộc đời.
Sự
chết và đời sau không hề nhuốm mầu đen tối hay đau thương, tang tóc, nhưng rực
rỡ như hội hoa đăng, hân hoan vui mừng như tiệc cưới của hoàng tử.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim Phát
Đà Lạt