ĐƯỜNG VÀO CÕI SỐNG

+++

 

I. CHẾT : MỘT THỰC TẠI

 

          Chết là một thực tại quá hiển nhiên, không cần phải chứng minh, không ai chối cãi được. Xưa nay chưa ai đã thoát chết. Cái chết vẫn hằng theo dõi, ám ảnh tâm trí mọi người, dù người ta muốn quên hay chối bỏ nó.  Nhưng càng xa tránh, càng chối bỏ, nó lại càng theo sát chặt chẽ.

 

          Ám ảnh bởi cái chết luôn rình rập ở bên, người ta đã cố gắng tìm hiểu về cái chết nhưng đều đi đến chỗ bế tắc, không giải quyết được vì, thực ra, sự sống hay cái chết là một huyền nhiệm.

 

          Jean Cocteau cũng đã bàn về cái chết trong phim Orphée.  Và triết gia Albert Camus cũng đã nói nhiều đến cái chết trong tiểu thuyết được xếp vào loại tiêu biểu nhất của ông : Cuốn “Dịch hạch” (La Peste). Trong hai tác phẩm này, các tác giả đã cho ta thấy chủ quyền của thần chết trên con người : Con người bất lực trước cái chết.

 

          Không cần phải lý luận nhiều, tổ tiên ta ngày xưa đã biết chấp nhận cái thực tại bi đát đó, nên đã cố gắng sống tốt, ăn ở ngay lành theo phương châm “Sống khôn chết thiêng”,  ra đi nhưng còn phải để lại tiếng thơm cho hậu thế :

 

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

(Văn Thiên Trường)

Ngàn xưa, người thế ai không chết,

Chết, để lòng son rạng sử xanh.

 

          Nhiều nhà khoa học trên thế giới cố gắng tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết, nghĩa là ngày nào đó khám phá ra được thứ thuốc “trường sinh”.  Vì thế, báo Tuổi trẻ ngày 25/11/2002 có đăng tin trong bài “Gen đã tạo được trường thọ”, với những lời lẽ như sau :”Chúng tôi tin rằng sắp tới đây – lời một giáo sư sinh học người Nga – sẽ có công nghệ cho phép kéo dài thêm cuộc sống của con người ít nhất gấp 2-3 lần, nếu không muốn nói là vô tận”.

 

          Nhưng bao nhiêu nỗ lực của các nhà bác học trên thế giới chỉ còn là một “giả thuyết”.  Theo các ông thì đó là điều có thể cũng như bao điều có thể khác, vì căn cứ vào những khám phá luôn mới mẻ của trí óc con người, các ông có quyền và có lý để nghĩ như vậy.

 

          Nhưng đối với chúng ta là những Kitô hữu, theo Kinh Thánh, điều đó không thể nào thực hiện nổi, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ :”Người sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” (St 3,19).

 

          Đây lá án phạt nguyên tổ phải mang vì tội không nghe lời Chúa. Án phạt này truyền sang cả con cháu. Phải chi ông bà đã không phạm tội thì đã không phải chết, và cái chết đó chắc chắn con cháu cũng không phải gánh chịu, vì Chúa đã dặn trước là  ngày nào ăn trái cây biết lành biết dữ, ngày đó ông bà sẽ phải chết :”Nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,17).

II. SỰ GÌ XẨY RA ĐÀNG SAU CÁI CHẾT ?

 

          Có đời sau không” là một câu hỏi luôn tra vấn con người, làm cho con người phải băn khoăn, suy nghĩ để tìm ra giải đáp.

 

          Hay nói cách khác, chết là hết hay chết là bước vào một thế giới khác ?  Có thật một sự sống  sau khi từ giã cõi đời này hay đó chỉ là sự hão huyền, giả tưởng ? Câu hỏi đó vẫn cứ đặt ra cho con người từ ngàn xưa đến ngàn sau.

 

          Từ ngàn xưa đến ngàn sau, muôn người vẫn còn thao thức và băn khoăn cho một lời giải đáp. Bởi sống – chết là một huyền nhiệm.  Con người phải biết sống để khám phá huyền nhiệm đời mình. Thao thức, cật vấn về đích điểm, tận cùng của kiếp người là gì, nghĩa là  vẫn còn trăn trở để tìm cho mình một lẽ sống.

 

          Triết gia Heidegger cho rằng : không ai chết hai lần và cũng không ai trường sinh bất tử; không ai chết thay ai, mỗi người đều phải chết cho cái chết riêng tư của mình. Do vậy, tôi phải biết thao thức về cuộc đời, suy tư về phận người và ngẫm suy về sự chết.  

 

1. Quan niệm của người vô tín

 

          Có nhiều người quan niệm rằng chết là chấm hết. Đó là một sự giã từ vĩnh viễn. Sự giã từ này không luyến tiếc, không thương nhớ, chẳng khắc khoải lo âu. Vì không có bờ bên kia của sự chết. Tất cả đều đặt trong chữ “hết”. Chết là hết. Đó là qui luật, là định mệnh không thay đổi.

 

          Vì quan niệm đời này đã không được gì, đời sau cũng chẳng có, vậy việc gì mà không hưởng thụ, không sống cho sướng thân. Thật đúng với Aritippus (chủ nghĩa khoái lạc, 435-356 trước công nguyên) : Hãy ăn uống, tận hưởng mọi thú vui trần gian, vì rồi mai đây chúng ta sẽ chết.

 

Cuộc hành lạc bao nhiêu lãi đấy

Nếu không chơi thiệt ấy ai bù ?

(Nguyễn công Trứ)

 

          2. Quan niệm của dân gian

 

          Đạo lý truyền thống của Việt nam quan niệm về “Nghĩa tử nghĩa tận”, bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian.

 

          Một quan niệm nhân văn khác là “sinh ký tử qui”, xem cuộc đời sống ở trên mặt đất là cõi trọ tạm bợ, chết không phải là hết, mà chết là đi về.

 

          Vì vậy, tín ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm, cũng sinh hoạt như ở dương thế. Dó đó, có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, quần áo, tiền bạc, đôla âm phủ… để viện trợ cho người chết.

 

          Rằm tháng 7 âm lịch, trùng với lễ Vu Lan của Phật giáo, là ngày xóa tội vong nhân, người ta cúng cô hồn để bố thí thức ăn cho những hồn ma lang thang.

 

          3. Quan niệm của Phật giáo

 

          Phật giáo quan niệm  : chết không phải là hết hay chấm dứt mọi cảnh khổ đau nhưng là tiếp tục cho đến khi hoàn toàn giải thoát được hết các ác nghiệp.

 

          Luân hồi trả nghiệp không chỉ là quan niệm Phật giáo mà còn là quan điểm của các tôn giáo khác trước khi Phật giáo ra đời như Ấn giáo, Ba-la-môn giáo. Thế nên, chết không phải là hết mà chỉ là sự thay đổi từ cảnh giới này sang cảnh giới khác.

 

III. CHẾT LÀ ĐI VÀO CÕI SỐNG

 

          Theo quan niệm Kitô giáo của chúng ta : người ta ai cũng nói đến cái chết, sợ chết, trốn chết, quên chết, hoặc đón nhận cái chết. Mỗi người quan niệm về sự chết một lối, nhưng mọi người phải quan niệm rằng chết là ngưỡng cửa đi vào cuộc đời hay chết là con đường đưa tới sự sống.

 

          Nói cách khác, chết không phải là hết, là mất mát, là đi vào ngõ cụt, đi vào cõi hư vô mà chết là một sự chuyển đổi như chúng ta thấy đọc trong kinh Tiền tụng lễ An táng :”Đối với chúng ta là những Kitô hũu, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nơi trú ngụ dưới trần bị tiêu hủy, chúng con sẽ về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời”.

 

                                      Truyện : Chết là chuyển đổi.

 

          Đại tá David Marcus bị chết trong trận chiến ở Israel tháng 6 năm 1948,  Trong bóp của ông, người ta thấy một tấm thẻ ghi lại những lời thi vị hóa cái chết như sau :

 

          “Tôi đang đứng trên bờ biển. Bên cạnh tôi một con tầu đang trương buồm trắng phất phơ trong gió sớm hướng về đại dương.  Con tầu trông thật đẹp và mạnh mẽ. Tôi đứng nhìn theo nó cho đến khi  nó chỉ còn là một dải mây trắng,  nơi trời và nước hòa lẫn với nhau.

          Lúc đó có một người đứng cạnh tôi thốt lên :

          - Kìa ! Con tầu biến mất rồi.

          - Biến đi đâu ?

          - Biến khỏi tầm mắt tôi, thế thôi ! Nó vẫn là một cột buồm, là vỏ tầu rộng lớn như lúc nó rời cạnh tôi và cũng vẫn đủ khả năng mang hàng hóa tươi sống đến nơi đã định. Kích thước con tầu chỉ giảm đi trong ánh nhìn của tôi chứ không phải nơi chính nó.

          Và ngay lúc đó tiếng người cạnh tôi vang lên :

          - Kìa ! Nó biến mất rồi !

          Thì lại có nhiều tiếng khác ở chân trời đàng kia vang lên đầy hoan hỉ :

          - Kìa ! Nó đến rồi.

          Và đó chính là lúc chết.

 

          Đúng vậy, đối với người tin Chúa chết là con đường đưa tới sự sống. Khi chết con người được đi vào cõi sống trường sinh bất diệt ở một cõi đời khác, như Chúa Giêsu đã hứa cho những ai tin Ngài :”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

 

          Người tin Chúa dù có chết cũng sẽ sống. Nhưng sự sống đây không giống, và cũng không còn là sự sống, như ta đang sống hiện nay, với một không gian cư ngụ rõ rệt và những phiền hà, vui tươi, phấn khởi, lo lắng v.v… “Vì từ khi trong đám người chết sống lại, người ta không lấy vợ lấy chồng nữa, mà sẽ như thiên thần trên trời” (Mc 12,25).  Đó là lời tiên báo cuộc đời mới con người sẽ được sống, sau khi trút bỏ thân xác, đợi lúc hồn xác tái hợp trong buổi thẩm chung ngày tận thế.

 

          Chúng ta gọi thế giới này là xứ sở của những người sống, nhưng thật ra phải gọi là xứ sở của những người đang chết.  Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta biết khi cái chết đến, chúng ta không rời khỏi thế giới của người sống, nhưng đi vào xứ của kẻ sống.

          Tin tưởng rằng chết là một sự chuyển đổi từ đời này sang đời sau, nhạc sĩ Gounod đã hát lên rằng :”Chết là ra khỏi đời này để đi vào cõi sống”.

 

          Trước khi chết, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng cũng nói một cách tự tín và lạc quan với những chị em đang đứng chung quanh rằng :”Em không chết, em đi vào cõi sống”.

          Mary Webb cũng nói lên tư tưởng đó :”Cái chết là khung cửa mở vào đường đi lên trời”.

 

          Trước tư tưởng nghịch thường đó, ta tự vấn : Phải chăng đó là một câu nói quá đáng hoặc là một điều mơ mộng ?  Khi tuyên xưng : sự sống đời sau hoàn hảo hơn sự sống đời này, người tín hữu có hiểu điều mình quả quyết không ?  Dĩ nhiên giáo lý Công giáo dạy rõ ràng về những điều đó.

 

IV. CHUẨN BỊ ĐI VÀO CÕI SỐNG

 

          Người Việt nam biết phòng xa, không những lo cho mình nhưng còn lo tương lai cho con cháu. Trong cuộc sống hằng ngày, không những chỉ lo cho ngày hôm trước mà còn phải lo cho ngày hôm sau, không phải chỉ lo cho hiện tại mà còn phải lo cho tương lai.  Tư tưởng ấy được gói ghém trong câu tục ngữ :”Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”, nghĩa là phải lo tích trữ lúa thóc phòng khi đói kém, cũng như phải lo sắm quần áo phòng khi trời lạnh.

 

          Trong đời sống nông nghiệp, cha ông chúng ta  ngày xưa đã có kinh nghiệm về sự nghèo đói, túng thiếu, nhiều khi đã làm việc cật lực mà cũng không đủ ăn, vẫn túng thiếu. Để tránh sự nghèo đói, túng thiếu, các ngài đã nói lên kinh nghiệm của mình để khuyên răn con cháu :

                            

Có cấy có trông, có trồng có ăn.

 

          Cha ông chúng ta cũng chẳng hiểu biết gì về triết học, chẳng hiểu “nguyên lý nhân quả” là gì, chẳng biết diễn tả nó thế nào, nhưng đã biết áp dụng nhuần nhuyễn nguyên lý ấy vào trong cuộc sống. Theo nguyên lý nhân quả thì nguyên nhân  sẽ sinh ra hậu quả, nguyên nhân tốt thì sẽ dẫn đến hậu quả tốt, nguyên nhân xấu thì sẽ dẫn đến hậu quả xấu. Có một mối tương quan biện chứng giữa nhân và quả. Như vậy “có cấy” là nguyên nhân và “có ăn” là hậu quả, nếu không có nguyên nhân thì không có hậu quả, nghĩa là không trồng thì không có ăn.

 

          Đối với người Kitô hữu chúng ta cũng thế, cuộc đời tại thế này được coi như nguyên nhân và số phận đời sống mai hậu là hậu quả.  Theo nguyên lý nhân quả thì nếu đời sống ở trần gian này tốt lành thì số phận sau này sẽ tốt đẹp, ngược lại, nếu đời sống ở trần gian mà xấu xa thì số phận trong cuộc sống mai hậu sẽ vô cùng bi đát.

 

          Thiên Chúa là Đấng từ bi và thương xót, nhưng cũng rất công bằng,  Ngài cũng theo nguyên tắc mà cha ông chúng ta vẫn hằng quan niệm :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt.

 

          Như vậy, cuộc sống mai hậu của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào cuộc sống của chúng ta trên trần gian này.  Ở trần gian này phải gieo trồng thì sau này mới có cái mà gặt hái. Muốn xây ngôi nhà trên trời thì ngay từ bây giờ chúng ta phải gửi vật liệu lên, nếu không có vật liệu thì lấy gì mà xây !

 

          Tương lai hoàn toàn nằm ở trong tầm tay chúng ta. Chúng ta có toàn quyền quyết định và đem ra thực hành với ơn Chúa giúp.

 

          Vậy, ngay từ hôm nay và ngay từ bây giờ, chúng ta hãy bắt tay vào việc, đừng chần chừ vì thời gian có hạn, khi giờ chết đến chúng ta không kịp sở tay, có nói như nhà thi sĩ :”Ôi thời gian, ngươi hãy ngừng bay”, cũng vô ích. Thời gian không có tai để nghe chúng ta.  Thánh Phaolô không ngừng lặp đi lặp lại :”Thời gian thật vắn vỏi”. Cần ý thức điều đó và hành động kịp thời.

 

                                      Truyện : Không có thời giờ

 

          Trong bài thơ “Sách sự sống” một thi sĩ khuyết danh đã viết :

          “Tôi quỳ cầu nguyện, nhưng chẳng được lâu : tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp tốc đi làm vì hóa đơn đòi tiền chồng chất.

          Vì vậy, tôi quỳ gối, đọc vội một vài kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn phận Kitô hữu của tôi đã làm xong và tâm hồn tôi thanh thản, bình an.

          Suốt ngày tôi không có thời giờ để buông một lời chào hỏi vui vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn bè vì sợ họ nhạo cười tôi.

          Tôi luôn miệng la lớn : không có thời giờ, không có thời giờ, nhiều chuyện phải làm quá !  Không có thời giờ để lo cho phần rỗi linh hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.

          Tôi trình diện trước mặt Đức Chuá; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.

          Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói :”Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự tính viết xuống, nhưng chẳng lúc nào Cha có thời giờ”.

 

         

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt

 

 

 

         

 

 

         


Mục Lục