SỰ TỬ
NHƯ SỰ SINH
+++
Ngày
thứ Tư Lễ Tro, chúng ta đã lãnh nhận được một chút tro trên đầu cùng với lời
nhắc nhở :”Hỡi con, hãy nhớ mình là bụi
tro và sẽ trở về cùng tro bụi” (St 3,19).
Chúng ta hãy suy nghĩ về lời nhắc nhở đó để chuẩn bị cho ngày ra đi vĩnh viễn của cuộc đời mỗi người.
I. SUY NGHĨ VỀ SỰ CHẾT
NgườI
ta thường nói : Ai sống trên trần gian này củng phải đi qua bốn cửa ải. Đó là sinh, lão, bệnh, tử : sinh ra, già đi,
bệnh tật rồi chết. Đôi lúc có những
người chỉ đi qua hai cửa ải, đó là sinh
và tử. Đây là trường hợp của những
đứa trẻ chết non.
Bình
thường mỗi người đều phải đi qua bốn cửa ải đó, có người sớm, có người
muộn. Cho nên con đường sinh tử là mẫu
số chung cho tất cả mọi người sống trên trần thế này.
Vậy
chết là gì ?
Chết
thông thường được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngưng vĩnh
viễn mọi hoạt động sống (không thể phục hồi) của mọi cơ thể.
Tuy
nhiên, một định nghĩa cho sự chết còn tuỳ thuộc vào các quan điểm tôn giáo, tín
ngưỡng cũng như lãnh vực liên hệ.
Trong
y học, chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống.
Môn khoa học nghiên cứu về sự chết
đã trở thành ngành học riêng gọi là “tử
vong học” (thanatology).
Cái
chết trong cái nhìn của người Việt nam thì người ta vẫn quan niệm “sống
gửi, thác về”, xem cuộc sống trên mặt đất chỉ là cõi tạm bợ, chết không
phải là hết.
Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống
làm ma không chồng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Tín
ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm,
cũng sinh hoạt như người dương thế. Do
đó, có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, áo quần, tiền đôla âm phủ
v.v… để “viện trợ” cho người chết.
Ngoài
ra, rằm tháng bảy âm lịch, trùng với lễ
Vu Lan của Phật giáo, là ngày xá tội vong nhân, người ta cúng cô hồn để bố thí
thức ăn cho những hồn ma lang thang.
Người
Việt nam chúng ta coi “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn” :
chết mà vẫn sống, mất mà vẫn còn.
Suy
nghĩ như vậy nên người ta mới dùng những từ ngữ khác để diễn tả cái chết. Tuy từ ngữ khác nhau, nhưng ý nghĩa thì giống
nhau, đều có ý nghĩa tích cực.
1.
Qua đời : tại sao lại dùng từ “qua đời” thay vì chết ? Đó là người ta
muốn nói rằng người chết đã vượt qua đời tạm này để về đời sau. Bởi vì chết không phải là huỷ diệt nhưng là
một sự chuyển đổi : mặc lấy sự bất tử (1Cr 15,51).
2.
Mất : Từ ngữ “mất” thì vẫn còn
tương đối, có thể mất nơi mình mà lại còn ở nơi người khác, ví dụ mất cái đồng
hồ. Còn chữ mất ở đây diễn tả sự mất mát ở đời này nhưng còn tồn tại ở đời sau.
Rõ mất mà lại còn.
3.
Sinh thì : Sinh thì là lúc được
sinh ra. Sở dĩ gọi giờ sinh thì là chết
vì lúc chết ở đời này thì đồng thời lại sinh ra ở trên trời. Cho nên có thể gọi
ngày chết là ngày sinh nhật trên trời.
II. NHƯNG CHẾT RỒI SẼ RA SAO ?
1. Những
người ngoài Kitô giáo
Người
ngoài Kitô giáo cũng coi cuộc sống ở trần gian này là một cuộc sống tạm bợ,
không chắc chắn vững bền. Cho nên, ngay từ xưa ông Hoài Nam Tử đã nói :”Sinh ký, tử qui” : sống là gửi và chết là về”. Chết là về nhưng về đâu, ông chưa tìm được câu
trả lời. Câu trả lời còn bỏ lửng cho người thời nay bàn luận.
Nhiều
người cho chết là về với ông bà tổ tiên, chết là xuống suối vàng, chết là tiêu
diêu nơi cực lạc, chết là về nơi chín suối,
là vào Niết bàn… Tất cả những kiểu nói đó đều bao hàm ý tưởng là có đời
sau, chứ chết chưa phải là hết.
Thi
sĩ Hồ
Dzếnh cũng xác định rằng : chết
nhưng hồn vẫn còn sống và không hư nát khi ông nói :
Nát thân không nát nổi hồn,
Lẩn trong cái chết vẫn còn cái đau.
Nhà
văn Nhất
Linh, một ngày bâng khuâng, ông tự hỏi mình :
-
Chết rồi sẽ ra sao nhỉ ?
Nghĩ
ngợi một chút, rồi ông lại tự trả lời lấy :
-
Hồi hai Bà Trưng, tôi chưa ra chào đời.
Thế khi ấy tôi ở đâu ? Chết, là trở về với tôi hồi ấy.
Nhà
văn Nhất Linh chưa tìm ra câu trả lời
cho câu hỏi của mình. Bế tắc ? Nhưng qua
đó ta thấy ông không chủ trương chết là hết, chết mà vẫn còn, nhưng chưa biết
còn như thế nào, chưa biết “trở về với
tôi hồi ấy” ra sao !
2.
Đối với người không có niềm tin
Ngày
nay có một số người tin rằng :”Thiên Chúa
trốn xã hội này”. Người khác lại
buông câu chắc nịch :”Thiên Chúa chết rồi”,
như nhà thơ vô thần đã viết :
Thượng Đế chết rồi, chỉ còn mình ta
Còn cụm tre
xanh với trái đất già.
(Tố
Hữu)
Nhìn
ra các nước ngoài, chúng ta cũng thấy có những người chủ trương và truyền bá
học thuyết :”Thiên Chúa đã chết” , ví
dụ như ông Feuerbach, Karl Marx, Nietszech, Sigmund Freud, Albert Camus, Jean
Paul Sartre…
Triết
gia hiện sinh vô thần Jean Paul Sartre của Pháp chủ trương : “La vie est absurde” : đời là phi
lý. Tại sao ông ta cho đời là phi lý ?
Bởi vì ông chưa tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống. Ông băn khoăn tự hỏi : tại sao tôi sinh ra
trong đau khổ, sống trong đau khổ và chết cũng trong đau khổ ? Nếu cuộc sống là phi lý thì cái chết lại càng
trở nên vô nghĩa hơn.
Truyện : Ông sẽ đi về đâu ?
Sau
những năm tháng cần cù, khôn khéo làm ăn, hãng của ông Hãnh đã phát triển không
ngừng. Từ một nhóm người làm việc trong nhà xe của ông thuở trước, nay hãng ông
đã thu nhận hơn trăm công nhân. Và ông, từ một đồng nghiệp cần cù, khiêm tốn,
trở thành một chủ nhân ông, một CEO, quá hãnh diện với thành quả của mình đến
độ trở nên kiêu hãnh, khoe khoang, và coi thường nhân viên.
Hôm
tiệc tất niên, sau khi thưởng tiền Tết cho nhân viên, và nghe lời chúc Tết trộn
lẫn lời tâng bốc của đại diện nhân công, ông Hãnh cao hứng đáp lời :
-
Nếu hôm nay tôi chết, không biết hãng ta sẽ đi về đâu ? Các bạn sẽ đi về đâu nhỉ ?
Một
anh nhân viên trai trẻ tính tình bộc trực, đáp ngay :
-
Thưa ông chủ, câu hỏi ông chủ thật thâm thuý, đáng cho toàn thể công nhân viên
hãng ta suy niệm suốt năm mới. Nay năm hết, Tết đến, xin phép cho tôi mượn lời
ông chủ để soạn thành hai câu đối Tết, treo ngay cổng vào hãng ta .
-
Được lắm. Vậy anh đối làm sao ?
-
Thưa ông chủ, tôi xin đối như sau :
“Nếu
hôm nay ông chết, không biết hãng ta sẽ đưa đám ai ? Còn ông sẽ đi về đâu “?
Ông
chủ : - ???
3.
Đối với người Kitô hữu
Văn
hào Paul
Claudel đã thuật lại, hồi nhỏ, đã nhiều lần ông thắc mắc hỏi mẹ ông :”Chết là gì “ ? Nhưng mẹ ông chỉ im lặng, nhìn ông mà không chịu nói gì. Thế
rồi , một hôm, bên cạnh nhà ông có người chết, ông tò mò quan sát từ lúc xác
người này còn ở trên giường, cho đến lúc được khâm liệm vào quan tài, và đóng
nắp quan tài lại. Ông về nhà năn nỉ hỏi mẹ cho bằng được :”Chết là gì” ?
Ông
thuật tiếp :”Có lẽ, mẹ tôi cho là tôi đã đủ khôn lớn, nên mẹ tôi vào tủ sách
của gia đình, lấy cuốn Thánh Kinh ra. Mẹ
tôi mở chương 13 sách Phúc âm theo thánh Gioan, mẹ tôi thong thả đọc :”Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của
người đã đến, giờ phải rời bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha…” rồi mẹ tôi âu
yếm nhìn tôi và nói “Con ạ, chết là bỏ thế gian để trở về với Chúa Cha”.
Thật
là một câu định nghĩa đầy tinh thần đạo đức, đầy hy vọng, đầy an ủi cho mỗi
người chúng ta. Mỗi người chúng ta sẽ
chết, và sẽ được trở về với Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Người là Cha đang lo lắng mọi sự cho ta, và
sẽ đón chúng ta, trong giây phút sau cùng, về sống cuộc đời vĩnh viễn với Ngài.
Như
vậy, chết đối với người Kitô hữu chỉ là sự chuyển đổi. Chết là lên đường về nhà
Cha. Cuộc đời con người như một cuộc
hành trình về quê hương nên mới nói rằng :
-
Sinh ra là lên đường
-
Sống là tiến bước trên đường
-
Chết là tới quê hương.
Do
đó, đối với chúng ta, chết là kết thúc cuộc lữ hành ở trần gian để về nhà Cha.
“Về
nhà Cha”, cụm từ này, trước hết mang tính chất niềm tin. Nhưng cao cả
hơn, nó còn là một lời tuyên xưng đức tin.
Rõ ràng khi nói “Về nhà Cha”, nghĩa là chúng ta tin rằng, sau cái chết
không phải là hết. Đúng hơn, đó là một sự trở về : Từ giã cõi sống tạm này để
về nhà Cha, về với Cha, về cõi vĩnh hằng, và cũng là được Cha gọi về, được Cha
triệu hồi về.
Cũng
vào khoảng cuối mùa Phục Sinh, Hội thánh long trọng mừng lễ Chúa Giêsu về trời,
Chúa về trời là về cùng Cha, về nhà Cha.
Chúng
ta nhớ lại, ngay trước lúc chịu tử nạn, Chúa từ giã các môn đệ :”Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào
Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Nếu không, Thầy
đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và
dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu
thì các con cũng ở đó” (Ga 14,1-3).
Khi
mà Chúa sắp bước vào cuộc thương khó, cái chết đang gần kề, lòng các môn đệ rối
bời xao xuyến vì ngỡ như mình mất đi nơi nương tựa vững chắc, vậy mà chính giây
phút ấy, Chúa Giêsu lạ nói :”Lòng các con đừng xao xuyến”, rồi lại “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở’, để
bây giờ, chính Thầy đã về nhà Cha mà dọn chỗ cho các con. Thầy dọn chỗ như thế, là để cuối cùng, các
con cũng sẽ về nhà Cha cùng với Thầy. Những lời an ủi ấy cần thiết biết bao trong
giờ phút lo âu này. Nó mang lại hơi ấm, phần nào giúp các môn đệ khỏi ngã lòng.
Chúa
Giêsu về trời, nghĩa là Ngài về nhà Cha. Ta biết mình sẽ được về trời với Chúa Giêsu, vì thế mà
biết mình sẽ về nhà Cha như Ngài, vì
Ngài đã hứa :”Thầy sẽ trở lại đưa các con
đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó”.
Nghĩ
về cái chết, người Kitô hữu không bi quan, nhưng phải lạc quan, sự lạc quan
trong đức tin. Nhờ thái độ của đức tin, họ nói về cái chết không như một kết
thúc của cuộc sống, nhưng như cái đích phải đến ở phía cuối cuộc hành trình trở
về nhà Cha của một đời người.
Truyện : Vui ngày chết
Thánh
Ambrôsiô kể rằng dân chúng
III. CHUẨN BỊ CHO NGÀY VỀ NHÀ CHA
Thi
hào Victor
Hugo kể rằng : một hôm vào mùa xuân, ông thấy chỉ còn có một con chim
trong cái chuồng rộng lớn, ông vào bắt nó : phải vất vả lắm mới bắt được, rồi
ông ra gần ban công thả nó đi. Cảm hứng trước cảnh tượng ấy, ông viết :”Nhìn
con chim được phóng thích và đang bay đi. Ngắm con vật đáng thương ấy đang
khuất dạng ngoài khơi, tôi trầm ngâm, bụng bảo dạ rằng : cái chết của tôi cũng
như thế”.
Trong
đám tang nhà văn hào Honoré de Balzac, ông đã dõng dạc tuyên bố :”Không, tôi
không chán lặp lại điều ấy, không, đó không phải là đêm tối, đó là ánh sáng. Đó
không phải là tận cùng, đó mới chỉ là khởi nguyên. Đó không phải là hư vô, đó
là vĩnh cửu” (Parvilliez. Niềm vui trước sự chết, tr 28).
Sống
chết là hai đầu mối của đời người : ta vào đầu này, ta ra cửa kia, không thể
nào khác được.
Triết
gia Heidegger
gọi hiện hữu của con người là “hiện hữu
qui tử”. Nhưng thi sĩ Tagore
lại coi việc sống chết như hai bầu sữa mẹ : bú xong bên này thì bú sang bên kia
:
“Khi
mẹ giằng con khỏi vú bên này, con oà khóc,
“Nhưng
liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia”.
Vì
thế nên
Con yêu đời trong kiếp sống trần gian
Thì con cũng yêu cả
giờ ly trần
Sống chết là chi, khi
đời vẫn tiếp :
Sự sống đời đời chính
Chúa tặng ban.
Luôn
tâm niệm cuộc sống ở trần gian chỉ là cuộc hành trình đi về nhà Cha, người Kitô
hữu sống trong lạc quan chờ đợi. Đau khổ
và cả cái chết cũng không làm cho họ chùn bước.
Ông
Baruel
trong cuốn “Sử ký hàng giáo sĩ
thời cách mạng” có ghi lại câu nói sau đây của Viollet, người đã đưa 124 linh
mục lên máy chém :”Tôi thực sự không kềm
nổi, tôi rất đỗi ngạc nhiên từ đó đến nay, tôi không hiểu được Linh mục của các
ông đã đi tới sự chết với một vẻ bình tĩnh như thể họ đi ăn cưới vậy”.
Chúng
ta bước vào thời gian ngay lúc vừa mở mắt chào đời, và ra khỏi đó khi giờ chết
đến. Khi suy nghĩ về thời gian, ta thường gặp cám dỗ chính đó là thái độ thoái
thác. Tất cả chúng ta quen có cái khuynh hướng nhắm tới tương lai hay lại quay
về với quá vãng một cách thái quá. Do đó, ta trở nên những kẻ bạo tợn hoặc nản
lòng.
Một
thanh niên đã nói :”Lúc này ta cứ ăn chơi cho đã… sau này sẽ sống nghiêm túc
hơn. Một ông già, với quá khứ rỗng không công nghiệp và đầy tràn tội lỗi, đã
kêu lên :”Giờ này thật đã quá muộn ! Tôi đã làm hỏng mất cuộc đời”!
Nhưng,
trước mặt Chúa, không khi nào quá sớm, không bao giờ quá muộn… giây phút hiện
tại là hồng ân cần nắm giữ. Đó là giây
phút cứu độ. Bí quyết thành công của con người, của ơn Chúa, là can đảm và tin
tưởng chấp nhận thời gian trước mắt.
Thời
gian hiện tại sẽ đáp ứng nhu cầu thiêng liêng và trần thế của ta cách chính đáng
hơn. Nhờ đó, ta đón nhận từng giọt sự sống và tìm cách làm phong phú đời mình.
Phương
thế hữu hiệu để khỏi làm hỏng đời mình, là dù lúc nào, tuổi nào, ta cũng dính kết trọn vẹn vào giây phút hiện
tại, như chốt cắm điện dính vào với dòng điện, để phát toả ánh sáng và sức mạnh
(Charles Lebrun, Vượt qua cõi hồng trần, tr 20).
Thi
sĩ Chateaubriand nói : “Chính trong cái chết mà người Kit ô hữu
chiến thắng”.
Cái
chết dưới cái nhìn đức tin, không thể là một điều khủng khiếp như người ta quen
tưởng tượng. Tín hữu cần nhìn tới khía
cạnh tốt đẹp của sự chết : kết thúc cuộc lưu đầy, thoát khỏi tội lỗi, được Chúa
Kitô đón tiếp.
Nhìn
như thế, cái chết xuất hiện như một ngày đẹp nhất của cuộc đời, ngày sinh nhật
vào đời sống vĩnh cửu. Thánh Têrêsa
thành
Thánh
Phaolô đã nhắc nhở chúng ta :”Quê hương
chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến
cứu chúng ta” (Pl 3,20). Cuộc sống của chúng ta là một cuộc chuẩn bị cho ngày về quê hương
vĩnh cửu. Hãy tin tưởng. Hãy phấn khởi
và sẵn sàng , nỗ lực chuẩn bị cho ngày
sau hết của đời mình : “sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo
xứ Kim phát
Đà lạt