LÁ THU KÊU XÀO XẠC

+++

 

          Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

          Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng :

           “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, 

          và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về,

          để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ.

          Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức;

          Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng,

          đặt chúng vào bàn ăn,

          và đi lại hầu hạ chúng.

          Nếu canh hai hoặc canh ba,

          chủ trở về mà gặp thấy như vậy,

          thì phúc cho các đầy tớ ấy.

          Các con hãy hiểu biết điều này là

          nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến,

          ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình.

          Cho nên các con hãy sẵn sàng :

          Vì giờ nào các con không ngờ,

          thì Con Người sẽ đến”.

                                      Đó là Lời Chúa

 

I. MÙA THU LÁ RỤNG.

 

          1. Cảnh sắc bốn mùa.

 

          Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật. Không có gì ở ngoài bàn tay Thiên Chúa. Ngài đã ban cho con người năm tháng ngày giờ, thời tiết thuận hoà bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau : hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông rồi lại tiếp tục mùa xuân, thời tiết cứ thế xoay vần theo quy trình Chúa đã ấn định.

 

          Mỗi mùa có vẻ đẹp của nó : mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa lá khoe sắc thắm tươi làm vui thú lòng người. Mùa hạ cây cối phát triển rồi sinh hoa trái. Mùa thu quả cây chín mọng đem hương vị đến cho cuộc sống con người, đồng thời cũng là mùa lá vàng rơi.  Mùa đông cây cối trút lá đứng chịu tang, nhưng cũng là thời gian chuẩn bị cho mùa xuân sắp tới.

 

          2. Mùa lá rụng.

 

          Cây cối sinh trưởng theo mùa : mùa xuân cây đam chồi nảy lộc rồi sinh hoa kết quả. Sang đến mùa thu thì quả đã chín, đến mùa thu hoạch, nhưng đồng thời lá cây đã đổi sang màu vàng và bắt đầu rụng.

 

          Mùa thu cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Vẻ đẹp của mùa thu làm ngẩn ngơ tâm hồn thi sĩ. Làn sương mỏng giăng ngang phía chân trời khi hoàng hôn về, cùng với gió chớm lạnh như hơi thở của mùa thu tạo một vẻ đẹp huyên bí, vừa thiêng liêng vừa trần tục.  Mùa thu và thi sĩ gắn kết với nhau để rồi mỗi khi thu về là thi sĩ “tức cảnh sinh tình” như một món nợ truyền kiếp.  Không có thơ cạ tụng mùa thu, thi sĩ như thiếu vắng điều gì rất thân thiết trong đời. Dường như mùa thu cũng mang món nợ đối với thi sĩ, nên mỗi năm lại mang một nét đẹp mới, tinh khôi, cao thượng làm nguồn gợi hứng vô tận  để thi sĩ trả món nợ đời mình.

          Có lẽ, thi sĩ Lưu Trọng Lư, trong một buổi chiều thu lặng lẽ đã sáng tác bài thơ “Tiếng Thu” vào năm 1939. Cho đến nay, bài thơ vẫn còn hấp dẫn đối với những người thích ngâm nga, đặc biệt khi mùa thu tới :

 

                             Em không nghe mùa thu,

                             Dưới trăng mờ thổn thức,

                             Em không nghe rạo rực,

                             Hình ảnh kẻ chinh phu,

                             Trong lòng người cô phụ.

 

          Còn gì đẹp bằng hình ảnh ngồi ngắm ánh trăng thu cho lòng mình thổn thức, cho lòng mình rạo rực.  Thi sĩ không những chỉ dùng con mắt để thưởng thức cảnh đẹp của buổi chiều thu, mà còn dùng cả tai để nghe cả được “Tiếng Thu” qua âm thanh của những chiếc là xào xạc :

 

                             Em không nghe rừng thu,

                             Lá thu kêu xào xạc,

                             Con nai vàng ngơ ngác,

                             Đạp trên lá vàng khô.

 

          Âm thanh của những chiếc lá xào xạc dưới bàn chân con nai vàng cũng đem đến cho chúng ta  một cái gì sâu lắng hơn. Tiếng kêu xào xạc của những chiếc lá nói lên rằng đã có nhiều chiế lá rụng xuống nằm đầy vườn, đầy sân; và hình ảnh ấy nhắc cho chúng ta biết đã đến “Mùa Thu lá rụng”.

 

          Hình ảnh mùa thu lá rụng cũng gợi cho chúng ta một thoáng suy tư : phải chăng lá rụng mùa thu là biểu tượng cho mùa thu cuộc đời của con người  ?

 

II. ĐỜI NGƯỜI CHIẾC LÁ

 

          Sách Giảng viên đã nói :”Có thời sinh ra, có thời để chết” (Gv 3,2). Mỗi loài thụ tạo đều có thời hạn của nó. Đời người được ví như chiếc lá mỏng manh, ngắn ngủi, không vững bền như thánh vịnh 88 đã mô tả :

 

                             Đời con là một kiếp phù du,

                             Loài người Chúa dựng nên thật mong manh quá đỗi,

                             Sống làm người ai không phải chết,

                             Ai cứu nổi mình, thoát quyền lực âm ty.

                                          (Tv 88, 48-49)

 

          Mùa xuân cây đâm chồi nảy lộc, cành lá xanh tươi, đến mùa thu lá đã già, đổi sang mầu vàng rồi từ từ rời khỏi cành cây.

 

          Màu vàng của lá, màu úa của cỏ, nắng nhạt gió chiều là hình ảnh đặc trưng của mùa thu. Và mùa thu cũng là mùa lá rụng. Những chiếc lá còn tươi xanh là thế, qua một thời gian tô điểm cho đời, nay đến lúc lìa cành rụng xuống. Dường như lá còn lưu luyến với cành, đến nỗi khi rụng  còn chao đảo niềm đau thương, cố vẫy vùng như nói lời chia tay sau một thời gắn bó.

 

          Chúng ta có cảm tưởng như chiếc lá cũng có linh hồn khi phải lìa khỏi cây.  Có những chiếc lá ra đi trong sự quằn quại đau khổ, dùng dằng bịn rịn như thể không muốn lìa cành. Có những chiếc lá “hấp hối” loạng choạng buông mình cách nặng nề nghiêng ngả trên mặt đất. Lại có những chiếc lá ra đi cách nhẹ nhàng trong dáng điệu thướt ta buông mình theo gió.  Những chiếc lá khác không bàng hoàng hối hả mà chậm rãi, thanh nhàn, an nhiên rơi mình  trên thảm cỏ xanh như thể một bông hoa say trong giấc ngủ yên lành.

 

          Qua hình ảnh những chiếc lá rơi, ta liên tưởng đến cuộc sống con người,  đến tâm trạng của con người ra đi khỏi đời này.  Có những người ra đi trong bấn loạn, hối tiếc, khổ đau, nặng nhọc. Lại có người ra đi về với cội nguồn một cách nhẹ nhàng thanh thản. “Lá rụng về cội”. Lá rụng bên gốc cây. Lá chờ đợi một quá trình sinh học  để trở thành chất dinh dưỡng nuôi cây. Lá góp thân xác tàn úa để trả ơn cho cây.  Đời là ngắn ngủi mà đầy ý nghĩa nhân sinh.

 

III. CHUẨN BỊ CHO MÙA RA ĐI.

 

          Mùa thu là mùa ra đi của những chiếc lá vàng, con người rồi cũng phải ra đi khi thời gian đã được ấn  định.  Mùa lá rụng nhắc chúng ta sự mỏng giòn của kiếp người. Lá nào rồi cũng phải rụng xuống, người nào cũng có lúc phải lìa đời. Tác giả Thánh vịnh đã cảm nhận rất sâu sắc điều này, khi ông viết :

 

                             Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi,

                             Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

                             Một cơn gió thoảng là xong,

                             Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

                                          (Tv 103, 15-16)

 

          Người Việt chúng ta thường quan niệm rằng trong cuộc đời, mỗi người phải đi qua bốn cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử.  Theo lẽ thường, người ta sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết. Chết là một định mệnh bởi vì đã có sinh thì phải có tử như Kinh Thánh viết :”Ngươi là bụi tro và sẽ phải trở về cùng tro bụi”.  Tử là kết thúc cuộc đời, là hết sống, là chết.

 

          Nhưng còn một vấn đề quan trọng phải được đặt ra : chết rồi sẽ ra sao ?  Ngày xưa Hoài Nam Tử đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này, đó là :”Sinh ký, tử qui” : sống là gửi, chết là về.

 

          Lại một câu hỏi tiếp phải được đặt ra : ”Tử qui” : chết là về, nhưng về đâu ? Trước câu hỏi này mỗi người có một câu giải đáp tuỳ theo quan niệm của họ về cuộc sống của mình.

 

          Những người không có đức tin, không có tôn giáo, những người vô thần cho rằng chết là hết, là đi vào hư vô trống rỗng. Do đó, chết là một thất bại, là một điều vô nghĩa.

 

          Những người có tôn giáo thì tin rằng chết là đi vào một thế giới khác, là đi về nơi chín suối, vào nơi cực lạc, vào Niết bàn hay về với ông bà tổ tiên… Như vậy, chết chưa phải là hết, chết mà vẫn còn trong một trạng thái khác  tuỳ theo quan niệm của mỗi tôn giáo, của mỗi người.

 

          Thi sĩ Nguyễn Du trước đây 300 năm đã nói thay cho những người đương thời về linh hồn bất tử :”Chết là thể phách, còn là tinh anh” (Truyện Kiều).

 

          Còn đối với chúng ta, những Kitô hữu, chúng ta tin rằng chết chưa phải là hết,  chết chỉ là một sự chuyển đổi. Đúng hơn, chúng ta phải nói rằng :”Chết là đi về nhà Cha” vì Cha chúng ta ở trên trời :”Lạy Cha chúng con ở trên trời” (Kinh Lạy Cha).

          Khi viết thư cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho họ tư tưởng này :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20).

 

          Theo tư tưởng của thánh Phaolô, Đức Giêsu Kitô sẽ đến cứu chúng ta, sẽ đem chúng ta về trời như lời Ngài Hứa :”Để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó với Thầy”.  Nhưng khi nào Đức Giêsu mới đến đem chúng ta về trời ? Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe đã trả lời cho chúng ta câu hỏi đó.

 

          Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn để nói với chúng ta :”Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi ông chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ” (Lc 12,35-36).

 

          Chúa sẽ đến với chúng ta bất cứ lúc nào, không ai biết vì Ngài ví giờ chết đến bất ngờ như kẻ trộm, phải tỉnh thức.  Công việc của chúng ta là  phải chuẩn bị sẵn sàng.  Nếu Chúa đến bất ngờ mà chúng ta đã sẵn sàng đón Chúa  thì Chúa sẽ thưởng  công cho, sẽ đem vào dự bàn tiệc thiên quốc. Ngược lại, nếu chúng ta đang mê ngủ, không sẵn sàng tỉnh thức thì sẽ bị loại ra ngoài, phải vào nơi khóc lóc nghiến răng.

 

          Chúng ta có thể nói đời là một cuộc hành trình đi về quê trời.  Mỗi người phải làm một cuộc hành trình trong đời, không ai làm thay cho ai được, cuộc hành trình đó dài hay ngắn đều do Thiên Chúa ấn định.  Cuộc hành trình nào cũng phải được chuẩn bị kỹ càng, không ai khởi hành mà không biết mình đi đâu, không ai khởi hành mà đi với hai bàn tay không, gặp chăng hay chớ.  Ra đi mà không có chuẩn bị là một sự điên khùng.

 

          Trái lại, trước khi khởi sự một cuộc hành trình, bao giờ cũng phải nghĩ tới đích điểm, không lẽ lên đường mà không biết mình đi đâu. Muốn có một điểm đến là phải lựa chọn, mà lựa chọn là day dứt. Sau lựa chọn là phải quyết định mà quyết định bao giờ cũng căng thẳng bởi vì nó sẽ đưa đến một hậu quả.

 

          Đây là một chuyến đi quyết định và quan trọng.  Một chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Một chuyến đi quyết định cho số phận đời đời của mình, ai dám khinh thường ?

 

          Kinh nghiệm cho hay, khi một người định đi tham quan một nước nào trong một thời gian, chắc chắn người đó phải chuẩn bị rất kỹ.  Người ấy sẽ nói nhiều về nước đó, đọc nhiều tài liệu về tập quán, phong tục của nước đó.

 

          Nhưng nhiều người nói rằng hy vọng một ngày kia sẽ vào Nước Trời, mà không bao giờ nói về nước ấy, cũng không đọc tài liệu hướng dẫn duy nhất là Kinh Thánh, như thế làm sao nói được là có hy vọng hay là sẽ vào Nước Trời.

 

Truyện : Không chuẩn bị.

 

          Một người có quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên chết bất ngờ. Người quản gia vội vàng báo tin cho thuộc hạ trong nhà  tin buồn này.  Người ấy nói :

          - Theo các anh thì ông chủ của chúng ta sẽ đi về đâu ?

          Các thuộc hạ đáp :

          - Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa ?

          Người quản gia nói :

          - Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.

          Những người thuộc hạ ngạc nhiên nói :

          - Thường thì đi đâu xa, ông chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước Trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được !(Giọt nuớc mắt cuối cùng, tr 12-13).

 

          Nhìn lá vàng rơi, ta nghĩ về cuộc đời lữ thứ. Cuộc đời sẽ có ngày chấm dứt. Suy nghĩ về sự chết không làm cho chúng ta bi quan mà còn làm cho chúng ta tin tưởng và phấn khởi vì quê hương chúng ta ở trên trời nơi Chúa đang chờ đợi chúng ta.  Ngày ra đi khỏi trần gian này không phải là đi vào hư vô trống rỗng như những người không có đức tin tưởng như thế, nhưng ngày đó là ngày phải vui mừng vì chúng ta được về nhà Cha, ngày đó phải được coi là ngày sinh nhật trên trời.

 

          Nhưng muốn được về nhà Cha thì phải có điều kiện, đó là chúng ta phải tỉnh  thức và sẵn sàng nghĩa là phải được chuẩn bị ngay dưới thế này.  Một lần nữa, chúng ta hãy đọc lại và suy gẫm lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe :”Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay,  và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ” (Lc 12, 3-4).

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt


Gợi Ý Giảng Lễ An Táng