H O À B Ì N H
___________________________________________
Mùa Giáng sinh
Thượng vinh ư Thiên Chúa
Hạ hoà ư thiện nhân
I. Ý NGHĨA CỦA HÒA BÌNH.
1. Những
sự kiện
Hoà
bình hay Bình an
là một vấn đề rất quan trọng được nhắc
đến nhiều lần trong Thánh kinh Cựu ước cũng như Tân ước. Trong đời sống hằng
ngày, hoà bình vẫn là một đối tượng mong ước của loài người, bởi vì đời sống
con người luôn luôn bị đe dọa bởi những sự bất ổn có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Do đó, trong nhiều hoàn cảnh, vấn đề hòa bình được đặt ra để mọi người tìm cách
bảo vệ nó. Chúng ta có thể kể ra một vài trường hợp mà hoà bình được nhắc tới.
a) Ngày
Chúa Cứu thế giáng sinh.
Chúa đến
đem hoà bình lại cho nhân loại. Đây là
một Tin Mừng mà các thiên thần đã loan
báo cho mục đồng và đã được
thánh Luca mô tả như sau :”Trong vùng ấy, có mục đồng đóng ở ngoài trời và
đêm khuya thức canh để giữ đàn cừu. Thiên thần Chúa bỗng hiện đến bên họ và
vinh quang Chúa rạng ngời bao quanh họ, làm họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng thiên
thần nói với họ :”Đừng sợ ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui
to tát, tức là niềm vui cho toàn dân : là hôm nay, đã sinh cho các ngươi vì Cứu
Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành của Đa-vít. Và sự này làm dấu cho các ngươi : các ngươi sẽ gặp thấy một hài
nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ”.
Và
bỗng đâu hợp đoàn với thiên thần, có đoàn ngữ cơ binh trên trời ngợi khen Thiên
Chúa rằng :”Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm, và dưới đất bình an cho kẻ
Ngài thương”(Lc 2, 8-14).
b) Ngày
quốc tế hòa bình.
Giáo
hội luôn chú trọng đến hòa bình thế giới vì hoà bình là một thực tại mỏng manh
có thể bị tàn lụi bất cứ lúc nào bởi một sự bất hoà của hai nước hay của phe
nhóm. Vì thế, Giáo hội đã chọn ngày
mồng một tháng giêng đầu năm dương lịch để mọi người chung lời cầu nguyện để
xin Chúa, vì lời cầu bầu của Mẹ Thiên Chúa, ban cho thế giới được một nền hòa
bình thật và trường cửu.
c)
Trong Thánh lễ.
Tư
tưởng về hoà bình luôn được diễn tả trong các lời chủ tế chào giáo dân lúc đầu
lễ cũng như cuối lễ. Sau kinh Lạy Cha, Giáo hội còn dành riêng một kinh để xin
Chúa ban hòa bình cho Giáo hội : “ Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các
Tông đồ rằng :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho
các con. Xin Chúa đừng chấp tội lỗi
chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội thánh Chúa; xin đoái thương ban
cho Hội thánh được bình an và hiệp nhất theo thánh ý Chúa”.
Chúa
Giêsu còn nói với các Tông đồ :”Ta ban hoà bình cho các con, nhưng hoà bình
ta ban không giống như hòa bình của thế gian” (Ga 14,27). Vậy hòa bình của Chúa ban như thế nào, chúng
ta cùng nhau tìm hiểu.
1. Hoà bình
là gi?
Theo
định nghĩa của tự điển Đào duy Anh thì hòa bình là yên lặng, không có xung đột.
Nhưng hòa bình như vậy là quá đơn giản, chúng ta hãy đi vào Thánh kinh để tìm ý
nghĩa của hòa bình.
Từ
ngữ “Hòa bình” trong Thánh kinh có một ý nghĩa rất bao quát, rộng
rãi, nhưng ta có thể tóm lại được trong
hai từ có một ý nghĩa tổng quát “Hạnh phúc toàn hảo” và “Ân huệ của
Thiên Chúa”.
Hòa
bình là hạnh phúc toàn hảo : Hòa bình
theo Thánh kinh không phải chỉ là một “hiệp ước” tạo nên một đời sống
yên ổn, cũng không mang ý nghĩa “Thời bình” đối nghịch với thời chiến (Ga 3,8 ;
Kh 6,4). Hòa bình theo Thánh kinh chỉ sự an lạc của cuộc sống hằng ngày, trạng
thái con người sống hòa hợp với thiên nhiên, với chính mình, với Thiên
Chúa. Cụ thể mà nói thì đó là lời chúc
phúc, sự nghỉ ngơi, vinh quang, giầu có, sự cứu rỗi, sự sống.
“Được
khỏe mạnh” và “Được bình an” là hai kiểu nói đồng
nghĩa (Tv 38,4). Để hỏi thăm sức khỏe, người ta nói :”Được bình an chăng”
(2Sm 18,32 ; St 43,27). Abraham chết trong tuổi già hạnh phúc và trường thọ (St
25,8), ông đã ra đi bình an (St 15,15 ; x. Lc 2,29). Nói rộng hơn thì hòa bình chính là an ninh. Hòa bình cũng còn là
sống thuận hòa trong tình huynh đệ : người thân của tôi, người bạn của tôi,
chính là “người của bình an tôi” (Tv 41,10 ; Gr 20,10).
Trong
Tân ước, thánh Luca vẽ lại chân dung của Vua Hòa bình. Trong các thư mục vụ, thánh Phaolô, qua
những câu chào hỏi đã nối kết ân sủng với hòa bình, nhất là ngài cho thấy mối
dây liên lạc giữa hòa bình và cứu chuộc. Tiếp theo cái nhìn của Cựu ước xem sự hiện diện của Thiên Chúa
giữa dân Ngài là ơn hòa bình cao cả (td Lv 26,12, Ez 37,26), thánh Gioan minh chứng nguồn gốc và thực tại
hòa bình nằm trong sự hiện diện của Đức Giêsu, và đó là một trong những khía
cạnh đặc biệt trong quan điểm của ngài.
Tìm
hiểu thêm về chữ Bình an, ta thấy hai chữ bình an được nhắc đến 39 lần trong Phúc âm. Bình an là lời chào
mở đầu khi Chúa nhập thể (Lc 3,14) ; là sứ mạng Chúa trao ban cho các môn đệ
:”Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10,13) ; là
một lời ủi an cho những ai được chữa lành :”Lòng tin của con đã cứu con, con hãy đi bình an” (Lc
8,48) ; là con đường đưa những ai tin tưởng đến bình an :”... Soi sáng những ai
ngồi nơi tối tăm và trong bóng tối tử thần, dẫn ta bước vào nẻo bình an” (Lc
1,79) ; là chúc thư Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội :”Thầy để lại bình an cho anh
em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 15,27) ; “Chỉ trong Ta các con
mới có sự bình an” (Ga 16,33) ; và là lời chào đầu tiên của Chúa Kitô dành cho
các môn đệ sau khi Ngài Phục sinh :”Bình an cho anh em” (Lc 24,36). Ngôn sứ Isaia thì gọi Chúa Kitô là “Hoàng Tử
Bình an” (Is 9,6). Cũng trong sách Isaia, có câu viết rằng :”Hoa trái của người
công chính là sự bình an” (Is 32,17).
2. Hòa bình
thực của Chúa .
Chúng ta có thể phân tách ra
nhiều loại hòa bình : hoa bình nội tâm hay ngoài xã hội, hòa bình thực hay giả,
hòa bình chóng qua hay trường cửu. Chỉ có hòa bình của Thiên Chúa mới là thứ
hòa bình thực và trường cửu, còn các thứ hòa bình khác là giả tạo và mong manh.
Hòa
bình của Chúa không hệ tại ở giầu sang phú qúi, được chức quyền danh vọng, được
người đời chiều chuộng, mến yêu và được thoát ly buồn sầu đau khổ. Nhưng hoà bình của Chúa phải ở tại cái gì
cao qúi, vững chắc và chân thật. Theo
thánh Augustinô, hòa bình đó ở tại một “trật tự an bình”. Nói cách khác, ở tại một đời sống được chỉnh đốn tốt đẹp. Trật tự đó đòi thân
thể phải phục tùng linh hồn, đòi linh hồn phải hiếu thảo và trung tín với Thiên
Chúa, phải tuân giữ các giới răn và hòa
mình theo thánh ý Chúa. Trật tự đó cũng
đòi buộc mọi người phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, và kích thích nhau đi
vào con đường nhân đức. Trật tự đó đã
bị tội lỗi làm đảo lộn, nên Chúa đã
giáng trần để tái lập, và ai có thiện chí nắm giữ, Ngài sẽ trả lại hòa bình
cho, như lời thiên thần rằng :”hòa bình cho thiện nhân dưới đất” (Lc 2,14)
Theo
thánh Phaolô nói :”Hòa bình của Chúa vượt mọi giác quan” (Pl 4,7). Vậy hòa bình
của Chúa là một cái gì qúi gíá, đi sâu vào phần nội tại của con người. Theo ý
thánh Augustinô, hòa bình đó làm cho linh hồn yên tĩnh, trái tim thêm đơn giản
và thắt chặt dây lân ái. Vậy hòa bình
của Chúa khiến chúng ta tìm vinh danh cho Chúa và mở rộng nước của Ngài. Nó
giúp chúng ta yêu thương, chịu đựng và tha thứ cho anh em. Nó thức tỉnh chúng
ta trong việc bổn phận, để chúng ta biết ở khiêm nhường và khinh chê những sự
giả dối, biết đưa lòng lên cao và trìu mến những sự trên trời, nhất là nó giúp
chúng ta trung thành với Chúa và tiến mau trên đường thánh thiện. Nói tóm
lại, nó hướng dẫn chúng ta trở về
trật tự khởi thủy Chúa đã lập, và hướng dẫn một cách lạ, một cách vượt
mọi giác quan.
(Lâm
quang Trọng, Ánh sáng Phúc âm, Ra khơi, 1957, tr 134)
II. CHIẾN TRANH, THÙ ĐỊCH CỦA
HÒA BÌNH.
Nơi
thiên Chúa không có chiến tranh, chỉ có hòa bình. Do đó, nơi con cái Chúa cũng
không được có chiến tranh, chỉ có hoà bình nội tại và ngoại tại tràn ngập.
Nhưng thực tế lại khác hẳn, khi con
người bắt đầu không tuân phục, chống lại lệnh của Chúa, thì chiến tranh đã gieo
mầm. Một khi con người đã gây chiến với Chúa thì dĩ nhiên phải gây chiến với
nhau. Cain đã mở màn cuộc chiến tranh đầu tiên chống lại Abel, rồi từ đó, trong
suốt lịch sử của nhân loại, ta thấy đâu đâu cũng xẩy ra chiến tranh không lớn
thì nhỏ. Lịch sử loài người còn ghi lại
những sự kiện đó.
1. Những sự
kiện lịch sử.
Ý
thức về sự kiện đó, người Hy lạp xưa đã thờ một vị thần chuyên về chiến tranh,
man rợ, hung hãn, ưa thích vùng hoang dại ở miền bắc Hy lạp, chẳng hạn như vùng
Thrace, nơi thường có nhiều bão tố.
Mars ưa chém giết đổ máu. Mars không giống như các thần nhân khác chỉ
đứng về phe này hay phe kia : ngồi trên một chiếc xe ngựa, Mars tham dự một
cách hung hãn các cuộc giao tranh : tiếng la hét vang lừng át cả tiếng hàng vạn
người ; đứng bên Mars, Bellone, vừa là em gái vừa là vợ của Mars, đầu tóc rũ
rượi, mặt tóe lửa, vút trong không khí cáiâ roi da vấy máu. Chiếc xe đi tới đâu
gieo rắc sự khủng khiếp, giết chóc.
(Mặc
Đỗ, Thần nhân và thần thoại Tây phương, 1974, tr 25-26)
a) Những
năm chiến tranh và hòa bình.
Trong
cuốn Le retour de Jésus Christ, tiến sĩ René Pache có cho biết : kể từ năm 1496
trước Thiên Chúa giáng sinh cho đến năm 1861 của thời đại chúng ta, tức trong
khoảng 3400 năm, tính được tất cả 3130 năm chiến tranh, thế giới chỉ được hưởng 268 năm hòa bình.
Như
thế, trung bình cứ 13 năm chiến tranh
thiên hạ mới được hưởng một năm hòa bình.
Từ
năm 1500 trước Thiên Chúa giáng sinh, cho đến năm 1860 đời ta, tính có tới 8000
hiệp ước hoà bình. Tuy mọi hiệp ước đều
có giá trị vĩnh viễn, nhưng trên thực tế, hiệu quả của mỗi hiệp ước trung bình
không quá 2 năm. Chỉ trong 19 năm, giữa
hai thế chiến (1920-1939) tính đã có đến 4568 hiệp ước hòa bình. Nguyên 11 tháng trước đệ nhị thế chiến, đã
có tới 211 hiệp ước rồi.
(Vũ
minh Nghiễm, Dừng, 1967, tr 90-91)
b) Những
thiệt ähại của chiến tranh
Theo đài
phát thanh tòa thánh Vatican ngày 01.09.1951, dựa vào thống kê của Liên
hợp
quốc được mô tả như sau :
.
32 triệu người bị chết tại các mặt trận.
.
25 triệu người bị chết trong các trại giam.
.
25 triệu người bị thương hay tàn tật.
.
15 đến 25 triệu thanh niên, các người già và trẻ con chết vì bom đạn.
.
25 triệu người phải mất hết tài sản.
.
45 triệu người Đức và các dân Âu châu, Viễn đông phải đi lánh nạn hay đi đầy.
Trong
trận chiến ở Việt nam, người Mỹ đã phải tốn 676 tỷ Mỹ kim một cách trực tiếp
hay gián tiếp trong thời gian 18 năm 6 tháng.
Riêng tại miền Nam Việt nam, người Mỹ đã thả xuống :
.
12 triệu tấn bom đạn.
.
100.000 tấn chất hóa học.
.
72 triệu lít chất diệt cỏ.
. giết 415.000 đồng bào.
.
gây thương tích cho 935.000 người.
.
làm cho 7 triệu người bỏ ruộng vườn để đi đến vùng an ninh.
.
làm cho 3 triệu người thất nghiệp.
(Theo
tài liệu học tập ở Oiseaux ngày 3.12.1977)
2. Nguyên
nhân của chiến tranh
Người ta
định nghĩa chiến tranh là khi nước này với nước nọ đánh nhau, tranh nhau bằng
võ
lực. Thực ra, chiến tranh không
chỉ là một sự kiện nhân loại đăt ra
những vấn đề luân lý. Sự hiện hữu của
chiến tranh trong lịch sử Thánh kinh mạc khải từ một kinh nghiệm phổ thông biểu
lộ khía cạnh chính yếu của thảm kịch mà nhân loại đã tham dự : đó là cuộc chiến thiêng liêng giữa Thiên
Chúa và Satan.
Khi
nói đến nguyên nhân chiến tranh người
ta chỉ đưa tầm mắt nhìn gần đến những xích mích mà nước này nước nọ đang có với
nhau; nhưng nếu nhìn xa hơn, chúng ta phải khẳng định rằng chiến tranh phát
xuất tự lòng con người mà ra và đó là lý do chính. Ta cùng nhau tìm hiểu vài nguyên nhân chiến tranh phát xuất tự
lòng con người.
a) Chống
lại lệnh Chúa.
Chúa
dựng nên các thiên thần để chầu chực phụng thờ Ngài, nhưng có một số thiên thần
không tuân phục, nổi loạn chống
lại Thiên Chúa, đứng đầu là Lucifer.
Các thiên thần nổi loạn đó đã bị đẩy xuống hỏa ngục, và từ đấy cuộc
chiến giữa Thiên Chúa và thần dữ đã bắt đầu.
Sau
đó, muốn lôi kéo nhân loại theo phe mình, các thần dữ đã xui khiến nguyên tổ
Adam Evà chống lại lệnh của Chúa không cho ăn quả của cây biết lành biết dữ ở
giữa vười địa đàng. Ông bà đã nghe lời
xúi giục của thần dữ mà chống lại lệnh cấm của Chúa. Ông bà đã chính thức gây chiến với Chúa từ đấy. Rồi sau này,
chúng ta là con cháu của ông bà, phải chịu hậu quả của thái độ bất tuân của ông
bà, chúng ta vẫn tiếp tục gây chiến với
Chúa mỗi khi chúng ta phạm tội. Phải chăng “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”
? Phải chăng “thượng bất chính, hạ tắc loạn” ?
b) Thiếu
bác ái
Đức
ái có thể làm được tất cả. Tại sao ? vì
như lời thánh Phaolô đã nói :”Đức ái, niềm vui và hòa bình là hoa
trái của Thần khí” (Gl 5,22 ; Rm 14,17). Đã có đức ái thì phải có hoà bình
và đã có hòa bình thì có niềm vui, cả
ba cái đó phải đi với nhau luôn.
Đức
ái giúp chúng ta cư xử với người khác như xử với chính mình. Vậy có ai muốn cho
mình bị sựï khó không ? Chắc không hề có, vì ai cũng muốn cho mình được mọi sự
may lành. Như vậy, lời của Đức Khổng Tử ngày nay vẫn còn đúng trăm phần trăm :”Kỷ
sử bất dục, vật thi ư nhân” (điều gì mình không muốn thì đừng làm
cho người ta). Hoặc nói một cách tích cực hơn, Khổng Tử nói tiếp :”Kỷ sở dục
lập nhi lập nhân, kỷ sở dục đạt nhi đạt nhân” (điều mình muốn nên, phải làm
nên cho người, điều mình muốn đạt, phải làm cho người đạt).
Tình
thương có thể xóa bỏ được mọi chênh lệch, mọi thiếu sót, mọi bất công. Tình
thương có thể làm cho mọi công việc được trở nên tươi tốt, có thể làm cho cành
khô nở hoa, khô cằn trở nên mầu mỡ.
Thiếu tình thương, mọi sự sẽ trở nên khó khăn. Vì thế Mặc Tử đã nói :”Loạn từ đâu mà sinh ra ? Bởi
không yêu nhau”. Trường hợp của
Cain và Abel đã nói lên chân lý này.
c) Tính tư
ïái.
Chúng ta
không thể phủ nhận sự thù hằn ghen ghét
nhau, sự tham lam là những nguyên
nhân gây nên chiến tranh; nhưng
chúng ta cũng cần nói đến tính tự ái của con người. Tính tự ái làm cho con người mù quáng, không nhìn ra được sự
thật, không còn biết cân nhắc lợi hại mà chỉ còn biết nhắm mắt hành động theo
tính tự ái của mình. Trong lịch sử
chiến tranh, ta thấy có những trận chiến khốc liệt xẩy ra làm cho nhiều người
chết chỉ vì một con mụ đàn bà. Người
Trung hoa đã nói lên chân lý này một cách chí lý “Ninh thọ tử, bất ninh thọ
nhục” (có thể chịu chết chứ không thể chịu nhục được).
Từ
chỗ bị nhục, bị chạm lòng tự ái, người ta nuôi lòng trả thù, tìm hết cách để
rửa nhục và làm cho kẻ nghịch phải một phen ê chề. Lịch sử chiến tranh giữa quân Nhật và Đức đã nói lên điều đó.
Truyện : chiến tranh
Nhật Đức.
Bấy
giờ là vào năm 1894. Quân đội Nhật bản
đóng ở Uy-hải-vệ. Quân Đức rất bất
bình, vì họ cũng đang dòm ngó bản đồ Trung quốc. Ỷ thế mạnh, họ gửi tối hậu thư
cho Nhật :”Xin hãy triệt thoái bộ đội ra khỏi Uy hải vệ trong vòng 24 tiếng
đồng hồ. Bằng không, chúng tôi rất lấy
làm tiếc phải nhúng tay vào việc của các anh”.
Đức
bấy giờ là một nước hùng cường, còn Nhật thì còn đang trong thời kỳ thử lông
thử cánh. Nhật đã nhượng bộ, rút lui ra khỏi hải cảng, đúng theo lời bắt buộc
của tối hậu thư, lòng đầy suy tư...
Hai
mươi năm sau, tức là vào năm 1914, Đức hàm hồ khai chiến với thế giới. Nhật quật cường. Lúc bấy giờ mới áp dụng chiến
thuật lùi một bước tiến hai bước, tự tiện đổi Uy hải vệ ra THANH ĐẢO, rồi lục
lại bức tối hậu thư năm xưa (1894) không thêm bớt một dấu một phết nào cả, chỉ
xóa tên cũ (để dằn mặt đối phương) điền tên mới vào, rồi gửi lại cho Đức : “Xin
hãy triệt thoái bộ đội ra khỏi THANH ĐẢO trong vòng 24 tiếng đồng
hồ, Bằng không, chúng tôi rất lấy làm tiếc phải nhúng tay vào
việc của các anh’. Đức tím gan
tím ruột, hộc máu ra được, nhưng rồi cũng phải nuốt giận, êm ả rút lui ra khỏi
Thanh đảo đúng theo lời bắt buộc của tối hậu thư. Đúng là số phận “Cá ăn kiến,
kiến ăn cá”.
(Vũ
minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 215-217)
III. MUỐN CÓ HÒA BÌNH THẬT.
Hòa
bình là công cuộc vĩ đại, nên phải theo luật của công cuộc vĩ đại. Công cuộc vĩ
đại thì lùc sơ khởi bao giờ cũng bé nhỏ như một tế bào, âm thầm như một mầm
sống. Vì thế hòa bình không thể nào
được khám ohá ra trong một hội nghị quốc tế, hoặc quốc nội. Nó chỉ có thể phát
hiện bởi THÂM TÂM CỦA TỪNG CÁ NHÂN.
Nếu
các điều kiện hòa bình chưa được khai hoa nở nhụy trong cõi lòng người, mà đi tìm nó trong các tuyên ngôn, hội nghị,
thì không khác chi mò kim đáy biển. Xây nhà thì xây từ nóc xây xuống, hay là
xây từ nền móng xây lên ? Muốn kiến
thiết ngôi nhà hòa bình cũng phải bắt đầu từ lòng dạ con người. Để cho hòa bình có cơ hội thành hình, chính
mỗi một người trong chúng ta phải tự tay mang đến một viên gạch. Ta phải khởi
sự xây đắp hòa bình trong phạm vi hoạt động cá nhân, gia đình, láng giềng lân
cận...
Truyện : câu chuyện hòa
bình của Khổng Tử.
Một
hôm Đức Khổng Tử hỏi các môn đệ :
-
Khi có hai nước gây sự chiến tranh, các ngươi sẽ làm gì ?
Tử Cống
đứng dậy thưa :
-
Đệ tử này xin được làm nhà ngoại giao, đi giàn xếp cho yên
đẹp.
Tử Lộ
thưa :
-
Đệ tử này nguyện được làm một nhà tướng cầm quân ra trận,
đánh bại kẻ nghịch, giữ gìn cho bờ cõi thiên hạ được an lành.
Nhiễm
Hứa thưa :
-
Khả năng của đệ tử này là kinh tế tài chính. Nếu được quốc
dân giao phó cho phụ trách công việc về tiền bạc sưu thuế, thì nguyện sẽ chu
toàn bổn phận.
Các đồ
đệ ai nấy lần lượt thành thực nói lên các ước vọng của mình. Riêng có Nhan Tử
thì ngồi yên.
Khổng Tử
gạn :
-
Còn nhà ngươi thì thế nào ?
Nhan Tử
thưa :
-
Nguyện vọng của đệ tử này là muốn làm sao
đem nhân nghĩa giáo hóa cho toàn thể thiên
hạ,
để cho ai nấy biết yêu thương nhau như anh em một nhà, khiến cho Tử Cống khỏi
nhọc
về
ngoại giao. Tử Lộ khỏi cần phải làm tướng đem quân ra trận, Nhiễm hứa khỏi cần
phải
nai
lưng ra thu thuế làm cho trăm họ oán than.
Khổng
Tử nghe xong gật gù :
-
Nguyện vọng của nhà ngươi rất hợp với nguyện vọng của ta.
(Vũ minh Nghiễm, Sốâng sống, 1971, tr
168-170)
Nguyện
vọng của Nhan Tử hay lắm thật. Nhưng ông không nói rõ phải giáo hóa bằng cách
nào để cho thiên hạ có thể thương yêu nhau như anh em một nhà. Mỗi người có cần
phải bắt đầu bằng một cuộc TỰ KIỂM THẢO đại qui mô hay không ? Một cuộc tảo thanh nội tâm ? Bởi vì như
Francis Charles nói :”Lấy khăn bẩn để lau vết bẩn, thì chỉ làm cho vết bẩn
càng bẩn thêm”.
Vậy
cần phải yêu thương những ai truớc hết ?
Bởi
vì nếu tôi không sống hòa đồng với những kẻ ra vào cùng một ngõ xuôi ngược cùng
một con đường mòn, lui tới cùng một chợ hôm chợ mai, thì nguyện vọng hòa bình
của Nhan Tử chỉ là một giấc mơ tiên vĩ đại.
Người
đời xưa căn dặn :”Không nên tham cái lợi trức mắt mà quên cái hại sau lưng”.
Thời nay, nếu các bậc thánh hiền ấy đội mồ sống lại, hẳn sẽ phải nói ngược lại
:”Không nên lo đến cái hại sau lưng mà quên cái lợi trước mắt”. Chúng ta quên
tu thân sửa nết, quên khỉ sự mưu cầu hòa bình bằng cách ăn ở lịch sự ấm êm với
những người chung sống dưới một mái nhà, trên một đường phố, cùng một khoảnh
đất, thở cùng một bầu không khí mà cứ đòi đốt giai đoạn, đi xót thương những kẻ
xa xăm, chỉ văn kỳ thanh mà bất kiến kỳ
hình... Chúng ta gác bỏ một bên đức bác ái vô hình!... và qui tội cho kẻ khác !
Nói
một cách thực tế, chúng ta phải làm gì để có bình an trong tâm hồn và hòa bình
ngoài xã hội. Có nhiều việc phải làm
nhưng chúng ta chỉ hạn định vấn đề lại trong ba điểm, đó là phải có một lương
tâm yên ổn, một tình thương nhịn nhục tha thứ và một tâm hồn khiêm nhường.
1. Phải có
một lương tâm yên ổn
Người
xưa nói :”Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : lưới trời lồng lộng,
sưa mà không
lọt.
Không
lọt, vì lưới ấy giăng ngay từ cõi lòng, từ óc não ta, từ trong linh hồn ta :
Lưới
ấy là : LƯƠNG TÂM.
Lương
tâm biết nói, nói dẻo dai, nói đằng đẵng, nói tỉ tê, nói mãi như người ăn mày
khó tính cứ xin mãi, nói hoài cho đến khi nào người ta cho mới hết nói, mới hết
xin.
Phải,
lương tâm là dư âm của tiếng Thiên Chúa phán bảo trong tâm trí ta.
(Đỗ
bá Ái, Đời đáng sống, in lần 2, tr 102)
Lương
tâm có răng và biết cắn vì người ta hay nói : LƯƠNG TÂM CẮN RỨT. Người nào bị rết cắn thường cảm thấy buốt,
bị rắn cắn có thể chết trong mấy phút, nhưng nếu bị lương tâm cắn thì... thật
khó mà nói cho đúng. Bởi vì chưa bác sĩ nào trên thế giới chữa nổi những người
bị cắn hoặc biết được sau khi bị cắn cơ thể và tâm hồn nạn nhân có những phản
ứng gì.
Những
hạng người nào có thể bị lương tâm cắn ? Tại sao phải phân biệt hạng người
? Vì có một điều rất lạ là lương tâm
không bạ ai cũng cắn như chó dại, mà trái lại chỉ cắn những người có lương tâm.
Để
dễ hiểu, xin tóm tắt : lương tâm là một con vật có răng mà người nào nuôi nó
trong tâm hồn thỉnh thoảng bị nó cắn. Nếu bạn vô lương tâm thì không phải lo lắng
gì hết, không bao giờ bị nó cắn, trừ khi bạn điên rồ tìm cho bằng được con
lương tâm đó để nuôi dưỡng trong người.
Đọc
đến đây, các bạn vô lương tâm đừng có vội mừng, luật pháp đã qui định những
điều khoản rất khắt khe để bỏ tù những người nào không chịu chăn nuôi lương
tâm.
Tuy
lương tâm nguy hiểm thế nhưng nếu bạn chịu khó điều đình với nó và cho nó ăn
uống đầy đủ, bạn sẽ là một người sung sướng, ăn no ngủ kỹ và hãnh diện nói với
bà con bạn hữu : tôi là một người có lương tâm.
Lương
tâm rất khó tính, bạn phải luôn luôn cho nó ăn những thứ như đức tính thật thà,
lương thiện... Nếu bạn không có đủ những thứ đó mà đòi nuôi lương tâm thì tôi
xin chia buồn cùng bạn, vì lương tâm sẽ lên tiếng kêu gọi bạn suốt ngày đêm
(người ta thường nói tiếng gọi của lương tâm). Bạn sẽ gầy mòn đi, ngày thì ngơ
ngẩn, đêm ngủ mộng mị và rồi bạn sẽ chết trong đau khổ và hối hận.
Nhưng
trong đời, dù bạn có tài nhịn nhục đến đâu chăng nữa và cố chiều theo lương tâm
để được sống yên lành, cũng có lúc bạn bất mãn bướng bỉnh làm theo lòng ham
muốn của bạn và tìm cách ru ngủ con lương tâm bạn nuôi, bán rẻ nó đi hoặc đánh
nhau với nó để chiếm lấy. Bao nhiêu văn
nghệ sĩ từ xưa đến nay đã tốn giấy mực để tả sự tranh đấu sôi nổi giữa con lương
tâm và người nuôi nó, và ca tụng đó là một sự tranh đấu quan trọng mãnh liệt và
cao đẹp của con người chống lại chính nó.
Vì
lương tâm là gì ?
Rắc
rối thay ! Lương tâm lại chính là BẠN !
(Duy
Lam, Lương tâm, trong Văn hóa ngày nay)
Victor
Hugo – nhà thi sĩ trứ danh nước Pháp – lại cho lương tâm là CON MẮT của Thiên
Chúa hằng theo dõi ta. Ông dựa vào Kinh thánh để thêu dệt thêm như hình phạt mà
Thiên Chúa dùng để phạt tội giết người của Cain.
Truyện : Cain giết Abel.
Hồi
ấy, Cain vì ghét em là Abel, đã rủ em ra đồng vắng, rồi giết đi. Thiên Chúa
hiện ra hỏi Cain :
-
Abel, em mày đâu ?
Cain trả
lời :
-
Biết nào, tôi đâu phải là người giữ nó.
Thiên
Chúa liền quở mắng :
-
Mày đã làm gì ?
Tiếng máu của em mày đã kêu đến Ta.
Và Thiên
Chúa đặt cái DẤU trên trán Cain để người ta thấy mà đừng giết hắn, nhưng để
cho tiếng lương tâm dầy vò hắn
suốt đời(x. St 4,8-17). Dấu ấy, thi sĩ Victor Hugo đã cho là con mắt của Thiên
Chúa ngày đêm theo đuổi và nhìn chòng chọc vào Cain.
Thi
sĩ còn tả tiếp : sau khi giết em, Cain sinh ra bối rối, buồn sầu hằng như nhìn
thấy con mắt trông xem mình chòng chọc đêm ngày. Không chịu nổi, Cain bồng bế
con cái đi xa xăm cho khỏi. Vừa đặt
gánh ngồi xuống, Cain đã nhìn thấy con mắt đang nhìn mình chòng chọc. Cain bảo
con xây cho mình một tháp cao vít kín tư bề, nhưng vừa vào đó, con mắt đã nhìn
Cain. Không chịu nổi, Cain bảo con đào cho mình một hầm sâu dưới đất, nhưng vừa
rúc xuống, Cain đã trông thấy con mắt đang nhìn mình rồi...
(Đỗ bá Ái, Đời đáng sống, in lần 2, tr 103)
Muốn
được bình an trong tâm hồn, chúng ta hãy cố gắng tạo cho mình có được một lương
tâm yên ổn. Muốn có được lương tâm yên ổn tức là phải có một đời sống trong
sạch, thương yêu, nhịn nhục và chấp nhận mọi hòan cảnh do Chúa gửi tới, cũng
như cố gắng chu toàn những nhiệm vụ được giao phó. Chỉ khi nào chúng ta thực
hiện được những cái đó thì lương tâm chúng ta mới được yên ổn vì nó không còn
khiển trách chúng ta nữa.
Truyện
: người lính canh La mã.
Năm
79, khi núi Vésuve phun, làm cho miền đó ngập lên những than nóng hổi và phún
thạch, dân chúng điên cuồng, thất vọng, chạy tán loạn, để tránh cái chết. Một
người lính La mã đứng yên chỗ gác, không hề nhúc nhích. Trong khi hỗn loạn, người ta quên không bảo
anh được chạy, vì bổn phận, anh vẫn không rời chỗ gác. phún thạch dần dần lan
tới chỗ anh đứng, những hơi diêm sinh bốc lên làm anh ngạt thở. Thật là một hỏa
ngục dương gian đang đợi anh... Thế mà anh vẫn đứng vững để làm trọn phận sự,
cho đến nỗi anh bị chôn sống dưới lớp tro bỏng. Ngày nay người ta còn giữ cái
mũ, một cái giáo, và áo giáp của anh tại viện bảo tàng Barbonico thành
Naples. Trung thành với bổn phận cho
đến cùng, anh thà bị chết cháy bởi chất đá chảy còn hơn là mất danh dự của
người lính La mã.
(Tihamer
Toth, Chí khí người thanh niên, in lần 2, tr146)
Câu
truyện trên đối với chúng ta quá lý tưởng và khó thực hiện vì có lẽ không bao
giờ ta có những trách nhiệm nhà binh; nhưng những nghĩa vụ chẳng lớn thì nhỏ
chắc chắn sẽ đòi hỏi nơi chúng ta : nghĩa vụ đối với Thiên Chúa, với đồng bào,
với Giáo hội, với Tổ quốc. Những công
việc đó tuy khó nhọc nhưng nó cần thiết vì nó cần cho danh giá của con
người. Sống trên đời không phải chỉ để
hưởng sung sướng, để thỏa mãn sự vui thích mà là LÀM VIỆC BỔN PHẬN, hoàn thành
công việc mà Chúa đã trao cho. Bao lâu
ta không còn phải phàn nàn về đời sống của ta, không phải phàn nàn về những
thiếu sót trong bổn phận của ta, lúc đó ta mới có một lương tâm yên ổn và mới
cảm thấy một niềm vui sướng phát ra tự đáy lòng mình
2. Phải có
một tình thương tha thứ.
Khi
Chúa Giêsu sống lại, hiện ra với các tông đồ thì tiếng nói đầu tiên của Ngài là
: Bằng an, hòa bình cho các con. Không những để trấn tĩnh các ông
ấy, nhưng Ngài còn muốn gói ghém trong chừng ấy tiếng cái sứ mệnh mà Ngài thực
hiện qua cuộc sống của Ngài và ngày mai các tông đồ, các tín hữu phải tiếp tục
thi hành : đem lại bằng an cho mọi người, gieo rắc hòa bình khắp nơi.
Hòa
bình không ở đâu khác, nhưng hòa bình phải phát xuất từ cái tế bào đầu tiên của
nó là:lòng người. Muốn có được
hòa bình, mỗi người cần phải góp sức vào.
Nếu mong ước hòa bình thực sự ta phải bắt đầu làm nảy nở hòa bình trước
hết trong mọi hoạt động của ta, trong gia đình, làng xóm, tại chỗ ta làm việc.
Hòa bình không thể lan rộng khắp nhân loại nếu nó không bắt đầu phát triển từ
mỗi gia đình, từ mỗi người.
Nếu
người ta cứ thao túng gây lộn và hận
thù giữa cá nhân với cá nhân, nói xấu nhau, hiểu lầm nhau, gây bất hòa trong
gia đình thì làm sao có hòa bình trong tâm hồn và ngoài xã hội.
Truyện : Tha thứ cho kẻ
giết mình.
Sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ, quân đội dồng
minh đi lục soát một trại tập trung
kia, gặp một bà quả phụ người Do thái, bà ta được biết rằng chồng bà đã bị giết
và khi đứng trước lý hình, chồng bà luôn luôn cầu khẩn :”Lậy Chúa, xin tha lỗi
cho họ”. Bà còn được biết rằng cậu con
trai của bà lên 7 tuổi đã dám nã súng vào một tên mật vụ làm gã bị trọng
thương. Tên mật vụ ấy đang nằm hấp hối trong một bệnh viện, chỉ ước nguyện một
điều là được thấy tận mắt thằng bé giết chàng, và mẹ nó. Cuối cùng bà quả phụ kia bằng lòng đến bên
giường của bệnh nhân. Người sắp chết
hổn hển nài xin :”Bà hãy cùng tôi đọc kinh Lạy Cha để xin Chúa tha lỗi cho tôi
và tôi sẵn sàng tha lỗi cho con bà”.
(Báo
Đức Mẹ La vang, số 35-36, tr 60)
Biết
tha thứ cho nhau mới mong có hòa bình, nhưng tha thứ là một việc rất khó. Ai
cũng tự cho mình là nạn nhân của sự bất công, không ai chịu đứng ra làm hòa
trước. Có người cho việc tha thứ là một việc khiếp nhược, là mất thể diện.
Thiên Chúa tha thứ luôn luôn, thế mà có mất quyền phép, mất thể diện gì đâu ? Có người nghĩ rằng : tại người kia có lỗi,
họ phải đứng ra xin lỗi trước. Nhưng
Chúa Giêsu lại dạy khác :”Khi con đến bàn thờ dâng của lễ nếu sực njớ lại có
người bất hòa với con, con hãy để của lễ tại đó, trở về làm hòa, rồi đến dâng
lễ”. Tha thứ là hình thức của cách
mạng tuy khó thực hiện, nhưng không phải là không thực hiện được.
Người
nào quyết tâm hoạt động cho hòa bình, người nào biết quên mình đi chỉ nghĩ đến
ích lợi của người khác, người ấy mới có thể tha thứ cho người khác được. Ngay
sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết liễu, nước X
mở một chiến dịch lớn quyết phanh phui những tội ác phạm đến nhân phẩm
trong các trại tập trung của nước Đức. Vì thế những người bị giam giữ trước kia
được kêu ra, mời đến đối chất với những tên mật vụ. Người ta yêu cầu nhận dạng và tố cáo, có người uất hận vì nhiều
cực hình hôm qua đã tố giác lại. Nhưng không thiếu cho những thái độ anh
hùng. Có người biết rõ mặt lý hình của
mình nhưng họ từ chối không tố cáo.
Truyện : cả làng tha
thứ.
Nadour
sus Glane hằng năm tổ chức một ngày kỷ niệm lịch sử, mồng 10 tháng 6 năm 1944, làng ấy bị đốt phá tan tành. Tất cả đàn
ông bị quân đội Đức bắn giết, còn đàn
bà núp ở giáo đường đều bị chết thiêu trong ấy. Chiến tranh chấm dứt, thật ra dân chúng vùng ấy có đủ lý do để
mạt sát chửi rủa người Đức. Nhưng tuyệt
nhiên không có điều gì đáng tiếc xẩy ra.
Mọi người đều sống trong tinh thần bác ái và tha thứ, báo chí không thể
khai thác được gì (Sđd trang 61).
Lúc
này vì xã giao lịch sự, đụng cái gì cũng xin lỗi. Tiếng xin lỗi đã mất giá trị, vì người ta dùng nó bừa bãi vô ý
thức. Vấn đề tha lỗi ở nơi người Công giáo không phải là một bài toán trừ khô
khan. Cha ông chúng ta nói :”Một lần
tha ba lần chém” hoặc “quá tam ba bận” Bọn Pharisêu dạy tha lỗi ba
lần. Các tông đồ nghĩ rằng phải tha lỗi
đến 7 lần, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ phải tha lỗi cho kẻ khác đến bảy mươi
lần bảy, nghĩa là sẵn sàng tha thứ luôn.
Chúa
Giêsu là Đấng hay tha thứ, nên nơi Ngài mới có hòa bình thực sự, hòa bình ấy, thế gian không thể ban cho.
Chúng ta muốn góp công vào việc kiến tạo hòa bình cho mình và cho người, hãy biết tha thứ cho người khác trong vuộc
sống va chạm hằng ngày...
Người
đời ưa chuộng những người biết nhịn nhục tha thứ, coi việc tha thứ là việc làm
của những người anh hùng, chứ không phải việc làm của những kẻ hèn nhát khiếp
nhược, việc đó lại còn có lợi cho cuộc
sống cá nhân nữa :
Chữ
nhẫn là chữ tương vàng,
Ai
mà nhẫn được thì càng sống lâu.
(Ca
dao)
Sách
Cách ngôn cũng nói lên ý nghĩ của mọi người về vấn đề nhịn nhục và tha thứ khi
nói :
“Những
hạng người tài mà tính khí hoà hoãn ấy là bậc đại tài.
“Những
hạng người khôn ngoan mà khí hóa ôn hòa là bậc đại trí”.
3. Phải có
một tâm hồn khiêm nhường
Một
trong nhiều câu truyện kể vềø các thánh tu hành trong sa mạc, có câu truyện do
Abbot
Macarius kể :
Một
hôm trên con đường về căn chòi của mình, thầy Macarius gặp một thằng quỷ với
thái độ rất bất mãn. Thầy gạn hỏi :
-
Chuyện gì vậy ?
Quỷ liền
đáp :
-
Macarius, thầy biết không, tôi rất khổ tâm khi không thắng
được thầy.
Thầy
dòng thánh thiện hỏi lại :
-
Tại sao vậy ?
-
Tôi cố gắng làm tất cả những điều thầy làm, Thầy ăn chay
tôi cũng nhịn đói được. Thầy tỉnh thức cầu nguyện, tôi cũng thức suốt đêm được, nhưng chỉ có một điều duy nhất tôi
không làm được như thầy !
-
Điều gì vậy ?
-
Đó là sự khiêm nhường. Chính vì vậy mà tôi không thắng
đuợc thầy. Không qua mặt được thầy, thì tôi cũng không thể cám dỗ được thầy.
(Thomas Merton, The
Wisdom of the Desert, 1970, tr 52-53)
Sự khiêm
tốn đã đem lại cho thầy dòng Macarius sự bình an. Sống dễ thương với hết mọi
người thì bạn sẽ có bình an.
Sống đơn sơ không đòi hỏi bạn sẽ cảm nghiệm được bình an. Sống khiêm tốn và
chấp nhận cuộc sống thì bạn sẽ thấy bình an. Hãy trao ban cho tha nhân những gì
bạn lãnh nhận nhưng không thì sẽ nếm được bình an. Có lẽ thầy dòng Macarius đã
nhận ra được 5 kẻ thù chính của sự bình an !
Bạn có tin rằng trạng thái bình an và tâm tình khiêm tốn là hai đôi bạn
thân không ? Bạn cứ thử xem và sẽ cảm nghiệm được. Lời của thánh Phaolô tông đồ
thách thức chúng ta :
“Nếu
quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình
bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu
chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy
có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như
nhau. Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường
mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng
hãy tìm ích lợi cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm
tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,1-4).
(Thanh Thủy, Con đường tình yêu, 1997, tr 159-161)
KẾT
LUẬN
Bền
tâm hy vọng được chiêm ngưỡng Giêrusalem trên trời (Kh 21,2) người Kitô hữu
khát mong thực hiện mối toàn phúc :”Phúc cho những kẻ kiến tạo hòa bình” (Mt
5,9), vì sẽ được sống như Thiên Chúa, làm con Thiên Chúa trong Đức Giêsu,
Người Con độc nhất. Họ cố gắng hết sức để xây dựng thuận hòa và an vui nơi trần
thế.
Sống
hòa bình với nhau, đó là dấu hiệu các người con của Thiên Chúa. Ở đâu có bác ái
thì Thiên Chúa hiện diện ở đấy. Cũng thế,
ở đâu có hòa bình thì Thiên Chúa cũng ngự ở giữa. Thánh nữ Têrêsa Hài
đồng nói :”Chúng ta phải là những thiên thần mang lại bình an, chứ không phải là những vị thẩm phán hòa giải”.
Người
biết sống hòa bình là những người được Chúa thương vì họ được gọi là con cái
Thiên Chúa, họ được lợi cả đời nay lẫn đời sau, cả tinh thần lẫn vật chất, như
thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm
đã nói :
Chữ
rằng : nhân dĩ hòa vi quí,
Vô
sự thì hơn đỡ phải lo.
Để
kết thúc bài này, thiết tưởng không gì hơn là chúng ta hãy cùng nhau đem Kinh
Hòa bình của thánh Phanxicô Assisi ra để suy niệm, để cầu nguyện, xin Chúa biến chúng ta thành những dụng cụ
hòa bình của Chúa để chúng ta có thể
Đem
yêu thương vào nơi oán thù,
Đem
thứ tha vào nơi lăng nhục,
Đem
an hòa vào nơi tranh chấp,
Đem
chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Giang sinh năm 2003