MÙA CHAY
_________________________________________
Hãy sám hối (Mc 1,15)
Chúng ta bước vào Mùa
Chay thánh. Đây là thời gian mà thánh Phaolô gọi là thời gian thuận tiện, ngày
cứu độ (2 Cr 6,2b). Mùa chay là thời gian thuận lợi để chúng ta rà xét lại con
người của chúng ta để biết chúng ta đang như thế nào, có đi đúng con đường Chúa
đã chỉ cho không, mà nếu chúng ta đã đi lệch khỏi con đường Chúa chỉ dạy thì
phải ăn năn sám hối trở về con đường lành.
Sám hối là trở về với Chúa.
I. SÁM HỐI THEO THÁNH
KINH.
Ngay từ đầu, con người
đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa luôn kêu mời họ. Lời đáp trả tiếng mời gọi của
Thiên Chúa sẽ đòi họ phải biến cải, rồi trong suốt cuộc sống phải có thái độ
sám hối. Do đó, hoán cải và sám hối chiếm một địa vị đáng kể trong mạc khải Thánh
kinh.
Từ ngữ thông dụng nhất
là động từ sub diễn đạt ý thưởng thay đổi hướng đi, trở về. Trên bình diện tôn
giáo, nó biểu thị việc người ta từ bỏ những gì xấu và quay về Thiên Chúa. Ngày
nay người ta hay dùng danh từ metanoia chỉ sự thống hối, ăn năn, trở về với
Chúa.
1. Trong Cựu ước.
a) Thực hành trong cuộc sống.
Người dân hiểu rằng
mình đã ký giao ước với Thiên Chúa và giao ước đã bị vi phạm do tội lỗi của
dân, cần phải nối lại giao ước ấy. Để nối lại giao ước ấy người ta đã khẩn nài
Thiên Chúa tha thứ bằng cách thực hành những việc khổ chế và những phụng vụ sám
hối : chay tịnh (Tl 20,26 ; 1V 21,8tt), xé áo mình ra và mặc áo nhặm (1V 20,31t
; Is 22,12 ; x. Ga 3,5-8), nằm trên tro (Is 58,5 ; Sm 12,16). Trong các buổi cử
hành phụng vụ, người ta rên siết và than khóc như trong đám tang (Tl 2,4 ; Gl
1,13).
b) Sứ điệp hoán cải của các ngôn
sứ.
Các ngôn sứ đã tuyên
sấm lời Chúa cho dân giúp họ nhận ra sự
phản bội của mình mà sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.
Trước tiên, ngôn sứ
Nathan đã được sai đến cùng vua Đavít cảnh cáo về tội ngoại tình. Đavít đã được
hướng dẫn thú nhận tội lỗi mình (2 Sm 12,13), đoạn đền tội theo qui luật và sau
cùng chịu Thiên Chúa sửa phạt (Sm 12, 13-23).
Tuy nhiên sứ điệp sám
hối của các ngôn sứ, nhất là từ thế kỷ thứ 8 nhắm tới toàn thể dân chúng,
Israel đã vi phạm giao ước, “đã bỏ Giavê và khinh rẻ Đấng thánh của Israel” (Is
1,4). Giavê có quyền bỏ họ nếu họ không hoán cải. Thế nên, việc kêu gọi sám hối
sẽ là một khía cạnh cốt yếu trong cuộc rao giảng của các ngôn sứ.
Amos, ngôn sứ của sự
công chính, không chỉ hài lòng với việc tố cáo tội lỗi của người đương thời mà
còn phải sự lành chứ không phải sự dữ,
phải “chê ghét sự dữ và yêu mến sự lành” (Am 5,14 t). Điều đó bao hàm
việc chỉnh đốn hạnh kiểm và thực thi nghiêm chỉnh sự công chính, chỉ có sự quay
đổi như vậy mới có thể được Thiên Chúa dủ lòng thương xót “nhóm còn lại của
Giuse” (Am 5,15t)
Cũng thế, Osée đòi buộc
phải thực sự dứt bỏ tội lỗi và đặc biệt là dứt bỏ sự sùng bái ngẫu tượng. Ông
loan báo : Thiên Chúa sẽ ban lại ân huệ của Ngài và sẽ nguôi giận (Os 14,2-9)
Isaia tố cáo mọi tội
lỗi nơi dân Giuđa : vi phạm công bình, làm sai lạc phụng tự, bám víu vào chính
trị loài người vv... Chỉ có việc hoán cải chân thực mới mang lại sự cứu rỗi, vì
nơi nào không qui phục thánh ý của Thiên Chúa, thì phụng tự chẳng có giá trị gì
cả (Is 1,11-15 ; x. Am 5,21-25). Isaia
bị phản đối, nhưng ông cũng có thể xác quyết một điều là :”Nhóm còn lại sẽ trở
về... với Thiên Chúa hùng mạnh” (Is 10,21). Dân tộc sau cũng được hưởng ơn cứu
rỗi sẽ toàn những người hối cải mà thôi.
Việc nhấn mạnh đến những tâm tình bên trong phải dâng tiến
Thiên Chúa đã chóng trở thành một đề tài thông dụng trong giáo huấn của các
ngôn sứ.
Mika rao giảng công
chính, hiền từ và khiêm nhường (Mk
6,8).
Xophonia lặp lại khiêm
nhường và thành thật (Xp 2,3 ; 3,12t).
Nhưng Giêrêmia theo
đường hướng tư tưởng của Osée, đã quảng diễn rộng rãi chủ đề hoán cải. Sở dĩ
ngôn sứ loan báo các tai họa đe dọa Giuđa, chính vì để mỗi người từ bỏ con
đường bất chính trở về và để Giavê có thể tha thứ họ (Gr 36,3).
Ezechiel, trung thành
với truyền thống ngôn sứ, đặt trọng tâm sứ điệp của ông vào việc cần phải hoán
cải trong lúc thực hiện những lời đe dọa của Thiên Chúa, “Hãy vứt xa tội lỗi
của các ngươi đã vấp phạm, hãy tạo cho mình một quả tim mới và một tinh thần
mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi phải chết ? Ta có muốn cho ai phải chết
đâu ! Hãy hoán cải và các ngươi sẽ được sống” (Ed 18, 31t).
Vậy từ Amos đến
Ezechiel, giáo thuyết về hoán cải vẫn được nghiên cứu sâu xa, song song với mức
độ hiểu biết về tội lỗi. Vào cuối thời
lưu đầy, sứ điệp an ủi ghi nhận Israel đã hoán cải hữu hiệu, được cứu độ. Và sau Israel, đến lượt chư dân cũng sẽ hoán
cải : từ bỏ các ngẫu tượng, họ đều quay về với Thiên Chúa hằng sống (Ed 45,14t;
Gr 16,19tt).
2. Trong Tân ước.
a) Gioan Tẩy giả.
Đây là ngôn sứ bản lề
giữa Cựu ước và Tân ước. Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ hội tụ lại với tất cả
vẻ tinh tuyền của nó trong lời giáo huấn ông, vị ngôn sứ cuối cùng. Luca đã tóm lược sứ mệnh người như sau :
“Người sẽ dẫn dắt nhiều con cái Israel về với Chúa, Thiên Chúa họ” (Lc 1,16t).
Sứ điệp của người được đúc kết trong câu :”Hãy hoán cải vì Nước Trời đã gần kề”
(Mt 3,2)
Gioan khuyên mọi người
phải tự nhận là kẻ có tội, phải sinh hoa trái xứng với lòng thống hối (Mt 3,8),
chấp nhận một nếp sống mới thích hợp với tình trạng mình (Lc 3,10-14). Để đánh dấu cuộc hoán cải này, Gioan trao
ban một phép rửa bằng nước để chuẩn bị các hối nhân nhận lãnh phép rửa bằng lửa
và bằng Thánh Thần mà Đấng Messia sẽ ban (Mt 3,11tt).
b) Đức Giêsu.
Ngài cũng là một đại
ngôn sứ trong Tân ước. Mở đầu việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài
cũng dùng lời mời gọi hoán cải mà ông Gioan Tẩy giảđã rao giảng trước :”Hãy ăn
năn sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 1,15 ; Mt 4,17), Ngài đã đến chính là để
kêu gọi tội nhân hoán cải (Lc 5, 32) Đó chính là một khía cạnh cốt yếu của Tin
Mừng Nước Trời.
Nhưng sứ điệp hoán cải
gặp nhiều chống đối từ việc dính bén của cải (Mc 10,21-25) cho tới tính kiêu
căng của Pharisêu (Lc 18,9). Quả thật,
tính ngoan cố hiện tại của Israel là dấu chỉ sự cứng lòng (Mt 13,15tt ; x. Is
6,10). Nếu không thay đổi nếp sống, thì các kẻ nghe lời Đức Giêsu mà vẫn còn cố
chấp trong tội lỗi sẽ bị hủy diệt (Lc 13, 1-5).
Khi đòi hỏi hoán
cải, Đức Giêsu không có ý nhằm tới
phụng vụ sám hối với hình thức bên ngoài, mà chính là sự thay đổi con tim khiến
ta lại trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,3tt), tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt 6,33)
nghĩa là chỉnh đốn lại cuộc sống của mình theo Luật mới.
c) Các Tông đồ.
Lúc sinh thời, Đức
Giêsu đã sai các sứ đồ đi rao giảng sám hối và loan truyền Tin Mừng Nước Thiên
Chúa (Mc 6,12). Sau khi sống lại, Ngài
đã nhắc lại cho họ sứ mệnh ấy : Nhân danh Người, các ngài sẽ đi rao giảng sự thống hối cho chư dân để họ được tha tội
(Lc 24,47), vì tội lỗi sẽ được tha thứ cho những ai được các ngài tha thứ (Ga
20,23). Sách Công vụ tông đồ và các thư cho ta thấy mệnh lệnh này được chu toàn
thế nào. Tuy nhiên, tùy trường hợp là
Do thái hay lương dân, mà việc hoán cải này mặc hình thái khác biệt nhau.
d) Hội thánh Công giáo.
Hành vi hoán cải mà
phép rửa niêm ấn được hoàn tất cách dứt khoát một lần mà thôi. Không thể lặp lại ơn sủng ấy lần nào nữa (Dt
6,6). Thế nhưng những người đã chịu phép rửa vẫn có thể sa ngã phạm tội : cộng
đoàn sơ khai ngay từ lúc đầu đã có kinh nghiệm về điều đó. Trong trường
hợp này, dù sao chăng nữa sự ăn năn
cũng vẫn cần thiết nếu người ta muốn tham dự vào ơn cứu rỗi, ví dụ Phêrô đã kêu
gọi nhà ma thuật Simon hoán cải (cvtđ 8,22), Giacôbê hối thúc các Kitô hữu
nhiệt thành lo dẫn đưa những người tội lỗi ra khỏi sự lầm lạc của họ (Gc
5,19t). Phaolô vui mừng vì các tín hữu Corintô đã ăn năn (2 Cr 7,9t). Sau cùng,
trong sứ điệp gửi bảy Giáo hội mà sách Khải huyền nói tới, thấy hiện rõ những
lời mời gọi ăn năn, những lời mời gọi cho thấy đã có những người sa ngã không
còn sốt mến như xưa (Kh 2,5 ; 16,21t).
3. Sám hối là điều cần thiết.
Trong Cựu ước và Tân
ước, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi con người hãy bỏ con đường tội
lỗi mà trở về với Ngài. Lòng sám hối được biểu lộ ra qua những dòng nước mắt ăn
năn. Điếu này rất tốt đẹp, hữu ích và
làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Truyện
: nước mắt sám hối.
Người Hồi giáo thường
kể rằng : Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có
điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống
một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt
một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy .
Ngài bảo : “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo
là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng
thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám
tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau
quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối
với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm
ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa
hài lòng. Ngài nói :”Dĩ nhiên lòn g biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và
hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ
thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi
chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt
mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của
sứ thần, người đàn ông giải thích :”Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội.
Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng
lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm
chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói :”Thế là ngươi đã hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng
sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc
đời. Một lòng sám hối chân thật có sức
biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.
(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh,
tr 304)
II. NHU CẦU PHẢI SÁM
HỐI.
Ta hãy đọc một đoạn
Phúc âm theo thánh Luca nói về dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,44-7). Trong bài
Phúc âm này, ta thấy Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về con chiên lạc. Con
chiên bị thất lạc hoặc tự ý riêng mà bị thất lạc hoặc người khác làm cho bị
lạc, cả hai cần được tìm về trong đàn,. Nếu con chiên lạc mà được tìm thấy thì
chủ vui mừng biết bao ! Người chủ phải tổ chức tiệc ăn mừng. Qua dụ ngôn này,
Đức Giêsu cũng kêu gọi những người đã lạc đường hãy ăn năn trở lại ; và Thiên
Chúa vui mừng biết bao khi có người tội lỗi ăn năn trở lại (Lc 15,4-7).
Trong mùa Chay, ta hay
nghe cái từ ngữ Sám hối. Sám hối có nghĩa là trở về, trở về nơi mình đã xuất
phát. Nói trở về là nói mình đang ở xa.
Xa nhà, nay tôi trở về. Khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự
cách biệt.
Khi định nghĩa trở về
trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa.
Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu
xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ, thì dường như tôi không xa
Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.
Đọc dụ ngôn con chiên
lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn.
Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có
người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở
về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Phúc âm trên, ta thấy sự trở về có thể là
cần thiết cho những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong
nhà thờ.
Do đó, chúng ta đừng
nghĩ rằng : chỉ những người không tin Chúa hay đã bỏ Chúa mới cần trở về ; còn
chúng ta là những Kitô hữu đích danh, hằng ngày vẫn đi lễ, xưng tội, rước lễ,
làm các việc lành phúc đức thì chẳng cần phải trở về vì chúng ta đang ở trong
đạo, trong Giáo hội mà !
Nhưng rất có thể chúng
ta đã trở nên vô đạo hoặc tệ hơn nữa là vô thần lúc nào không biết ; tuy mang
danh là Kitô hữu mà đời sống còn tệ hơn người vô đạo. Người ngoại đạo tuy ở ngoài đạo, ngoài Giáo hội mà lòng họ vẫn
liên kết với đạo, vẫn có lòng tin, vẫn muốn sống vươn lên trong tâm tình ước
muốn :
Lạy Chúa, con là
người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa
ngự trên cao.
Cũng như bây giờ, có
ngườiở trong nhà thờ mà lòng trí họ đang ở ngoài nhà thờ, trong khi đó có nhiều
người đang ở ngoài nhà thờ mà lòng trí họ đang ở trong nhà thờ.
Vì vậy trong mùa Chay
này ta thử xét lại, tuy mình là Kitô hữu đấy mà có thực sự gắn bó và ở trong
Giáo hội không. Tuy là con cái Chúa đấy
mà có sống trong ân tình của Chúa không hay là ta đã xa Chúa ? Nếu thành thực xét mình thì không ai dám nói
mình là người sống thánh thiện, sống khăng khít với Chúa, chỉ có những người
Pharisêu và Luật sĩ thì mới dám nói như vậy (x. Lc 16,15). Vì thế, chúng ta
phải rà xét lại cuộc sống của chúng ta xem như thế nào, sống xa Chúa bao nhiêu
và quyết tâm trở về. Sự trở về đòi ta phải thành thực và can đảm nhìn nhận
những lỗi lẫm của mình để xin Chúa ban ơn tha thứ.
Truyện
: ông Mahatma Gandhi.
Mahatma Gandhi có kể về
cuộc đời ông như sau : Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn
trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một
số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng
để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn
luôn bị lương tâm cắt rứt, không cho tôi được giây phút bình an. Tôi khônt thể
sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng
sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể
thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra
một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã
cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó
cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của
tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh,
rồi nói với tôi :”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng
tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người.
Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn.
Muốn sám hối, điều kiện
cần là phải biết mình, có biết mình có tội, có biết mình mắc lỗi lầm thì mới có thể sám hối được ; nếu không có tội
thì làm gì phải thống hối ? Những người Luật sĩ và Pharisêu là những người
không biết mình, họ luôn tự hào là những người đạo đức thánh thiện thì làm gì
phải sám hối, làm gì phải quay trở lại ? Những lời kêu mời của Chúa Giêsu chẳng
có tác dụng gì đối với họ, trái lại càng làm cho họ thêm thù ghét.
Truyện
: thủ tướng Bốphốp nhận lỗi.
Theo một bản tin của
hãng thông tấn Amsa truyền đi , thì vị thủ tướng của nước Úc là Bốphốp đã bị
cảnh sát công lộ phạt 100 Úc kim vì đi xe hơi mà không đeo giây an toàn. Sự
kiện xẩy ra sau khi đài truyền hình số 9 của Úc trình chiếu cảnh thủ tướng đang
ngồi trong chiếc công xa chở ông đến thành phố Besthen mà không thắt dây an
toàn. Theo dõi hình ảnh ấy, nhiều khán
thính giả đã gọi dây nói đến sở cảnh sát của tiểu bang Besthen để phản đối việc
thủ tướng của họ không giữ luật giao thông.
Cũng ngày hôm đó, giám đốc sở cảnh sát bang Uyheslen đã nhận được một cú
điện thoại của thủ tướng Hốp, người được xem là có quyền lực cao nhất tại
Úc, đã nhìn nhận lỗi lầm vì không giữ
đúng luật giao thông, và ông đã xin
được xử lý như tất cả mọi người công dân khác. Kết quả là sở cảnh sát của tiểu
bang đã phạt ông 100 Úc kim.
(Hạt giống âm thầm (bản
ronéo), tr 320)
III. THIÊN CHÚA GIẦU
LÒNG THA THỨ.
1.
Trong Cựu ước.
Lịch sử dân Israel xưa
là lịch sử của một dân phản bội và của lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Dân Chúa luôn phản bội giao ước nhưng Thiên Chúa không thất vọng, Người luôn
kêu mời họ trở lại để sống trong ân tình của Người. Chúng ta hãy nhìn qua cách cư
xử của dân.
a) Trong sa mạc.
Sau phép lạ lớn lao làm
cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân, dân Chúa tiếp tục cuộc hành trình đi về đất
hứa. Trong sa mạc, dân Chúa luôn càm
ràm và phản đối ông Moisen như trường hợp ở Meriba và ở Massa. Có lần Thiên
Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết niều người. Dân chúng hồi tâm, nhờ ông
Moisemn can thiệp với Chúa. Chúa nhận lời và bảo ông Moisen đúc con rắn bằng
đồng treo trên cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn sẽ được khỏi.
b) Nơi
đất hứa.
Thiên Chúa đã giải
phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ của Ai cập, đem họ vào đất hứa chảy sữa cùng mật,
phân phát cho dân Ngài phần đất của dân ngoại làm cơ nghiệp. Thiên Chúa chỉ đòi
buộc dân Ngài phải trung thành, không được thờ các thần của dân ngoại. Nhưng
dân Chúa đã bất trung với giao ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa, nên
Ngài để cho dân ngoại đến giầy xéo đất nước và bắt họ đi lưu đầy. Vua
Nabuchodonosor bắt họ đi lưu đầy ở Babylon từ năm 721 đến năm 538 họ mới được
trở về với chỉ dụ của vua Cyrô (2 V 17,6), cuộc lưu đầy kéo dài 83 năm.
c) Cảnh cáo và khuyên răn.
Khi dân Chúa đã trở về
quê hương sau thời gian lưu đầy, trùng tu lại đền thờ Giêrusalem, dân vui mừng
vì được giải phóng, lo việc thờ phượng Chúa.
Nhưng chứng nào tật ấy, dân lại bất trung, đi vào vết xe cũ, Thiên Chúa
sai nhiều tiên tri đến cảnh cáo và khuyên răn như thời còn bị lưu đầy :
“Hãy trở lại, hãy từ bỏ
mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi
phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi cácngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm.
Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (Ed 18, 30b-31).
c) Thiên Chúa tha thứ.
Tuy con người phản bội,
Thiên Chúa vẫn luôn tha thứ. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều đó :
Thiên Chúa xúi ngôn sứ
Osée đi kiếm một con điếm về làm vợ. Lẽ thường thì không ai làm như vậy. Thanh
niên họ có chơi thì chơi với gái điếm, còn khi lấy vợ thì phải tìm đến con gái
nhà lành chứ ! Đàng này ông Osée nghe lời
Chúa đi lấy một cô gái điếm về làm vợ.
Hai người thương yêu nhau thắm thiết. Bà ta sinh ra cho ông được ba đứa
con và đặt cho mỗi đứa một tên kỳ quặc, nếu dịch ra tiếng Việt thì có nghĩa
như là “Nguyễn-văn-Chúa-không-thương-mày-nữa”.
Ngày tháng trôi qua,
nhớ lại cảnh sống xưa, bà ta bỏ ông để đi theo cái nghề cũ. Chúng ta thử xem ông ta có đủ can đảm mà tha
thứ và còn đi rước bà ta về, lại còn yêu thương như trước không ? Khó quá !
Thiên Chúa lại xúi ông
Osée đem tiền đem bạc đi để chuộc bà ta về. Ông ta đã làm như vậy. Khi đã trở
về, ông ta lại tiếp tục yêu thương vợ như cũ.
Đây là câu chuyện có
thật trong Thánh kinh và cũng là hình ảnh nói lên Thiên Chúa yêu thương và tha
thứ cho chúng ta mặc dầu chúng ta phản bội Ngài. Xin lỗi ông bà anh chị em, tôi
có thể nói rằng : trước mặt Thiên Chúa chúng ta đều là gái điếm cả, vì gái điếm
thì theo hết người này tới người khác, còn chúng ta thì theo hết thần này đến
thần khác : thần tình ái, thần sắc dục, thần tiền của, thần danh vọng, thần cờ
bạc, và không biết bao nhiêu thần khác nữa.
2. Trong Tân ước.
Chúng ta là dân Israel
mới, tiếp nối dân Israel cũ, chúng ta lại đi vào con đường cũ : bất trung, phản
bội. Chúa Giêsu đã chịu chết chuộc tội
cho chúng ta và đã lấy máu đổ ra trên thập giá để ký kết giao ước vĩnh cửa với
loài người. Chúa luôn trung thành với lời hứa, nhưng con người lại phản bội.
Tuy thế, Ngài vẫn thương yêu và tha thứ, kêu gọi con cái hãy trở về trong tình
thương của Ngài.
Thánh Luca đã kể ra ba
dụ ngôn ; con chiên lạc, đồng tiền đánh mất và nhất là câu chuyện đứa con phung
phá (Lc 15, 11-32) đã chứng tỏ : tuy người con đã từ bỏ cha mà đi hoang nhưng
người cha vẫn nóng lòng chờ đợi con trở về :
Nhớ ai bổi hổi bồi
hồi
Nhớ ai hết đứng
lại ngồi không yên
(ca dao)
Khi người con hối hận
trở về, người cha vội sai gia nhân mặc áo mới cho cậu, xỏ giầy vào chân, xỏ
nhẫn vào tay, giết con bò đã vỗ béo ăn mừng.
Tại sao lại có sẵn áo mới, giầy mới và bê đã vỗ béo ? Điều đó chứng tỏ người cha hy vọng cậu con
trai sẽ trở về nên đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ đó. Người cha không thất vọng về người con. Cũng thế, Thiên Chúa
không bao giờ thất vọng về chúng ta, Ngài vẫn luôn giang cánh tay ra chờ đón.
3.
Chúa Giêsu, nguồn ơn tha thứ.
Thiên Chúa là người Cha
giầu lòng thương xót sẵn sàng tha thứ
cho những sự bội bạc của con cái như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15).
Ta hãy đặt mình vào tình trạng của đứa con trong bước đường cùng và hãy tự nhủ
mình :”Thôi, ta đứng lên, đi về cùng Cha và thưa với Ngài : Thưa cha, con thật
đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như
người làm công cho cha vậy” (Lc 15, 18-19).
Đức hồng y F.X. Nguyễn
văn Thuận trong bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô 2 và giáo
triều Roma đã trình bầy đề tài “các khuyết điểm của Chúa Giêsu” để nói lên lòng
thương yêu tha thứ của Ngài.
a). Đức Giêsu không có trí nhớ
tốt.
Trên thập giá, trong
lúc hấp hối. Đức Giêsu nghe tên trộm bên phải nói :”Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến
tôi, khi ông vào nước của ông” (Lc 23,42).
Giả sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời :”Tôi sẽ không quên anh nhưng
anh phải đền bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục”. Trái
lại, Chúa trả lời anh ta :”Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên thiên
đàng” (Lc 23,43).
Điều tương tự cũng xẩy
ra với người đàn bà tội lỗi đã xức dầu thơm cho chân Chúa : Chúa Giêsu chẳng
hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ nói :”...tội của con tuy nhiều, nhưng
chúng đều được tha hết vì con đã yêu nhiều” (Lc 7,47).
Cũng tương tự như đứa
con hoang đàng (Lc 15)
Chúa Giêsu không có một
trí nhớ như trí nhớ của tôi, không những Ngài tha thứ, và tha thứ cho mỗi
người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.
b) Chúa Giêsu đi thi toán chắc
rớt.
Giả sử Chúa Giêsu đi
thi toán, chắc Ngài bị đánh rớt. Dụ ngôn người mục tử nhân lành chứng tỏ điều
đó. Một người mục tử có một trăm con
chiên.Một con chiên bị lạc và không chần chờ gì, ông ta đi tìm chiên ấy, bỏ 99
con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác lên vai (x. Lc
15,4-7)
Đối với Chúa Giêsu, 1
có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế nữa ! Có ai chấp nhận được điều đó không ? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng từ đới này sang đời
khác...
c) Chúa Giêsu chả biết gì về Triết
học.
Ngài không hiểu gì về
Luận lý học khi đưa ra dụ ngôn : một người đàn bà có 10 đồng bạc, rủi rớt mất
một đồng, bèn thắp đèn mà tìm. Khi bà
tìm được thì hớn hở gọi hàng xóm láng giềng :”Bà con ơi, hãy chia vui với tôi
vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất” (Lc 15, 8-10)
Thật chẳng hợp lý tí
nào khi mời hàng xóm như vậy vì bà phải chi phí còn hơn đồng bạc tìm được.
Nhưng, đó lại là chính cách Chúa đã dùng để chỉ sự vui mừng của Thiên Chúa khi
một người ăn năn trở lại.
Ở đây chúng ta có thể
nói như Blaise Pascal :”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết
được”.
d). Chúa Giêsu không biết tài
chính và kinh tế.
Ngài chả có ý tưởng gì
về kinh tế và tài chính. Trong dụ ngôn
những kẻ làm vườn nho, ông chủ trả cùng một số tiền cho những kẻ làm đầu tắt
mặt tối từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, và những kẻ gần chiều mới bắt tay
vào việc. Không biết Ngài có tính toán
sai không ? Không ! Ngài chú ý làm như vậy vì Ngài không thương chúng ta vì
công trạng của chúng ta. Tình yêu của
Ngài là hoàn toàn miễn phí vàvượt xa trí hiểu của chúng ta. Ngài đã có những
“khuyết điểm” vì Ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thực sự không có tính toán
so đo, không biên giới, không điều kiện, không ngăn cách và không nhớ những sai
phạm (x. Mt 20, 1-16)
e). Chúa Giêsu là một người phiêu
lưu.
Chúa Giêsu là người mua
lấy rủi ro về phần mình. Người ta muốn chiêu dụ nhiều người theo mình thì hứa
cho thật nhiều những điều tốt lành, trong khi Ngài lại hứa những gian lao thử
thách, bắt bớ và giam cầm cho những kẻ theo Ngài. Trong 2000 năm qua, chúng ta
đã chứng kiến bao rủi ro, thiệt thòi cho những kẻ muốn theo Ngài, nhưng số
người theo Ngài càng đông, họ dám hy sinh cả mạng sống choNgài (x. Mt 820; Lc
9-23)
Để kết luận chúng ta tự
hỏi : tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế ?
- Vì Ngài là Tình yêu
(cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên
những hàng rào, không so đo tính toán, không đặt điều kiện.
(x. Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận,
Chứng nhân hy vọng, tr 39-44)
IV. THỰC HÀNH SÁM
HỐI.
1. Hãy can đảm trở về.
Lời Chúa trong đầu Mùa
Chay cũng nhắc nhở cho mọi người chúng ta, là những con cái yêu thương của Ngài
:”Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 4,15). Sám hối ở đây theo ngôn sứ Giêrêmia là thay đổi hướng đi, thực
tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới.
Trong sứ điệp gửi giới
trẻ thế giới mùa Chay năm 2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã lấy đề tài
:”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập gía hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
Theo ý ngài, Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để tới vinh quang. Ngài đã
vạch cho chúng ta con đường phải đi theo. Chỉ có một con đường duy nhất do Chúa
đã đi, người môn đệ phải theo con đường đó mà không được vạch ra một con đường
nào khác. Nếu chẳng may đã đi trệch đường thì phải có can đảm trở lại, không
ngại khó khăn.
Nhà chí sĩ Phan bội
Châu đã nói :”Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng
người ngại núi e sông”. Đôi khi chúng
ta thấy chưa có kết quả sau bao cố gắng, nhưng không sao, hãy bắt đầu lại, Chúa
không đòi chúng ta phải thu được kết quả trước mắt, Ngài chỉ đòi chúng ta cố
gắng, cốâ gắng không ngừng. Theo tôi nghĩ : cố gắng là đã thành công rồi, vì
không cố gắng là lùi. Bao lâu còn cố gắng là còn tiến.
Chúng ta nghĩ thế nào về
câu nói của một danh nhân ? Mới nghe
thì có vẻ không đúng, nhưng suy cho kỹ thì nó nói cho chúng ta biết rằng :
không một cố gắng nào mà vô ích, mỗi cố gắng
tuy ít ỏi nhưng đều góp vào thành công chung :
“Một ngàn việc
tiến,
Chín trăm chín
mươi chín việc lùi :
Đó là TIẾN BỘ”.
(Henri
Frédéric Amiel)
Truyện
: phải biết bắt đầu lại.
Một thanh niên thấy
cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một vị Linh mục và nói :
- Thưa cha, hôm nay con
đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả :
Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu con đều
phạm hết. Con nản quá ! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng : Thôi
đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới
đáy có lẽ đỡ nóng, hơn là nằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm ! Nói thì nói thế
cho vui, chớ con không yên tâm chút nào.
Vị Linh mục cười và nói
:
- Cha lại thích mấy con
cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi.
Cả hai cha con cười
xòa.
Vị Linh mục nói tiếp :
- Cha kể cho con một
câu chuyện nhé : Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Nguời
cha an ủi : Thôi con ạ, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông thì nhì
sĩ ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm
sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa.
Người con nghe lời, sơm mai vác cuốc ra đồng. Nhưng khi nhìn thấy đám
ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ.
Người cha biết sự việc,
không la rầy, ôn tồn nói với con :
- Mỗi ngày con làm cho cha 20 mét vuông thôi,
con làm được không ?
- Dạ, ít vậy thì được.
Và cứ như thế, chẳng
bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.
Tâm hồn con bây giờ
cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi rồi con sẽ thấy kết
quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng
cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi
hỏi con cố gắng mà thôi.
Mười năm sau đó, vào
một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào Linh mục, rồi
nói :
- Cha còn nhớ con nữa
không ? Con là người cha đã chỉ cho
cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
Câu chuyện trên đây
nhắc cho chúng ta : biết mình lạc đường cần trờ về, đó là điều tốt nhưng thực
hiện cuộc trở về thì khó, vì chúng ta bị cám dỗ tháo lui. Chính Đức Giêsu cũng bị cám dỗ để đi xa con
đường sứ mạng cứu thế của Ngài như ta đã suy niệm trong bài Tin mừng Chúa nhật
thứ nhất Mùa chay (x. Lc 4,1-13).
Cám dỗ cũng cần thiết
vì nó có lợi cho ta, nhờ đó mới biết lòng trung thành của ta đối với Chúa và
làm cho chúng ta càng thêm công trạng như lời Sách Thánh nói :”Lửa thử vàng,
gian nan thử người nhân đức” (Hc 2,5).
2. Đừng bao giờ trì hoãn.
Có những người chi biết
sống với quá khứ để luyến tiếc, có những người chỉ biết hướng về tương lai để
hành động, nhưng nhiều người lại quên hiện tại. Hiện tại là hậu quả của quá khứ
và nguyên nhân của tương lai. Tương lai nằm trong hiện tại. Muốn có một tương
lai sáng sủa thì phải được chuẩn bị trong hiện tại.
Một lỗi lầm thông tường
của tuổi trẻ là hay xem thường NGÀY
NAY. Người bạn trẻ hay nghĩ rằng những công việc to lớn, những cái gì đáng làm
đều thuộc ở NGÀY MAI. Còn NGÀY NAY là
tầm thường, là không đáng kể nên họ không muốn bắt tay làm gì cả.
Thực tế hơn, nhà văn
hào Anh J. Ruskin cho khắc vào phiến đá hai chữ :”TO DAY” (Ngày nay) và đặt nó
trên bàn viết để mỗi ngày ông ta có việc chiêm nghiệm về bổn phận của mình là
làm xong những công việc của NGÀY NAY.
Một thi nhân Hy lạp thời xưa cũng đã viết “CARPE DIEM” để khuyên chúng
ta hãy biết dùng một cách đầy đủ ngày hôm nay.
(Phạm cao Tùng, Tôi có thể nói
thẳng với anh, in lần 3, tr 106)
Kinh nghiệm cho hay :
chúng ta có những chương trình qui mô, những dự tính tốt đẹp cần thực hiện,
nhưng chúng ta lại rùi rắng, không muốn bắttay vào việc ngay. Người ta thường
nói : những gì có thể làm được hôm nay thì đừng để đến ngày mai theo phương
châm “carpe diem”.
Muốn sửa đổi con người của mình, muốn làm
thánh thì hãy bắt tay vào việc, chớ bao giờ trì hoãn kẻo bỏ lỡ cơ hội.
Truyện
: kế hoạch trì hoãn.
Ngày kia Satan hỏi các
đồ đệ :
- Làm thế nào để chiếm
đoạt được các linh hồn ?
Quỉ thứ nhất nói :
- Tôi sẽ rỉ tai : không
có Chúa đâu.
Satan bảo :
- Họ đâu có tin, nhìn
vào vũ trụ, không thể nào chối là không có Thiên Chúa được.
Qủi nhỏ thứ hai bảo :
- Tôi sẽ rỉ tai : chết
là hết, chết là hết.
Sa tan bảo :
- Không được, vì sự
sống đời đời đã được khắc ghi vào chính giữa trái tim con người.
Thế là cả bọn cùng trầm
ngâm suy nghĩ.
Bỗng một con qủa đen
đủi đứng lên nói :
- Tôi có cách : tôi sẽ
nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết : Chúa có thật và chết chưa phải là hết.
Tôi bảo họ phải sám hối ăn năn và trở về với Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ : gấp
gì, còn chán thì giờ ! Để gần chết rồi lại ăn năn, thế là được hưởng cả đời này
lẫn đời sau, phải không nào ?
Qủi vương đập bàn cười ha hả :
- Tuyệt, thật tuyệt,
theo kế hoạch này, chúng ta sẽ thành công.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã bước vào
Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện, thời gian cứu độ, Chúa luôn yêu thương
chúng ta, luôn kêu gọi chúng ta trở về, sẵn sàng tha thư mọi lỗi lầm. Đừng ai
hồ nghi về tình yêu tha thứùù của Thiên Chúa, hãy đứng dậy trở về cùng Chúa,
đừng sợ quá muộn vì trơ về trong tình yêu thì không bao giờ quá muộn.
Truyện
: trở về trong tình yêu.
Trong một buổi chia sẻ
kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau :
Tôi nhớ ngày tôi còn là
một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh
cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh
khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến
cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối
tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình
tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuỵện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội
phê bình to tiếng :”Bấy giờ mới trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã
chết rồi”.
Tôi thấy mẹ tôi định
trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói :”Không có sự trở về
nào là trễ trong tình thương con ạ” .
Ngày đó, thú thật tôi
không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới
thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng thương
yêu tha thứ cho con cái tôi.
(Thiên Phúc, Tình yêu mạnh hơn sự
chết. tr11-12)
Tình yêu thương cao cả
vô vị lợi đó, chính là hình ảnh lu mờ của Thiên Chúa dành cho con người. Khi
chúng ta sống ngay lành, thánh thiện, chúng ta không giúp ích gì hay tăng thêm
một chút gì cho Chúa, nhưng khi chúng ta lầm lỗi, chính lúc chúng ta làm phiền
lòng Người chỉ vì Chúa yêu thương chúng ta, những lúc đó Chúa luôn mong mỏi
chúng ta trở về.
Vậy trong cuộc đời làm
con Chúa, đừng bao giờ ngã lòng thất vọng, vì với tình thương thì không bao giờ quá muộn, chỉ cần chúng ta
mở rộng cõi lòng để yêu thương, để hoán cải và ước ao nên trọn lành.
Để kết thúc, chúng ta
hãy suy niệm lời ngôn sứ Ezechiel :”Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch
của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy
quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình
một trái tim mới và một thần khí mới.
Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết ? Quả thật. Ta không
thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng.
Vậy, hãy TRỞ LẠI và hãy sống” (Ed 18,30b-32).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Mùa chay 2004