LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
Đã
từ lâu Hội thánh vẫn tin và mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Vấn đề Đức Mẹ hồn
xác lên trời còn bỏ ngỏ cho các nhà thần học tranh luận vì Kinh thánh không nói
rõ về vấn đề này. Tin hay không tin,
tùy mỗi người, nhưng từ ngày 1.11.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII tuyên bố thành
tín điều thì không còn tranh luận nữa. Mọi người đều phải tin và hôm nay chúng
ta hợp cùng toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên
trời :
Nữ vương đến tuổi đầy ơn phúc
Thánh
Tử Thiên thần đều xuống rước
Hồn
xác lên trời rất tốt lành
Hưởng
muôn muôn phúc ai hay được.
(Vãn
Mân côi)
I. CHUNG QUANH VIỆC ĐỨC MẸ LÊN TRỜI.
Tại
Giêrusalem ngày nay, bên sườn núi cây dầu, có một ngôi mộ, được lồng vào bên
trong một ngôi Thánh đường. Đó là ngôi
mộ của Đức Mẹ.
Nhưng
ngôi mộ ấy không có xác.
Thánh
Gioan Damascenô, trong bài giảng về Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời năm xưa
tại Giêrusalem có kể rằng : Năm 451 nhân dịp giáo chủ Juvenal, tổng giám mục
thành Giêrusalem, đến viếng thăm thủ đô Constantinople, thì hoàng đế Marcien,
trong cuộc triều yết, có nói với giáo chủ : “Ta nghe rằng tại Giêrusalem có
ngôi thánh đường lớn nhất của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, nằm gần vườn
Giệtsêmani, trong đó có ngôi mộ táng xác của Đức Mẹ. Vậy ta muốn rằng xác thánh
ấy được đem về thủ đô, để Ngài phù hộ cho đế quốc”.
Giáo
chủ Juvenal trả lời :”Thật chúng tôi có ngôi mộ của Đức Mẹ, nhưng ngôi mộ ấy
trống không từ đời các thánh Tông đồ”.
Ngôi
mộ ấy trống không, vì Đức Mẹ sau khi qua đời đã được Chúa rước linh hồn và xác
lên trời. Đó là lễ mà chúng ta long trọng mừng ngày hôm nay.
(
Lm.Hồng Phúc. Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 167)
Các
sách Phúc âm không nói gì đến việc Đức Mẹ lên trời, Hội thánh dựa theo Thánh
truyền và lòng sùng kính của giáo dân qua bao thế kỷ mà xác tín về điều
đó. Theo Thánh truyền, sau khi Chúa
Giêsu về trời, Đức Mẹ còn ở lại yên ủi và giúp đỡ các Tông đồ. Sau lễ Hiện
xuống, tuy đã chia tay nhau đến các nơi giảng đạo, song các Tông đồ cũng thường
có liên lạc với Đức Mẹ, và Đức Mẹ chia vui sẻ buồn với các ông, nhất là hằng
cầu nguyện cho.
Lúc
Đức Mẹ lên 64 tuổi (có người cho là 72 tuổi), Đức Mẹ được Chúa cho biết ngày
hội ngộ với Con trên thiên đàng đã gần đến, thì Ngài đã cho thánh Gioan biết và nhắn cho các Tông đồ trở về. Nhận
được tin, các Tông đồ vội vàng trở về Giêrusalem, và được gặp Đức Mẹ trước khi
thở hơi cuối cùng, duy chỉ có ông Tôma chậm chạp không về kịp.
Tắt
hơi đoạn, phòng để xác Đức Mẹ liền sáng và có mùi thơm tho lạ. Sau ba ngày kính
viếng, các Tông đồ và bổn đạo Giêrusalem tẩm liệm và đưa táng trong một phần mộ
khoét trong đá ở trong vườn Cây dầu.
Ông
Tôma về muộn, muốn xem mặt Đức Mẹ lần cuối cùng, nể ông, các Tông đồ và giáo
hữu đi ra phần mộ. Đến nơi, chỉ ngửi thấy phảng phất mùi hoa huệ thơm tho. Và
khi mở hòn đá che huyệt ra thì không thấy xác Đức Mẹ đâu cả.
Giáo
hội tin rằng Đức Mẹ đã được Thiên Chúa rước về Thiên đàng cả hồn cả xác. Nên từ thế kỷ thứ 6 Giáo hội đã mừng lễ Đức
Mẹ hồn xác lên trời ngày 15 thánh 8 hàng năm và còn giữ mãi đến ngày nay. Trong
suốt 20 thế kỷù, vấn đề Đức Mẹ hồn xác lên trời đã bỏ ngỏ cho các nhà thần học
tranh luận. Đến ngày 1.11.1950 Đức Giáo
hoàng Piô XII với tông huấn Munificentissimus
Deus mới định tín việc Đức Mẹ hồn xác lên trời :”Sau khi hoàn tất cuộc đời dương
thế, Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, vô nhiễm và trọn đời đồng trinh, đã được đưa
lên hưởng vinh quang Thiên đàng cả hồn
lẫn xác”.
II. MỘT HỒNG ÂN CAO QÚI TUYỆT VỜI.
Được
lên trời là một hồng ân Chúa ban cho chúng ta vì ta không có quyền đòi
hỏi. Được lên trời cả hồn cả xác như
Đức Maria thì cả là một hồng ân vô tiền khoáng hậu. Là loài người, chúng ta làm gì thường cũng có đủ lý do, phương
chi là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể tìm hiểu để suy nghĩ về lý do mà Chúa ban cho Đức Mẹ được hồng ân cao qúi
tuyệt vời này, nhưng không bao giờ chúng ta có thể hiểu thấu được lý do hành
động của Chúa. Chúng ta chỉ có thể nói rằng Chúa ban cho ai là do lòng thương
xót của Chúa.
Trong
kinh ‘Ngợi khen” Đức Maria đã nói lên tâm tình đó :”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn tớ nữ... vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại”.
Theo
Đức Giáo hoàng Piô XII, một số các thánh và các nhà thần học cho rằng nguyên do
chính của việc Đức Mẹ được đặc ân hồn
xác lên trời là do thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Đức đồng trinh trọn đời của Mẹ.
Mẹ được lãnh nhận những hồng ân thật
trọng đại từ nơi Chúa, nhưng Mẹ không ngừng ở đó. Mẹ đã dùng cả cuộc đời dương
thế của Mẹ sống sao cho phù hợp với những đặc ân Mẹ được lãnh nhận.
Theo
Thánh Kinh ai cũng phải công nhận rằng : Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu là Chúa
Cứu thế (Lc 2, 6,11) Chúa Cứu thế là chính Con Thiên Chúa và cũng là chính
Thiên Chúa (Lc 1,35). Vậy để chọn Đức Maria làm Mẹ sinh ra mình, Thiên Chúa đã
phải làm một phép lạ cho đến nay phải kể là duy nhất, là làm cho Đức Mẹ thụ
thai sinh Con mà còn đồng trinh, thì tại sao Thiên Chúa lại không đưa linh hồn
và xác Đức Mẹ lên trời để một đàng xứng
hợp với tình mẫu tử, đàng khác thưởng công cho Đấng đã sinh ra mình, mà đều răn
thứ 4 chính Thiên Chúa đã ban hành là phải thảo kính cha mẹ (Đnl 5,16 ; Mt
19,19).
Thánh
Gioan Damascenô hạch hỏi một mình :”Đức
Mẹ đồng trinh không vướng vít chút chi
bụi trần dưới đất, cớ sao lại trả Người về đất” ? Thánh nhân còn quả quyết :”Đức
Mẹ chẳng chết như người thế gian, nhưng đã chết vì áp lực tình yêu – chết để về
gặp gỡ Con cực thánh Người đang mong đợi”.
Vậy nếu Đức Mẹ không lên trời, thì cuộc mong đợi ấy còn có nghĩa lý gì ? (Lm
Nguyễn duy Tôn, Phụ trương Lời Chúa,t
1, tr 59-60)
Ngoài
ra Đức Maria còn có nhiều nhân đức khác làm cho Thiên Chúa được vui lòng :
1. Nhân
đức Khiêm nhường :
Mẹ
Maria luôn coi mình là con người nhỏ bé trước mặt Chúa, không dám nhận những
đặc ân của Thiên Chúa ban. Khi sứ thần báo tin cho biết là Thiên Chúa muốn chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu
thế, Mẹ đã từ chối không dám nhận. Nhưng sau khi hiểu biết được thánh ý của
Thiên Chúa thì Mẹ đã thưa :”Này tôi là tớ
nữ của Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tuy biết mình đã là Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên
Chúa, một chức vị lớn lao tuyệt vời, mà Ngài luôn kín đáo, không hé mở cho ai
biết điều đó để cho mình được đón rước, cung phụng, chiều chuộng, kính nể... mà
cứ âm thầm và đành để cho mình và Chúa Giêsu phải thiếu thốn, khinh dể, bị gạt
ra ngoài.
2. Tin
tưởng phó thác cho Chúa.
Ngài
còn là người biết tin tưởng phó thác cho Chúa một cách trọn vẹn. Một cô gái đẹp chưa về nhà chồng mà đã có
bầu, tự nhiên người chồng tương lai phát chán, và tụi thanh niên làm sao chẳng
chế nhạo và có thể bị ném đá nữa. Song
Đức Mẹ chẳng nói ra, cũng không làm gì để ngăn ngừa sự dữ và tiếng tăm, cứ bình
tĩnh, thản nhiên, phó thác mọi sự cho Chúa. Ở trong hoàn cảnh thế này mới biết
Đức Mẹ nhân đức dường nào.
3. Hiền
lành nhịn nhục.
Ngài
cũng rất hiền lành và nhịn nhục. Khi Chúa Giêsu Con Mẹ bị người ta khinh
bỉ, hành hạ, Ngài không có nói gì hay
là có thái độ nào như trách móc người thành Bêlem không cho trọ, chửi vua
Hêrôđê toan giết Con, trách móc và nguyền rủa bọn quân dữ đánh đòn, đội mũ gai
và đóng đinh Chúa. Chắc chắn Ngài đau
buồn khôn xiết kể, nhưng không có một cử chỉ nào nóng nảy, giận dữ hay nói năng
quá lời như người ta bình thương.
Bài
đọc 1 trong thánh lễ hôm nay, thánh Gioan tông đồ đã nhìn thấy cảnh huy
hoàng của một phụ nữ mặc áo mặt trời,
chân đạp mặt trăng, trên đầu có 12 nôi sao sáng.Người phụ nữ ấy là ai ? Theo
các thánh Giáo phụ và lòng tin của Giáo hội, người đó chính là Đức Maria được
Chúa đưa về trời.
Thánh
Phaolô trong bài đọc 2 lại nói lên cho chúng ta môt lý do nữa : Chúa Giêsu đã
từ cõi chết sống lại là hoa quả đầu mùa.
Đức Mẹ là người đầu tiên và xứng đáng nhất để được ơn cứu rỗi, thì Đức
Mẹ cũng là người đầu tiên được hưởng sự vinh quang sống lại ấy.
III. ƯỚC MƠ CỦA CHÚNG TA.
Con
người có khuynh hướng luôn vươn lên, vươn lên mãi, vươn tới chân, thiện, mỹ vì
con người chưa bao giờ được thỏa mãn với những ước vọng đó.
Trước
đây văn sĩ Jules Verne đã tưởng tượng ra những chiếc tầu bay trong vũ trụ đến
những hành tinh xa lạ, làm cho trẻ con thích thú vô cùng. Với khoa học tân tiến
ngày nay, những cảnh tưởng tượng như xa thực tế của Jules Verne đã được thực
hiện. Ngày 20.07.1969 phi thuyền Apollo
11 với phi hành gia Neil Armstrong, Edwin Aldrin và Michael Collins đã đặt chân
lên mặt trăng. Một bước nhảy vọt trong chương trình thám hiểm vũ trụ.
Sau
chuyến bay lịch sử ấy, nhiều người đã nghĩ đến việc có những cuộc du hành
thường xuyên lên mặt trăng. Nhưng dịch vụ du ngoạn nguyệt cầu đến nay vẫn chưa
được thực hiện. Việc bỏ ra một món tiền lớn để được đặt chân lên một vệ tinh
không có sự sống và dưỡng khí rồi trở về địa cầu với ít đất đá vô hồn xem ra
không đáng làm.
Nếu
sau này người ta có thể thực hiện được những chuyền du ngoạn nguyệt cầu thường
xuyên đi nữa, con người vẫn chưa được thỏa mãn hoàn toàn. Vì mặt trăng hay bất cứ thiên thể nào trong
thế giới vật chất này vẫn không phải là quê thật và chung cục của loài người.
Chỉ có Thiên đàng hay Quê Trời mới là nơi
mà mọi khát vọng và trống vắng của lòng người mới được thỏa mãn hoàn
toàn.
Khát
vọng của con người làø muốn vươn lên tới Chân Thiện Mỹ tuyệt đối, hay nói theo
kiểu chúng ta là Hạnh phúc Thiên đàng.
Nhưng có Thiên đàng thật không và ước mơ thiên đàng là chân thực hay chỉ là ước mơ hão huyền ? Thưa, việc Đức
Mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời cả hồn xác mà Giáo hội long trọng mừng vào ngày
15 tháng 8 hàng năm đã nói lên một cách hùng hồn rằng ước mơ lên trời, ước mơ
thiên đàng, là ước mơ ø chính Thiên Chúa đã gieo vào nơi thâm sâu nhất của lòng
người. Ước mơ đó đã được thực hiện cách trọn vẹn nơi Đức Maria và cũng sẽ được
thực hiện nơi mỗi người chúng ta trong ngày chung thẩm, khi thân xác chúng
ta được Chúa cho sống lại như thân xác
vinh hiển của Chúa Giêsu phục sinh.
Chúng
ta chỉ biết là có Thiên đàng, nơi quê hương vĩnh phúc của chúng ta :”Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”(Kinh Tin kính), nhưng
chúng ta không biết hạnh phúc thiên đàng thế nào, đến ngay việc thánh Phaolô đã
được nâng đến tầng trời thứ chín mà cũng không có thể tả được.
Không
như nguyệt cầu là nơi vắng bóng sự sống, Quê Trời là nơi đong đầy sự sống và
tình yêu. Mẹ Maria được “lên trời” không có nghĩa là Mẹ được Chúa cất ra cho
khỏi trái đất này để đem đến một khoảng không gian xa xôi nào đó trong vũ trụ vật thể này. Vì nếu việc
Đức Mẹ lên trời được hiểu như thế thì việc lên trời của Đức Mẹ chẳng đáng ta
ước mong, như lời của một bài tình ca nào đó :
Lên trời hai đứa hai nơi
Thôi
em chỉ muốn làm người trần gian.
Có
người hiểu thiên đàng hoàn toàn theo nghĩa vật chất, họ sẵn sàng ôm bom tự sát
để rồi được lên thiên đàng, vì theo họ, thiên đàng là nơi có nhà cao cửca rộng,
có vợ đẹp con khôn, có nhiều mỹ nữ kiều diễm và có đủ mọi thứ làm cho mình được
sung sướng. Nhưng chúng ta phải có cái nhìn cao hơn : đặc ân Đức Mẹ được “lên
trời” có nghĩa là Mẹ đã được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba
Ngôi cách trọn vẹn, cả hồn cả xác. Mẹ
được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế gian tự nhiên hữu hạn này để đi vào thế giới
siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của chính Chúa. Trong thế giới đó Mẹ được
hiệp nhất với Chúa Ba Ngôi và tất cả tạo vật đẹp lòng Chúa trong Tình yêu và
Hạnh phúc viên mãn của chính Chúa.
(Viết
theo LM Phạm quốc Hưng)
Mẹ
chúng ta đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác, đó là niềm hy vọng của
chúng ta. Nếu ngày xưa Chúa Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy đi dọn chỗ cho các con và sẽ trở lại đón nhận các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”(Ga
14,2). Đó là lời Chúa phán với các môn đệ khi Ngài về trời, thì nay cũng là
lời Đức Mẹ hứa với mỗi người chúng ta khi Ngài về trời.
Muốn
được về trời cùng Mẹ, chúng ta cũng phải học đòi bắt chước Mẹ mà sống một đời
lành thánh, trong sạch xác hồn để sau này cũng có cái chết tốt đẹm như
Ngài. Ta có thể ví đời người như một
câu văn mà cái chết là dấu chấm hết tròn đầy :
.
Có cái chết như một dấu phẩy (‘) tức tưởi không trọn vẹn.
.
Có cái chết như một dấu chấm than (!) buồn hiu hắt.
.
Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt.
.
Có cái chết như dấu 3 chấm (...) còn bỏ ngỏ.
.
Và có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.
Cái
chết của Đúc Mẹ chính là dấu chấm tròn. Còn cái chết của chúng ta sẽ là gì ?
(Lm
Carôlô, Lễ trọng và lễ đặc biệt, tr 89)
KẾT LUẬN
Hôm
nay chúng ta họp nhau mừng lễ để cảm tạ Chúa vì đã cho Mẹ chúng ta được hồn xác
về trời, một hồng ân lớn lao chưa từng có và sẽ không bao giờ có. Đức Mẹ linh
hồn và xác lên trời là một niềm hân hoan, một nguồn hy vọng cho chúng ta. Mẹ
lên trời, một ngày kia chúng ta cũng về trời. Chúng ta phải ăn ở làm sao để một
ngày kia cũng được như Mẹ. Mẹ ở đâu, con ở đó, Mẹ nơi nào, con ở nơi ấy. Cuộc
sống trần gian phải là con đường đưa
con người chúng ta về Thiên đàng.
Vì
thế, trên ngôi mộ của Đức Mẹ ở Giêrusalem ngày nay du khách còn đọc được mấy
dòng thi văn do một văn sĩ và điêu khắc thời Trung cổ để lại như sau :
“Đây
là thung lũng Josaphat,
Nơi
con đường về Thiên cung xuất phát
Maria
trong sạch được chôn cất nơi đây,
Nhưng
cũng từ đây được đưa về trời.
Mẹ
là nguồn hy vọng kẻ tù đầy,
Là
đường hướng dẫn kẻ lòng ngay,
Là
Ánh sáng, là Mẹ chúng con. Amen.
Ngày
nay Đức Mẹ lên trời,
Ngày
mai đến lượt mỗi người chúng ta.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
9-8-2005