CỬA HẸP
+++
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
Chúng ta đọc : Lc
13, 22-30.
Không ai trong chúng ta còn lạ gì về cái
cửa ? Nhà nào cũng có : từ ngoài vào có cửa ngõ, cửa nhà, cửa buồng, cửa tủ, cửa
ngăn kéo. Cửa có đủ các cỡ từ nhỏ đến to. Trong bài Tin Mừng vừa nghe chúng ta
thấy Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh này để nói lên giáo huấn của Chúa : đó là
“cửa hẹp”.
1.
Phải qua cửa hẹp.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi
ngang qua các thành thị và làng mạc vàø giảng dạy, có kẻ hỏi Người :”Thưa Ngài,
những người được cứu thoát thì ít, có phải không” (Lc 13,22) ? Câu hỏi này
rất bình thường đối với người Do thái, vì họ tin tưởng rằng chỉ có họ là con cháu
Abraham, là dân riêng của Thiên Chúa, thì mới được cứu rỗi, còn những người khác
thì không.
Ngoài ra còn một loại người khác như
Pharisêu và luật sĩ, họ cho mình là những người đặc biệt, biết giữ luật một cách
cặn kẽ không chê vào đâu được, nên đương nhiên họ được cứu rỗi, còn những người khác thì không.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu
hỏi của họ là có hay không mà Ngài chỉ nói :”Hãy chiến đấu để đi qua cửa hẹp
mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể
được” ((Lc 13,24)
Sở dĩ Chúa Giêsu không trả lời có hay
không vì nếu nói là có thì người Do thái cứ ỷ y là con cháu Abraham rồi thì đương
nhiên là được cứu rỗi, không cần phải làm gì nữa, cứù sống thả giàn không cần
giữ luật gì nữa, đàng nào cũng được cứu độ.
Còn những người khác thì cũng thế, họ cho là mình không được cứu độ thì
chẳng cần phải giữ luật làm gì, đàng nào cũng sẽ phải hư đi.
Câu trả lời của Chúa Giêsu bỏ lửng và mở ra một con đường mới : Muốn
vào Nước Trời phải qua cửa hẹp.
2. Thế nào là cửa hẹp ?
Có lần đi hành hương La
vang, chúng tôi có dịp được đi tham quan thành cổ Quảng trị. Chung quanh thành
có tường bao bọc kiên cố. Sát chân tường là cái hào sâu, ra vào phải đi qua cái
cầu treo bằng gỗ để kéo cầu lên khi có địch tới hoặc không muốn cho ai ra vào. Bốn
mặt tường thành chỉ có một cửa ra vào. Cửa này cũng không to lắm. Khi chiều xuống
người ta chen chúc nhau ra vào qua cái cửa này. Ai đi một mình và không có đồà đạc
gì thì đi lại dễ dàng; còn ai có đồ đạc lỉnh kỉnh, tay xách nách mang thì đi lại
khó khăn, phải chen chúc mà đi.
Qua hình ảnh cửa thành cổ
Quảng trị, tôi liên tưởng đến cái cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng
hôm nay. Cửa hẹp đây không phải là cái cửa hẹp về diện tích đến nỗi phải khó nhọc
lách qua mà đi, mà nó trở nên hẹp vì cái TÔI cồng kềnh, lỉnh kỉnh, chưa bỏ đi được
những cái xấu xa của con người tôi để vào Nước Trời. Cái con người cồng kềnh của
tôi có biết bao nết xấu, bao nhiêu khuyết điểm cần phải được sửa đổi. Cái con
người mập mạp phì nộm của tôi với lòng tự ái cao như núi cần phải được bạt xuống.
Con người của tôi phải được trở nên nhẹ nhàng thanh thản mà tiến bước.
II. MUỐN VÀO NƯỚC TRỜI.
1. Phải biết chọn lựa.
Vào Nước Trời hay không là
do ta quyết định. Trước khi quyết định phải biết lựa chọn. Có hai con đường cho
ta lựa chọn như Chúa Giêsu đã vạch ra :”Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa
rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn
cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
Truyện : Thần Hercule lưỡng
lự.
Truyện thần thoại Hy lạp kể rằng
Hercules đứng giữa ngã ba đường phân vân và tự hỏi không biết phải đi đi về đâu.
Hai người chỉ đường đến
với ông. Một người nói :
- Hãy theo tôi, đây là con đường
thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.
Người thứ hai nói :
- Đây là con đường cố gắng,
nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.
Hercules đã chọn con đường
khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, vì thập giá trước triều thiên, ăn chay trước khi ăn tiệc.
. (W,J.
Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 69)
2. Phải biết chiến đấu.
Theo lẽ tự nhiên, ai cũng muốn được vào Nước Trời mà không cần phải hy sinh, coi Nước
Trời như một món quà Thiên Chúa ban cho hết mọi người, ban một cách nhưng không.
Nhưng đây là một quan niệm sai lầm vì Nước Trời không phải là món quà tặng cho
mỗi người cách nhưng không, mà Nước Trời được coi như phần thưởng cho những ai
cố gắng chiếm lấy bằng công khó của mình .Vì thế Chúa Giêsu mới phán :”Không
phải tất cả những ai nói với Thầy : Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời
nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời”
(Mt 7,21).
Cuộc chiến này hết sức cam
go, phải nỗ lực hết lòng hết sức để thi hành ý Chúa như trường hợp Đức Giêsu ở
vườn Cây dầu :”Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi Con. Nhưng xin đừng
theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Trong cuộc đua tài,
người ta phải nỗ lực, phải vất vả lắm mới có thể đoạt được giải, mới được lãnh phần thưởng. Chúng ta đã được chứng kiến những
cuộc tranh tài ở thế vận hội hay ở các cúp châu lục. Phần thưởng chỉ được dành
cho những người đã nỗ lực luyện tập và dành được chiến thắng qua bao gian khổ.
Người ta thường nói :
Không ai ngồi
mát ăn bát vàng
Hoặc :
Lúc vất vả, lúc thanh nhàn
Không
dưng ai bỗng cầm tàn che cho.
3. Chiến
đấu với cái tôi.
Cái tôi đây là cái
tôi cồng kềnh của con người cũ đầy những nết xấu mà Blaise Pascal gọi là “Cái
tôi đáng ghét”. Thánh Phaolô thổ lộ rằng, trong mình Ngài, hai người cũ
và mới xung đột nhau, giằng co nhau, làm cho Ngài phải khổ sở, không hiểu nổi
chính mình nữa :
:
“Tôi không làm điều
tôi ưa thích
Trái
lại, tôi làm điều gớm ghét.
Theo con đường bên trong,
Nhưng một luật khác nơi chi
thể tôi
Phản kháng lại với luật của
lương tri. (Rm 7,15,21,23)
Chúa Giêsu phán :”Nếu ai muốn theo
Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá hằng ngày mà theo “ (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Muốn từ bỏ mình làø phải thẳng thắn diệt cái TÔI,
không phải cái tôi tốt lành, cái tôi chân thật mà là cái tôi “giả tạo”,
lệch lạc. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên
bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, theo
thánh Gioan thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh
đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với các
công việc của Chúa” (A. Sève, Sương mai, tr 209).
4. Cuộc chiến đòi
hy sinh.
Có thành công nào mà không phải hy
sinh. Nếu không có chiến đấu thì cũng không có chiến thắng. Muốn thành một con người “linh ư vạn vật”, nhất
là muốn thành một vị thánh thì càng cần
phải có nhiều hy sinh chịu đựng trong cuộc chiến.
Người ta kể rằng : Ngày kia, có người
muốn xâm hình một con sư tử trên lưng của ông ta. Ông đến tiệm và cho họa sĩ biết
ý định của mình. Họa sĩ liền bắt tay vào việc. Nhưng chỉ sau một vài mũi kim châm
từ tay họa sĩ, ông khách đã bắt đầu rên
rỉ :
- Ông định giết tôi hay sao ? Làm gì mà đau thế ? Ông đang xâm phần nào của
con sư tử vậy ?
Họa sĩ trả lời :
- Tôi chỉ mới bắt đầu bằng cái đuôi thôi.
-
Thôi bỏ cái đuôi đi cũng được.
Họa sĩ tiếp tục vẽ, nhưng chỉ trong giây
lát thì ông khách lại kêu la đau đớn :
- Bây giờ ông xâm phần nào của con sư
tử thế ?
- Tôi đang vẽ cái tai.
Ông khách khẩn khoản :
- Thôi bỏ cái tai đi cũng không sao.
Họa sĩ vẽ tiếp nhưng chỉ được vài phút
thì ông khách lại hỏi :
- Ông đang vẽ đến đâu rồi ?
Họa sĩ trả lời một cách chán nản :
- Cái bụng của con sư tử.
- Thôi đừng vẽ cái bụng nữa, bỏ đi cũng
được, đau lắm !
Nghe vậy, họa sĩ lên tiếng đề nghị :
- Xâm hình một con sư tử không đuôi,
không tai, không bụng thì đâu phải là hình của sư
tử. Thôi tôi đề nghị ông xâm hình một
con kiến trên lưng đi thì sẽ bớt đau nhiều lắm.
(Edward Hays,
In Pursuit of the Great White Rabbit)
Không thành công nào trên trần gian này
mà không đòi phải hy sinh. Hy sinh là gì và tại sao cần phải hy sinh ? Có phải
hy sinh nào cũng đưa đến mất mát ? Phải, mất mát theo sự định nghĩa của người đời,
nhưng đối với Thiên Chúa, không có hy sinh, là không có sự sống sung mãn vĩnh cửu.
Hy sinh phải chăng là một sự
đổi chác ? Đúng vậy, trên đời này có nhiều thứ dổi chác. Có sự đổi chác ngây ngô
như chuyện thằng Bờm đổi lấy nắm xôi. Có thứ đổi chác cao thượng như tình của
người mẹ đánh đổi miếng ăn giấc ngủ của mình để cho đứa con được ăn no mặc ấm. Có thứ đổi chác đầy gian dối
giữa những tay buôn bậc đàn anh, đàn chị. Có sự đổi chác phiêu lưu được tường thuật
trong Phúc âm của một người đã dám bán hết sự nghiệp, gia tài của mình để tậu cho được thửa ruộng trong đó
có chôn giấu viên ngọc qúy (Mt 13,14).
5. Cuộc chiến trường kỳ.
Cuộc chiến này là cuộc nội
chiến. Đây không phải là một trận địa
chiến mà là một cuộc chiến tranh du kích, mà quân địch ở ngay trong lòng ta. Vì
thế, cuộc chiến này là một cuộc chiến trường kỳ và đòi nhiều nỗ lực. Phải bắt tay vào ngay.
Ông Franklin Roosevelt nói :”Trong
đời có một cái tệ hại hơn cả sự thất bại, đó là không dám thực hiện”.
Ông Nguyễn bá Học, một chí sĩ
Việt nam cũng nói :
“Đường đi khó,
không khó vì ngăn sông cách núi,
nhưng khó vì lòng người ngại
núi e sông”.
Hoàng đế Napoléon, có kinh nghiệm
về cuộc chiến này, đã nói ;
“Thắng được cả Aâu châu, còn dễ hơn là thắng được chính mình”.
Ai thắng được chính con người của
mình, đó là chiến thắng vĩ đại nhất :
“Chiến đấu có gian nan,
thì chiến thắng mới vinh quang.
(Corneille)
Nói đến văn minh Tây phương, ta không
thể nào quên được hai dân tộc Hy lạp và La mã thời cổ , nhất là về phương diện
giáo dục thanh niên. Vấn đề này đã được coi như một quốc sách.
Tuy nhiên, ở Hy lạp
và La mã, những phương pháp đem ra áp dụng đều khác hẳn nhau. Ngay ở hai đô thị
Spartes và Athènes của Hy lạp đã có sự dị biệt rồi.
Truyện : Huấn luyện thanh niên
Ở Spartes, vào khoảng năm 750 trước
Thiên Chúa giáng sinh, toàn dân chỉ chuyên về việc tập luyện thân thể cho cường
tráng để trở nên một quân nhân dũng cảm, triệt để tuân theo kỷ luật, sẵn sàng
hy sinh cho Tổ quốc.
Khi mới ra đời, đứa trẻ được thầy thuốc
khám nghệm để định đoạt số phận : sống hay chết. Lên 7 tuổi, bắt đầu phải đi chân không, nằm đất,
và quanh năm mặc chiếc áo mỏng. Rồi tập đấu võû : đánh, đỡ, tiến , lui đều phải
đứng phương pháp, tập bắn cung, ném đá. Khi lớn lên phải ra mắt công chúng để đấu
vật. Tập dượt rất công phu, khắc khổ. Có những buổi lễ mà thanh niên phải đứng
yên để cho người ta đánh rất đau, đau mà vẫn phải nghiến răng chịu. Ăn uống
thanh đạm và có điều dộ.
Hàng năm có một cuộc duyệt binh lớn,
toàn dân từ trẻ đến già đều đến tham dự một cách nồng nhiệt.
Các vị bô lão đồng thanh ca hát vang
trời :
“Hồi xưa chúng ta là những
thanh niên dũng cảm”
Những người đã đứng tuổi đáp lại :
“ Ngày nay chúng ta cũng
thế, chả tin hãy ra đây đấu thử vài keo”
Rồi đến lượt bọn trẻ cũng hát theo :
“Còn chúng tôi đâu có chịu
thua kém, mai kia sẽ dũng mãnh hơn ai”.
Ở Spartes, con gái cũng được huấn luyện
như con trai : tập thể dục, học các ban võ nghệ, rồi học múa, học hát. Phụ nữ có
sức khỏe thì con cái mới lành mạnh để phụng sự Tổ quốc.
III. CUỘC LỮ HÀNH VÀO NƯỚC TRỜI.
Trong một cuộc hành hương, Đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô 2 nói cho giới trẻ biết : Hành hương là để cho giới trẻ biết rằng
mình còn đang trên cuộc hành hương về quê Trời chưa đến đích đâu. Đúng thế, chúng
ta là những khách lữ hành, hãy nhằm đích mà đi, đừng ai thấy những cảnh quyến rũ
trên đường mà ở lại. Không khó khăn nào làm ta chùn bước, không quyến rũ nào làm
ta quên đích vì “Chỉ có ai bền đỗ đến
cùng mới được rỗi” (Mt 10,22).
Thời nay người ta bị tục hóa về mọi mặt
nghĩa là người ta chỉ theo “chủ nghĩa Hưởng thụ”. Người ta không
còn niềm tin, không đặt vấn đề tôn giáo làm gì vì tôn giáo chỉ khiến họ bận tâm
không cho họ được hưởng mọi lạc thú trên đời theo như đòi hỏi của con người họ.
Ta phải có tinh thần siêu thoát, phải
biết từ bỏ tất cả để rồi lại được tất cả :”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Nếu muốn lên trời cũng phải hy sinh mất mát.
Mất mát đây không phải là mất luôn, mất một cách vô ích nhưng phải mất đi để lấy
lại cũng như phải có Mùa Chay mới có mùa Phục sinh, có chết đi mới sống lại được.
Tục truyền rằng một hôm Lưu-Bá-Ôn đi
thăm miễu Khổng Minh. Một ngôi miễu thật cổ kính. Trong miễu có một ngọn đèn dầu
gọi là “vạn niên đăng”, đời đời không
bao giờ tắt. Ngoài miễu có một đôi câu đối,
nhưng lại chỉ còn một vế :
“Vạn đại quân
sư Gia-cát-Lượng”
Xem qua, họ Lưu có ý tự phụ :”Ta đây cũng
đủ tài kinh luân thao lược, thua gì Gia Cát?”.Và lấy bút đối luôn lên một bên :
“Nhất thống sơn
hà Lưu-Bá-Ôn”
Rồi nghênh ngang đi vào miễu, ra vẻ đắc
chí lắm. Đến trước bàn thờ, họ Lưu chỉ khấu đầu, không chịu lạy. Bỗng chốc ông
ta thấy mình mất thăng bằng, rồi bị một sức vô hình kéo ngược lên không. Kinh hãi
vô cùng, họ Lưu lấy hết sức bình sinh bám vào mặt đất, vào các đồ vật chung
quanh. Nhưng vô hiệu. Họ Lưu bị rút lên thật mạnh cho đến khi dính chặt vào trần
miễu.
Không ngờ vì một cử chỉ kiêu hãnh mà bị
đức Khổng trừng phạt nặng nề đến thế ! Trong lúc hoảng hồn, họ Lưu nhìn sang tấm
hoành phi treo trước mặt , thấy bốn chữ :Giải y nhi thoát”. Họ lưu
vội vàng lột áo bỏ đi, và trụt xuống được mặt đất vô sự. Bây giờ hoàn hồn, mới phục Khổng Minh là bậc
thần thánh, cung kính quỳ xuống đất tạ tội.
Thì ra Lưu Bá Ôn mặc áo giáp sắt, mà
ngôi miễu Khổng Minh lại xây giựa lưng sát
ngay vào một sườn có đá... nam châm !
Kể ra họ Lưu cũng đáng măt anh hùng.
Thời chinh chiến còn gì qúi hơn bộ áo giáp ? Nhưng lúc đó đã thành nguy hiểm, Bá
Ôn đã lanh trí lại khôn ngoan, không ngần ngại lột bỏ đi và nhờ đó mới được thoát
nạn.
KẾT LUẬN
Người
ta nói : đời là một cuộc chiến đấu không ngừng. Đúng vậy, cuộc đời phải chống
chọi với biết bao nhiêu khó khăn từ trong đến ngoài. Nhưng cuộc chiến khó khăn
và dai dẳng nhất vẫn là cuộc chiến đấu với chính mình, phải thắng mình, không
thắng là bại. Cuộc đời được ví như một con thuyền trôi trên dòng nước ngược, phải
chèo chống để tiến lên mà không tiến lên được tức là lùi. Muốn vào Nước Trời phải cố gắng hết sức như lời Chúa nói :”Nước
Trời phải chiếm được bằng sức mạnh” (x. Mt 12,12), bằng sức mạnh của
tinh thần và chỉ dành cho những ai cố gắng không ngừng :”Ai bền đỗ đến cùng
sẽ được cứu độ” (Mt 10,22; 24,13).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt