NGÀY GIẢNG VIÊN GIÁO LÝ

NHỮNG CÁNH TAY NỐI DÀI

+++

 

            Các giảng viên giáo lý thân mến,

Nhân ngày lễ kính chân phước Anrê Phú Yên, quan thầy các giảng viên giáo lý toàn quốc chung và của giáo xứ Kim Phát chúng ta nói riêng, tôi vui mừng và hân hạnh được chia sẻ với anh chị em một vài điều liên quan đến giảng viên giáo lý, để nói lên tầm quan trọng của anh chị em trong việc Rao giảng Tin mừng, bởi vì chúng tôi xác tín rằng anh chị em là những “Cánh tay nối dài của Chúa và của Giáo hội”, là những cộng sự viên đắc lực của hàng Giáo phẩm và giáo sĩ.

 

I. CHÚA CẦN NHỮNG CÁNH TAY NỐI DÀI  

 

1. Chúa chọn cộng tác viên  (Lc 10,1-12)

 

          Đức Giêsu muốn đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân khắp nơi, nhưng vì Đức Giêsu cũng là con người hữu hạn không thể đi khắp nơi được, nên cần phải có những cộng tác viên.  Chúa đã chọn 12 Tông đồ và 72 môn đệ để sai các ông từng hai người một đi đến các làng, các thành thị mà Chúa sẽ đến.

 

          Ngài bảo các ông :”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về. Các con hãy ra đi. Này thầy sai các con đi như chiên vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép. Cũng đừng chào hỏi hai dọc đường…”

 

          2. Chúa chọn các giảng viên giáo lý. 

 

          Ban đầu Chúa Giêsu giao việc giảng dạy Tin mừng cho 12 Tông đồ và 72 môn đệ, sau này các Giám mục kế tục các ngài lãnh nhận nhiệm vụ rao giảng ấy. Các Giám mục cũng cần các Linh mục và tu sĩ cộng tác…

 

          Trong thời gian dài, chỉ có hàng giáo phẩm và giáo sĩ phụ trách việc rao giảng Tin mừng, nhưng về sau công việc này cũng được chia sẻ cho giới tu sĩ.  Đặc biệt sau công đồng Vatican II, vai trò giáo dân mới được nổi bật, đồng thời việc rao giảng Tin mừng cũng được trao cho họ với tư cách là giảng viên giáo lý, có một chỗ đứng trong Giáo hội. Đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn, sự hiện diện của họ càng cần thiết.

 

          Công đồng Vatican II dạy :”Việc tông đồ cá nhân rất cần thiết và cấp bách trong những miền mà tự do trong Giáo hội bị cản trở trầm trọng. Trong những hoàn cảnh khó khăn đó, giáo dân tùy theo khả năng thay thế Linh mục… để dạy giáo lý Công giáo cho những người chung quanh, huấn luyện cho những người ấy  biết sống đạo và khuyến khích họ năng nhận các bí tích và đặc biệt tôn sùng phép Thánh Thể “(TĐ số 17).

 

II. CÁC GIẢNG VIÊN GIÁO LÝ.  

 

          1. Vấn đề từ ngữ.

 

          a) Công đồng Vatican II  gọi những người rao giảng Tin mừng và dạy giáo lý là các giảng viên giáo lý. Ngày nay ta thấy xuất hiện một từ ngữ ngắn gọn hơn là “giáo lý viên”. Chúng ta dùng từ nào cũng được.

 

          b) Truyền giáo hay tuyên truyền ? 

 

          Chúng ta phải đặt dấu hỏi : giảng viên giáo lý là người truyền giáo hay tuyên truyền ?

          Tuyên truyền là chỉ nói những lời người khác bảo nói, có thể không xác tin những điều đó mình nói. Ví dụ :

-          Cán bộ nhà nước đi tuyên truyền.

-          Nhân viên tiếp thị

-          Người  quảng cáo

 

Còn người truyền giáo thì phải nói lên những gì  mình xác tín và dám sống chết vì điều mình rao truyền. Muốn có được sức mạnh của nhà truyền giáo, các giảng viên giáo lý nhận thấy mình phải đón nhận Chúa Giêsu là Chúa và luôn mang nơi mình sức sống của Ngài là  Chúa Thánh Thần.

 

2. Giảng viên giáo lý phải có khả năng.

 

a) Hiểu biết giáo lý.

 

          Muốn dạy ai thì phải học, phải biết, phải hiểu thì mới thông truyền cho người khác được. La tinh có một từ ngữ diễn tả chữ THẦY : magister có nghĩa là gấp ba lần. Muốn dạy ai thì phải hiểu biết gấp ba lần người đó. Nếu không thì đúng là mù dắt mù – như lời Chúa nói – cả hai sẽ sa xuống hố (x. Mt 15,14; Lc 6,39). Nhưng con người yếu đuối cần phải có ơn Chúa trợ giúp.

 

          Giảng viên giáo lý phải được huấn luyện qua các khóa đào tạo, phải có một số kiến thức nhất định thì mới dạy được. Ở ngoại quốc, có một số giảng viên giáo lý có bằng cử nhân hay bằng tiến sĩ thần học. Riêng ở giáo phận chúng ta chưa thể tổ chức được những khóa huấn luyện đó.

 

Truyện : Thiếu kiến thức thần học.

          Có những người chưa vững giáo lý mà chỉ lấy sự nhiệt tình mà dạy dỗ, nhiều khi đi đến chỗ ngược lại với thần học. Ví du :

- Một thầy dòng kia có lòng kính mến Đức Mẹ, trong giờ dạy giáo lý thầy đã nói một câu mô phỏng lời thánh Phaolô :”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà Mẹ Maria sống trong tôi”  !

- Hoặc một giảng viên giáo lý suy ra từ kinh nghiệm hằng ngày, đã nói :”Nhiều tội nhẹ sẽ thành một tội trọng” : bằng chứng nếu thuyền bị rồ một chỗ nhỏ mà không vít lại thì nước ngấm vào lâu ngày làm thuyền bị chìm !

 

          b) Có sư phạm giáo lý.

 

          Phải biết phương pháp giảng dạy một lớp giáo lý (Dĩ nhiên giảng viên giáo lý phải qua những khóa huấn luyện, những khóa bồi dưỡng).  Dạy giáo lý cho trẻ em lại càng khó vì các em chóng chán, phải làm cho lớp thật sinh động bằng bài hát, băng reo và những câu truyện dí dỏm.

 

c) Biết dùng ngôn ngữ. 

 

          Trong việc giảng dạy phải dùng tới ngôn ngữ để truyền đạt. Có nhiều thứ ngôn ngữ để truyền đạt tư tưởng :

 

·         LỜI NÓI : là một thứ ngôn ngữ được dùng nhiều hơn cả, bất cứ một dân tộc, thành phần nào cũng có thể dùng được.

·         CHỮ VIẾT : số người dùng được sẽ bị hạn chế vì một số người không biết chữ. Thứ ngôn ngữ này được thực hiện trong sách vở, báo chỉ, tranh ảnh, truyền hình, internet.

·         CỬ CHỈ : chỉ dùng những cử điều : kịch câm, phim câm như của Charlot.

·         HÀNH ĐỘNG :  cách sống của cả con người qua lời ăn, tiếng nói và việc làm. Hình thức này thật phổ biến, ai cũng có thể thực hiện được, nó giống như men trong bột.

 

d) Phương pháp thính thị.

 

          Ngày nay người ta phát minh ra được phương pháp thính thị. Phương pháp nghe nhìn sẽ giúp cho học viên tiếp thu một cách nhanh chóng.

 

          3. Bản thân con người giảng viên giáo lý

 

          Giảng viên giáo lý không phải là người truyên truyền mà là người truyền giáo. Mà đã là người truyền giáo thì không phải chỉ truyền đạt cho người ta một số kiến thức cho thỏa mãn sự hiểu biết mà còn phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người ta yêu mến và học đòi bắt chước.

 

          Muốn nói về Chúa, giảng viên giáo lý phải học biết Chúa, phải yêu mến và phải trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.  Họ phải nói về Chúa với một sự xác tín qua sự tìm hiểu và cầu nguyện.

 

          Mẫu gương của giáo lý viên là Chúa Giêsu.  Ngài dạy :”Ta là đường, là sự thật và là sự sống”(Lc 1,79). Ngài là đường dẫn dắt ta, cứ theo đường ấy thì sẽ không bị sai lầm. Phải lấy Đức Kito làm mẫu gương :

 

                                      Muốn tròn phải có khuôn

                                      Muốn vuông phải có thước.

 

          Giảng viên giáo lý phải dạy người khác bằng cả con người của mình, nên phải hoàn thiện con người cả thể xác lẫn tinh thần.

 

          a) Về thể xác.

 

          Tuy thể xác không quan trọng mấy trong việc dạy giáo lý nhưng cũng phần nào ảnh hưởng đến việc giảng dạy. Người dạy có ảnh hưởng đến học trò vì học trò coi thầy là cái khuôn thước.  Ngày xưa muốn làm thầy phải chọn người đĩnh đạc, cân đối, không có khuyết điểm lớn như dị dạng, méo miệng, đi lặc lè, lùn tẹt…

 

          b) Về tinh thần.

 

          Lời dạy của giảng viên giáo lý sẽ mất đi nhiều tác dụng khi ngôn hành bất nhất, khi lời giảng dạy và đời sống không ăn khớp với nhau, có khi còn mâu thuẫn.

 

Truyện : Anh chàng Aristogiton.

          Đây là anh chàng có tài hùng biện, anh đi rảo khắp nước Hy lạp để cổ võ lòng yêu nước. Anh hô hào lớp thanh niên hãy lên đường nhập ngũ, hãy hy sinh mạng sống mình để bảo vệ Tổ quốc.

          Nhưng khi người ta gọi anh lên đường nhập ngũ, anh run như cầy sấy, chân đi không vững như một kẻ mật hồn.

 

          Nếu lời giảng dạy và đời sống của giảng viên giáo lý ăn khớp với nhau thì lời giảng dạy của họ có tác dụng lớn vì chính cuộc sống thực tế của họ đã là một bài giảng hùng hồn. Chúng ta có một gương rất sống động về vấn đề này.

 

          Một nhà giảng thuyết đang triển khai câu Tin mừng :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Một thanh niên ngỗ nghịch muốn chọc tức nhà giảng thuyết, đã cầm quả cà chua ném cái chát vào mặt ông. Rất bình tĩnh, coi như không có sự gì xẩy ra, nhà giảng thuyết tiếp tục giảng trong khi nhẹ nhàng rút khăn tay lau mặt.

          Thấy vậy, chàng thanh niên cảm động nói :”Thôi ngài khỏi cần giảng nữa, tôi đã trông thấy Đức Giêsu hiền lành rồi”.

 

          Chúng ta nên hiểu thêm : chữ Catechesis, tiếng Hy lạp, nghĩa là VANG VỌNG, là echo, chứ không phải là dạy một số lý thuyết của đạo giáo.

          Catechesis, chính là để LỜI CHÚA vang vọng qua miệng lưỡi, qua cuộc đời của chúng ta.

          Catechesis, Vang Vọng Lời Chúa, hay Lời Chúa Vang Vọng sẽ rõ ràng và vang xa nếu thục sự chúng ta có một cuộc sống nội tâm vững vàng, một đời sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô.

 

          KẾT LUẬN

 

          Giảng viên giáo lý không phải là người tuyên truyền mà là người truyền giáo, nên cần phải suy gẫm Tin mừng, tìm hiểu giáo lý Công giáo để dạy dỗ người khác, nhưng còn phải dùng cả con người và đời sống của mình để rao giảng Đức Kitô cho những  người chưa nhận biết Chúa cho họ tin theo và được ơn cứu độ.

 

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt