Linh Mục, Người Phục Vụ Lời Chúa

Bằng Việc Rao Giảng

 

Linh mục Anphong Nguyễn Công Vinh

 

I. Nền tảng Kinh Thánh.

 

Trong vùng Trung Đông thời cổ, ở đâu cũng có những người hành nghề ma thuật hay bói toán (x. Ds 22,5; Đn 2,2; 4, 3t), họ được xem như xứng đáng tiếp nhận một sứ điệp của thần linh. Các s? ngôn Israel có khi cũng hoàn tất những nhiệm vụ tương tự (1V 22,1-29). Môisen là sứ giả đích thực của Thiên Chúa (Xh 3-4), ông là nguồn gốc của phong trào sứ ngôn (Xh 7,1; Ds 11,17-25). Cuối thời các quan án xuất hiện hàng đoàn con cái sứ ngôn (1Sm 10,5t). Danh từ nabi (người được kêu gọi) được xử dụng cùng với các tước hiệu cũ như: linh thị nhân (1 Sm 9,9) hay linh kiến nhân (Am 7,12). Nhưng Người của Thiên Chúa (1 Sm 9,7t) là tước hiệu chính của Êlia và của Êlisê (2V 4,9). Vai trò sứ ngôn trở thành như một truyền thống, được tiếp nối mãi mãi. Lời họ nắm gi? và công b? đều là do Thiên Chúa. Bổn phận của họ là cho biết hoạt động được dự liệu thực hiện có phải là do Thiên Chúa muốn không và có hội nhập vào lịch sử cứu rỗi không.

 

Trong Cựu ước, các sứ ngôn đều được Chúa kêu gọi: Môisen, Samuel, Amos, Isaia, Giêrêmia, Ezekiel và cả người Tôi Tớ Gia-vê nữa. Lời mời gọi luôn đưa đến một sứ mệnh mà dụng cụ để chu toàn là miệng của sứ ngôn nói Lời của Thiên Chúa (Gr 1,9; Is 6,6t; x. Ed 3,1tt). Việc loan báo bằng cử chỉ, hành động thường đi trước phần trình bày bằng lời nói (Gr 28,10; 51,63; Ed 3,24-5,4), nhiều khi còn gắn liền với cuộc sống của sứ ngôn: đời độc thân của Giêrêmia (Gr 16,1-9), góa v? của Êdêkiel (Ed 24,15-27). Sứ điệp không thể ở ngoài người mang no, đó không phải là ý niệm mà sứ ngôn có thể điều khiển nhưng là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thánh thiện biểu hiện nơi bản thân mình.

 

Trong Tân uớc, lời của những người rao giảng vẫn là Lời của Thiên Chúa, nhưng Lời này nhập thể trong Đức Giêsu. Hai động từ thường được dùng để chỉ công việc của người rao giảng là Kêrysseineuangelizethai. Kêryssein có nghĩa là loan báo hay công bố. Người rao giảng Lời Chúa là người loan báo sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nói với Dân Người. Thánh Phaolô đã dùng kiểu nói này: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (2 Cor 5,20). Đặc tính cốt yếu của việc công bố, loan báo sứ điệp đó là trung thực, đúng y những gì mà Thiên Chúa muốn nói. Thánh Phaolô đã nói với giáo dân Côrintô: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo […], nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa” (1 Cr 1.4).

Động từ thứ hai euangelizethai có nghĩa là loan báo tin thắng trận. Từ Evangelium trong tiếng Latinh mang ý nghĩa này. Tin chiến thắng đó chính là Tin mừng Phục Sinh của Đức Kitô, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tân Ước thu gọn trong động từ Kêrygma: là một sự công bố long trọng, là tiếng hô của s? ngôn loan báo chính thức một sự kiện.

 

II. Nội dung sứ điệp.

 

Mặc dù thời gian, không gian và cử tọa khác nhau nhưng nội dung của việc rao giảng của Đức Giêsu, của các Tông đồ và của Giáo Hội luôn có một định hướng như nhau: mời gọi hoán cải và loan báo một biến cố.

 

1/ Mời gọi hoán cải

 

Đức Giêsu và vị Tiên Hô của Người đã khởi đầu việc rao giảng bằng việc kêu gọi “hãy hoán cải” (Mt 3,2; 4,17; Cv 2,38; 3,19; 5,31; 10,43; 13,38t). Các sứ đồ đầu tiên cũng kết thúc các bài giảng của mình bằng lời kêu gọi này. Như thế, sứ điệp được loan báo không giống như những lý thuyết khác mà người ta có thể tự do đón nhận, nhưng nó đòi hỏi người nghe một sự dấn thân, một sự thay đổi có tính cách sinh tử (metanoia). Tất cả những việc rao giảng nào mà không kết thúc bằng lời mời gọi hoán cải, thì sẽ có nguy cơ không còn là Tin Mừng mà chỉ là một bài thuyết trình suông không có nội dung.

 

2/ Loan báo một biến cố

 

Việc rao giảng đòi hỏi sự hoán cải không phải vì đó là một bài huấn dụ nặng tính cách luân lý mà là vì nó hướng đến một biến cố. Các thánh sử, đặc biệt Mátthêu đã trình bày Đức Giêsu khi rao giảng, đã hướng lời mời gọi của Người đến biến cố “Nước Trời đã gần kề” (Mt 4,17). Các môn đệ cũng loan báo cùng một sự kiện: những lời tiên tri đã hoàn tất (Mt 10,7). Việc rao giảng của Giáo Hội còn tiến xa hơn trong nội dung là loan báo một thực tại là Thánh Thần đang tác động, một thực tại có liên quan đến một biến cố vừa quá khứ (cuộc vượt qua của Đức Kitô), vừa tương lai (ngày quang lâm của Chúa).

 

3/ Trình bày biến cố

 

Vì lý do đó việc rao giảng phải bắt nguồn từ trong Kinh Thánh để trình bày biến cố cứu chuộc. Trong Kinh Tin kính cổ nhất, sau mỗi đoạn tuyên xưng đã dùng công thức Theo lời Thánh Kinh (1Cr 15,3t). Tất cả đều phải quy hướng về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã xuống thế, tử nạn và phục sinh, Người là nguồn sống và ơn cứu độ của nhân loại.

 

III. Những đòi hỏi nơi người rao giảng Lời Chúa.

 

1. Tôn trọng sứ điệp của Chúa

 

        Chính Chúa là chủ của sứ điệp chứ không phải người rao giảng. Người rao giảng chỉ là người truyền đạt Lời Chúa. Vì thế phải tôn trọng quyền làm chủ sứ điệp của Người, phải rao giảng cách trung thựctoàn vẹn. Bổn phận của các linh mục không phải là trình bày sự thông biết của mình, lấy Lời Chúa để biện bác cho mình hay cho một lập trường, một lý thuyết nào đó nhưng là rao giảng Lời Chúa. Lý tưởng của các linh mục phải là lý tưởng của Phaolô khi nói với tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em đã đón nhận Lời Thiên Chúa của tôi rao giảng cho anh em không như lời con người nhưng đúng như là Lời Thiên Chúa, vì thật sự là như vậy” (1 Tx 2,13). Người rao giảng cũng không được tránh né, che đậy hay phản bội Lời Chúa vì sợ hãi, vì sợ mất lòng người nghe, vì sợ bách hại, sợ bị coi là không hợp thời. Những thái độ nầy đưa đến việc thay vì công bố Lời Chúa thì chỉ công bố những tư tưởng, giới thiệu những đề tài về người nầy việc nọ hoặc kể những chuyện không liên hệ gì đến sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phaolô đã thiết tha khuyên nhủ Timôthê, người môn đệ thân tín của mình: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chú tâm dạy dỗ […]. Hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2 Tm 4,1-5).

 

Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, trong Tông Huấn Loan Tin Mừng, đã nhắc nhủ: “Có một điểm nổi bật trong con người chúng ta mà không một sự nghi hoặc nào có thể làm tổn thương, không một phi bác nào có thể che khuất: là những mục tử, chúng ta được tuyển chọn do lòng nhân từ của Vị Mục Tử Tối Cao (1 P 5,4) để mặc dù bất xứng, chúng ta rao truyền Lời Chúa với uy quyền, để tập họp Dân Chúa đã bị phân tán, để nuôi dưỡng Dân này với những dấu chỉ về tác động của Đức Kitô là các bí tích, để dẫn dắt họ trên đường cứu rỗi, để gìn giữ họ trong mối duy nhất mà chúng ta là những dụng cụ sống động và ở những mức độ khác nhau, không ngừng khích lệ cộng đoàn này tập họp quanh Chúa Kitô theo ơn gọi thâm sâu nhất của mình. Khi chúng ta hoàn tất điều đó với các giới hạn của con người và tùy theo sự trợ lực của ơn Chúa, đó là chúng ta thực hiện công cuộc Phúc âm hóa” (LTM số 68).

Người viết tiếp: “Tin mừng mà chúng ta có trọng trách rao giảng cũng là lời chân lý. Chân lý đem lại tự do (Ga 8,32) và chỉ nó mới ban sự bình an tâm hồn, đó chính là những điều người ta tìm kiếm khi đến nghe chúng ta rao giảng Tin mừng. Chân lý về Thiên Chúa, chân lý về con người và số phận huyền nhiệm của con người, chân lý về thế gian. Đó là chân lý mà chúng ta tìm được trong Lời Chúa và chúng ta không phải là chủ, là người sở hữu nhưng chỉ là người quản lý, người phát ngôn và đầy tớ phục vụ chân lý đó.

 

Người ta mong đợi nhà rao giảng Tin mừng phải tôn trọng chân lý, nhất là cái chân lý mà họ đào sâu và truyền đạt không gì khác hơn là chân lý mặc khải và vì thế, hơn bất cứ chân lý nào khác, nó chỉ là một phần của chân lý nguyên thủy là chính Thiên Chúa. Vậy người rao giảng Tin mừng phải là người dám hy sinh đến độ quên mình và đau khổ để không ngừng tìm kiếm chân lý mà họ phải truyền đạt cho người khác […]. Người đó không được phép khinh thường việc nghiên cứu. Người đó phải phục vụ chân lý cách quảng đại mà không kiềm chế chân lý” (LTM 78).

 

2. Rao giảng tin vui và hy vọng

 

Lời Chúa mà linh mục rao giảng phải là Tin Mừng, phải là lời khuyến khích, đem lại niềm vui và hy vọng. Đối với người Hi Lạp thì tin mừng có nghĩa là một tin tốt, tin may mắn, đặc biệt là tin báo chiến thắng. Sự thái bình trong đế quốc Rôma, những biến cố lớn trong cuộc đời của hoàng đế, người được coi là thần linh và là cứu chúa, đều được ca tụng như những tin mừng.

 

Cựu ước:

 

Từ ngữ này mang giá trị tôn giáo đặc biệt trong thời Isaia (Is 40-66). Bấy giờ Sứ giả Tin mừng loan báo cùng với sự chấm dứt cảnh lưu đày là Nước Thiên Chúa sắp đến (Is 52,7): Sứ điệp của ông nhằm an ủi, tha tội và tiên báo Thiên Chúa trở về với Sion (Is 40,1t.9); Tin mừng này là một sức mạnh thần linh đang hoạt động (Is 52,1); Tin mừng này liên hệ đến mọi dân tộc (52,10; Tv 96,2); Tin mừng này vượt trên giới hạn thời gian; Tin mừng này loan báo chiến thắng và triều đại cuối cùng của Thiên Chúa.

 

Tân ước:

 

Chúa Giêsu là sứ giả loan báo Tin mừng cho người nghèo (Mt 3,16). Nội dung chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu đem đến là: Thời gian đã hoàn tất, Nước Thiên Chúa đã gần kề (Mc 1,15). Nhưng nội dung này đồng hóa với Đức Giêsu vì thế Tin mừng đích thức chính là Đức Giêsu (Mc 1,1). Với Người, Triều Đại của Thiên Chúa hiện diện (Mt 12,28).

Đáp lại Tin mừng là lòng sám hối và lòng tin (Mc 1,15), rồi Thiên Chúa sẽ trao ban ơn tha thứ (Mc 2,10; 2,17), ơn canh tân (Mc 2,21). Đối tượng của Tin Mừng rao giảng là những người nghèo trong tinh thần (Mt 5,3); Mc 10,17-23), những kẻ bé mọn (Mt 11,28; Lc 9,48; 10,21), người tội lỗi (Lc 15,1; 18;9-14; Mt 21,31) và cả dân ngoại (Mt 8,10; 15,21-28).

 

Sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã truyền cho các sứ đồ của Người “đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho hết mọi tạo vật” (Mc 16,15), “cho muôn dân” (Mc 13,10). Tin mừng mà các môn đệ rao giảng luôn là Tin mừng về Nước Thiên Chúa (Cv 8,12; 14,21t; 19,8; 20,25; 28,23), nhưng Tin mừng ấy chính là “Tin mừng Giêsu” (8,35; 17,18) và sự kiện phục sinh của Đức Kitô trở nên trung tâm của Tin mừng, đích điểm của mọi niềm hi vọng.

 

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông Huấn Loan Tin Mừng đã nêu lên những nét chính yếu của nội dung Tin mừng cần phải được rao giảng:

- Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô (số 26-27).

- Các bí tích như dấu chỉ và phương thế để đạt tới hạnh phúc đời sau (số 28).

- Sứ điệp giải phóng và thăng tiến con người (số 30 và 31).

Vì thế linh mục trong khi rao giảng phải làm sao đem lại niềm vui, sự phấn khởi và hy vọng, khiến cho người nghe cảm thấy mình cần phải làm điều gì đó để đáp lại lòng thương yêu của Chúa, để làm cho niềm hy vọng được khơi dậy trở thành hiện thực trong đời sống và hành động của mình. Phải tránh những lời nói báo họa, chửi mắng, đe phạt nhưng phải nói với lòng yêu thương và tha thứ (x. Ga 8,11: người phụ nữ ngoại tình). Không nên sử dụng Lời Chúa, tòa giảng để bào chữa cho sai lỗi của mình và chỉ trích, nói xấu người khác, làm cho bầu khí của Thánh lễ trở nên nặng nề, khó thở hoặc bài giảng chỉ gồm tòan những khuyến cáo có tinh cách luân lý, dạy đời.

 

3. Làm cho Lời Chúa đi vào cuộc sống hôm nay

 

Mục đích của bài giảng lễ là giúp cho cộng đoàn cử hành phụng vụ và sống phụng vụ trong đời sống hằng ngày. Vì thế phải giúp người nghe hiểu, suy nghĩ về cuộc sống của mình, về những biến cố xảy đến trong đời sống của mình cũng như của xã hội con người qua lăng kính của Lời Chúa, và từ đó đưa ra những quyết định, thực hành sống thích hợp. Đó chính là việc hiện tại hóa Lời Chúa, có nghĩa là làm cho mặc khải trong lịch sử trở thành thực tại của ngày hôm nay, có liên hệ với cuộc sống hôm nay. Vì thế người rao giảng phải gần với thực tế cuộc sống và hiểu được những nhu cầu, những khát vọng, những đau khổ cũng như những khó khăn mà người giáo dân đang trải qua, để làm cho lời rao giảng của mình trở nên gần gũi, có liên hệ với đời sống của họ. Chúa Giêsu đã áp dụng triệt để điều này trong bài giảng của Người khi dùng những sự kiện hàng ngày, những dụ ngôn rút ra từ thực tế cuộc sống của người nghe. Vì thế, lời giảng của Nguời hấp dẫn, đánh động người nghe, đem lại hiệu quả làm thay đổi cuộc sống.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Mục Lục Góp Nhặt Hoa Rơi