Thứ năm tuần 2 Phục sinh
Hãy tin để được sống
(Ga
3,31-36)
1. Bài Tin Mừng hôm nay vẫn tiếp tục câu chuyện giữa Đức
Giêsu và ông Nicôđêmô. Chúa nói cho ông cũng như cho mọi người biết sứ mạng của
Ngài đến trần gian là để cứu chuộc mọi người, và bổn phận của mỗi người là phải
biết lựa chọn : tin hay không tin Ngài. Tin thì được sống, không tin thì sẽ bị
trầm luân.
2. “Đấng từ trên cao
mà đến...”.
Qua câu này, chủ đich thánh sử Gioan là làm nổi bật sự
tương phản :
- Đức Giêsu thuộc về thiên giới, Ngài đến để thiết lập Nước
Thiên Chúa :”Nước tôi không thuộc thế gian này”. Ngài thiết lập Hội
thánh trần gian và qui tụ mọi người vào Hội thánh để được ơn cứu độ và được sự
sống Nước Trời mai sau.
- Dân Do thái tượng trưng bởi Nicôđêmô trong cuộc đàm thoại
với Đức Giêsu, đến với Đức Kitô trong một
nhãn giới nhân loại “nói những chuyện dưới
đất”. Người Do thái cho rằng Nước Thiên Chúa như một thực tại trần thế, vừa
tầm tay họ.
3. “Người làm chứng về
những gì...”.
Đức Giêsu đến thế gian để làm chứng về Chúa Cha :”Ai thấy Thầy thì cũng thấy Cha Thầy”.
Người Do thái, cũng như những ai từ chối Đức Giêsu, đã không nhận lời chứng của
Ngài (lời chứng qua lời giảng dạy, các phép lạ). Đức Giêsu mạc khải Ngài đồng bản
tính với Chúa Cha, nếu ai không tin nhận Ngài, thì không thấy Chúa Cha được.
4. Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, ghi lại lời Đức Giêsu
mạc khải cho ông Nicôđêmô biết về nguồn gốc của Ngài – Đấng đến từ trời cao,
Ngài là vị Thiên Chúa làm người như Gioan đã mở đầu Tin Mừng bằng việc xác định
cội nguồn của Ngài :”Ngôi Lời đã làm người
và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) và Giáo hội đã tuyên xưng :”Người đã từ trời xuống thế...”. Bởi cái
chết, sự Phục sinh và lên Trời, Ngài đã khai thông lối về thiên quốc cho nhân
loại. Ngài là trung gian nối đất trời như chiếc thang mà tổ phụ Giacóp đã thấy
trong giấc mộng (x. St 28,12). Trung gian như chiếc thang nối đất trời mà chính
Đức Giêsu cũng nói tới : Trời rộng mở,
các thiên sứ lên xuống trên Con Người (x.Ga 1,51).
5. Đức Giêsu đã xác nhận Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm
người cứu chuộc nhận loại. Như vậy, vấn đề còn lại là bổn phận của mỗi người
chúng ta. Thiên Chúa đã ban sự sống và hạnh phúc cho chúng ta, đón nhận hay từ
chối là tùy mỗi người. Thiên Chúa là ánh sáng, ai từ chối ánh sáng là tự đọa đầy
mình vào tối tăm, ai từ chối là nhận lấy cái chết, Thiên Chúa không cần tuyên
án nữa. Đón nhận ánh sáng hay từ chối là một lựa chọn tự do và tự nguyện của mỗi
người. Cũng thế, ai chọn sự thiện thì ở trên đường đến với Thiên Chúa, vì Thiên
Chúa là nguồn mọi sự thiện, ai chọn sự dữ thì ở trên đường lìa xa Thiên Chúa,
vì nơi Thiên Chúa không có sự dữ.
6.
Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi
tiếng có nói :”Chúng ta không sinh ra đã
thành người. Con người có bổn phận phải thành người”. Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại’ lần thứ hai
để làm con Thiên Chúa : một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm
mống của sự trường tồn bất tử. Không có
lần sinh này chúng ta không thể trở thành
một con người trọn vẹn” (Trích “Sự hiện diện khiêm hạ).
Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon.
Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm bà và giải thích cho bà nghe
đoạn Tin Mừng Gioan 3,16 :”Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết
và được sống đời đời”.
Bà đáp :
- Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa tốt lành khi Ngài tha thứ
cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.
Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật
lại và kết thúc bằng câu “Sinh 1825. Sinh lại 1925” (góp nhặt).
7. Truyện : Chứng từ của Avares.
Tạp chi Time số tháng 4, 1995 có ghi lại chứng từ rất cảm động
của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam.
Ông Avares là một phi công hải quân, ông đã bị bắn hạ trong
một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt
ngày 05/08/1964. Ông đã bị giam tại Cửa Lò trong vòng 8 năm rưỡi.
Vào năm 1993, một nhà sản xuất phim đã mời ông và một nhóm
cựu binh sĩ Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu về chiến sự
thời Mỹ ở Việt nam.
Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam cầm, điều duy
nhất trong ký ức ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau
phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện mỗi khi thất vọng. Lời cầu nguyện
đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn.
Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một
lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông,
đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho
ông trở về với gia đình và đã ban cho ông biết tha thứ và quên đi.
Lm
Giuse Đinh Lập Liễm
Đà
Lạt