Thứ ba tuần 7 Phục sinh
Lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu
(Ga
17,1-11a)
1. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu xin Chúa Cha
tôn vình Người để Chúa Cha được tôn vinh, và những lời Chúa Giêsu mạc khải cho
các môn đệ.
Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài đã về trời và từ đây Ngài
không còn hiện diện hữu hình bên chúng ta, nhưng Ngài không bỏ mặc ta cô đơn giữa
thế gian. Ngài xin Chúa Cha gìn giữ chúng ta vì Chúa Cha đã trao chúng ta cho
Ngài. Chúng ta thuộc về Ngài cũng như Ngài thuộc Chúa Cha. Ngài cũng cầu xin
cho chúng ta được hiệp nhất trong tình yêu của Ngài và Thiên Chúa Cha. Hạnh
phúc biết bao khi chúng ta được đi vào trong mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi.
2. Bài Tin Mừng dài và khó hiểu. Chúng ta chỉ cần biết đây
là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài về trời. Đối với
Ngài lúc này Ngài thấy mình thanh thản vì đã chu toàn công việc Cha đã trao
phó, lúc này Ngài về trời. Đối với Ngài thì thanh thản , nhưng còn các môn đệ
còn phải ở lại thế gian, họ sẽ gặp muôn vàn khó khăn, xin Cha hãy gìn giữ họ
trong bình an.
Chúa Giêsu vạch ra 4 khó khăn họ sẽ gặp phải :
- Thế gian đầy tội lỗi, đầy cám dỗ, sợ họ không đứng vững.
- Thế gian sẽ bắt bớ họ, sợ họ nản chí.
- Họ sẽ chia rẽ vì bất đồng ý kiến với nhau, Giáo hội sẽ
chia năm sẻ bảy.
- Ngài cầu cho họ biết hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội
thánh.
3. “Con không còn ở
trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn còn ở trong thế gian”.
Khi nói câu này, hình như Chúa Giêsu tội nghiệp cho chúng
ta. Có thể quảng diễn ý Chúa Giêsu một cách đơn sơ : Lạy Cha, phần con thì đã
khỏe rồi vì đã thoát khỏi thế gian, nhưng những môn đệ của con thì thật tội
nghiệp vì còn phải ở lại thế gian, cái thế gian đó méo mó chứ không còn tốt đẹp
như hổi Cha mới dựng nên, cái thế gian đầy dẫy sự xấu sự ác sự khổ, cái thế gian
có muôn vàn cạm bẫy, cái thế gian chẳng có giá trị nào vĩnh viễn... Thật là tội
nghiệp cho chúng. Vậy xin Cha hãy gìn giữ chúng.
Chúa Giêsu biết rõ ở trong thế gian là thế nào và thoát khỏi
thế gian là thế nào nên Ngài mới cầu nguyện như vậy. Còn chúng ta, chúng ta chỉ biết có thế gian
này cho nên chúng ta quyến luyến nó, chúng ta sợ phải mất nó, khi nghe đến ngày
chúng ta lìa xa thế gian thì chúng ta sợ hãi âu lo (Carôlô).
4. Lạy Cha, giờ đã đến,
xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha”.
Theo Chúa Giêsu, giờ đây là đến lúc Ngài đi
vào cuộc tử nạn và Phúc sinh. Vì thế, Thập
giá làm vinh hiển Chúa Cha, vì nơi đó thể
hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc
vâng lời cho đến chết và chết trân thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người
một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, Thập giá không những làm
vinh hiển Chúa Cha, mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu, vì Thập giá chưa phải là dấu
tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc, bởi vì đã có sự
phục sinh liền sau, cái chết chỉ là mở lối cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi
giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và cái chết trên Tập giá, đó là lúc
Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời (Mỗi ngày một tin
vui).
5. “Xin cho chúng hiệp nhất nên một”.
Sau khi
trình bầy với Chúa Cha về hoàn cảnh tội nghiệp của chúng ta còn ở lại thế gian,
Chúa Giêsu thưa tiếp :”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”. Khi người ta ở trong một
tình thế nguy hiểm thì người ta phải đoàn kết lại với nhau. Chúa Giêsu biết
chúng ta phải gặp nhiều nguy hiểm ở thế gian nên Ngài xin Chúa Cha giúp chúng
ta đoàn kết hiệp nhất. Chúng ta đang phải
đối phó nhiều thứ nguy hiểm lắm : nguy hiểm do ma quỉ quấy phá, nguy hiểm do những
kẻ thù của Giáo hội, nguy hiểm do những cám dỗ và cạm bẫy của người đời. Khi
chúng ta không đoàn kết hiệp nhất với nhau
thì chẳng những chúng ta không giúp gì được cho nhau để thoát khỏi những
nguy hiểm ấy, trái lại chúng ta còn làm khổ thêm cho nhau, làm yếu sức nhau,
làm cho nhau dễ sa ngã hơn nữa. Những sự bất hòa, chia rẽ, thiếu bác ái đã làm cho biết bao người phải chán nản không
còn hăng say chu toàn nhiệm vụ, không còn nhiệt tình đi theo lý tưởng, không
còn đủ sức đón nhận hy sinh.
6. Truyện : Hãy cư xử như pho tượng.
Trong
những giai thoại về các thánh ẩn tu vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có câu
chuyện như sau : có bảy vị ẩn tu nọ kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ
hoang của người Ai Cập. Phía trước ngôi đền có một pho tượng. Đây là ngôi đền
duy nhất còn sót lại sau khi đã bị tàn
phá. Người cao niên nhất trong bảy anh em được bầu làm Bề trên của cộng đoàn. Để
dạy anh em qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi sáng ông ra trước pho tượng,
nhặt một hòn đá ném vào đó. Chiều đến, ông lại ra trước pho tượng và xin lỗi vì
hành động ném đá của ông. Cử chỉ khác thường của Bề trên này kéo dài một thời
gian khá lâu.
Ngày nọ,
không còn nén nổi tính tò mò, một người anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của
hành động khó hiểu ấy. Vị Bề trên trả lời bằng cách hỏi lại người đó như sau :
- Khi
ta ném đá vào pho tượng, pho tượng có lung lay không ?
Người
kia trả lời :
-
Không.
Vị Bề
trên tiếp tục hỏi :
- Buổi
chiều khi ta đến xin lỗi, pho tượng có để lộ xúc động nào không ?
Người
kia cũng trả lời :
- Không.
Vị Bề trên
mới giải thích :
- Anh
thân mến, chúng ta có tất cả bảy người trong cộng đoàn, nếu chúng ta muốn sống
hiệp nhất yêu thương nhau, chúng ta hãy
sống như pho tượng này, đừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người anh
em xúc phạm đến ta, và cũng đừng có ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện khi có người đến xin lỗi
mình.
Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Đà
Lạt