Thứ sáu
tuần 5 Mùa Chay
Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa
(Ga 10,31-42)
1. Vào dịp mừng lễ Cung hiến Đền thờ ở
Giêrusalem, người Do thái vây quanh Đức Giêsu, cật vấn Ngài có phải là Đấng Cứu
Thế không ? Đây là câu hỏi để gài bẫy : Nếu Ngài tự xưng mình là Đấng Cứu Thế,
họ nghĩ chính quyền Rôma sẽ bắt tội Ngài. Nếu Ngài chối, họ sẽ buộc Ngài vào tội
lừa dối dân.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu
không trả lời thẳng vào câu hỏi đó. Thừa dịp này , Ngài tuyên bố một chân lý
quan trọng : Ngài là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa :”Chúa Cha ở
trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”.
2. Chúng ta thấy người Do thái không
tin Ngài là phải, vì bài Tin Mừng hôm nay cho thấy lý do tại sao người Do thái
không tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Họ không tin nhận vì họ đứng ở vị thế chính trị : họ mong đợi một Đấng Cứu
Thế giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
của ngoại bang; trong khi đó, Đức Giêsu lại ở vị thế hoàn toàn tôn giáo. Ngài đến giải phóng con
người khỏi ách thống trị của tội lỗi. Hai người đứng trên hai quan điểm khác
nhau mà nói truyện thì không bao giờ đi đến kết luận chung.
3. Câu hỏi “Đức Giêsu là ai”, Ngài có
phải là Con Thiên Chúa không ? Câu trả lời vẫn còn lơ lửng, chưa ngã ngũ !
Trong ba năm giảng dạy, với nội dung giảng dạy,và cách thức giảng dạy của Đức
Giêsu đã khiến mọi người ngạc nhiên thán phục. Thêm vào đó, những phép lạ Chúa
làm lại củng cố thêm cho sự thán phục này. Dầu vậy, thính giả của Ngài vẫn thắc
mắc hỏi nhau : Giêsu là ai ? Nhiều người
cho Ngài là một tiên tri nào đó như
Isaia, Êlia, Giêrêmia hay một tiên tri nào
khác đã sống lại.
Chính các Tông đồ cũng vẫn thắc mắc :
Ngài là ai ? Câu hỏi này đã được chính Chúa Cha trả lời : Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa, là con rất yêu quí của Chúa Cha. Bằng chứng : hai lần Chúa Cha đã
tuyên bố công khai như vậy, một lần ở sông Giorđan lúc Ngài chịu phép rửa và một
lần nữa ở trên núi Taborê khi Ngài biến hình.
Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần
tuyên bố như vậy. Chẳng hạn dụ ngôn”những người làm vườn nho hung ác” đã giết đứa
con duy nhất của ông chủ. Chúa đã dùng hình ảnh đó để ám chỉ chính Ngài đã được
Chúa Cha sai đến trần gian và bị người Do thái giết chết nơi đồi Calvariô...
4. Người Do thái vì cứng lòng, không
chịu nhận Đức Giêsu và lởi giảng dạy của Ngài. Họ kết tội Ngài phạm thượng vì
đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa. Dân Do thái chỉ nhớ một điều họ không bằng
lòng, mà quên đi nhiều điều tốt lành Đức Giêsu đã làm cho họ :”Chúng tôi ném đá
ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng. Ông là
người phàm, mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33).Với họ, Đức Giêsu chỉ
là con người bình thường, một thanh niên con bác thợ mộc Giuse và bà Maria ở
làng quê Nazareth nghèo nàn.
Dù họ chấp nhận hay không, thì Đức
Giêsu vẫn là Con Thiên Chúa, như lời Đức Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan quan giữa Ngài với
Chúa Cha :”Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”. Ngài đến để làm chứng cho sự thật.
Nhưng chính bởi sự thật đó, có nhiều người đã chống đối và cũng có nhiều người
tin vào Ngài.
5. Vậy chúng ta bảo Đức Giêsu là ai ?
Chúng ta phải tin và xác quyết rằng Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là người thật.
- Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Trong
ba năm sống công khai, Ngài đã không ngừng xác quyết điều dó. Ngài tự xưng mình
cao trọng hơn Abraham, lớn hơn Maissen... Tất cả những lời tuyên bố trên đã được
Đức Giêsu chứng thực và xác nhận bằng các phép lạ, trong đó sự sống lại của
Ngài là bằng chứng cao cả nhất về Thần tính của Ngài.
- Đức giêsu cũng là con người thật.
Con người đó cũng có một thân xác như chúng ta. Về phương diện tình cảm, Ngài
biết rung động trước vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên, Ngài nghiêng mình và xoa
dịu những vết thương đau của nhân loại, nhất là những kẻ yếu đau và người tội lỗi.
6. Truyện : Tin theo Chúa
Giêsu.
Qua những người dân trong vùng đến làm
phu, dựng nhà cho lính tráng và các cung nữ, tin đồn có tây dương đạo trưởng đến
thuyết pháp được lan truyền ra. Dân chúng đến nghe giảng mỗi ngày một đông, và
số người trở lại mỗi ngày một nhiều. Trong hai tháng trời chờ đợi ở An Vực, hai
cha đã rửa tội được 200 người.
Người thứ nhất được ơn trở lại là một
sư cụ danh tiếng trong vùng. Cụ rất chăm học đạo, hằng ngày luôn ở bên cạnh các cha để nghe giảng
giải các mầu nhiệm trong đạo. Không dám phiền cụ, cha Đắc Lộ nhờ một thanh niên
biết chữ chép ra chữ Nôm, những kinh cha đọc cho, để những người tân tòng theo
đó mà học.
Thấy thế, cụ liền xin cho cụ được hân
hạnh làm công việc đó “vì trước kia, cụ đã làm thầy dạy người ta những sự lầm lạc,
thì lúc này, cũng xin nhận việc đó để dạy lại người ta những điều chân thật”.
Chưa đủ, nhận thấy gian nhà của hai
cha ở chật chội, dân chúng đến nghe giảng phải chen chúc nhau, cụ liền dâng cho
hai cha một khu đất bên cạnh, để hai cha làm một nhà thờ rộng rãi và xứng đáng
hơn.
Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Đà
Lạt