Thứ ba tuần 2 thường niên
Tranh luận về ngày
hưu lễ
(Mc
2,23-28)
1. Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói
nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong
ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ : Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi
đói không ? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ
các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được
dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên
ngày hưu lễ.
2. Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabat) được
ghi trong Xh 20,8-11), Linh mục Carolô đã giải thích như sau : Nhóm biệt phái
chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí
họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabat, trong đó có việc
mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các
môn đệ Ngài.
Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức
là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm
nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày
Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái : họ phải được một
ngày nghỉ ngơi; kế đến là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ : trong
ngày đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi,
đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
Theo tinh thần ấy,Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa” :
a/ Ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên
vì ngày sabbat; b/ Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
3. Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ
luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiép xúc với các nên
văn hóa chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết.
Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah.
Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và
248 khoản buộc.
Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm
vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang
đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng
thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách
này được chia thành 2 loại : một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới
523 quyển (Wim Barclay).
4. Nguyên nhân cuộc xung đột này chỉ là việc các môn đệ ngắt
mấy bông lúa khi đi qua cánh đồng lúa. Một sự việc tầm thường không đáng kể. Luật chỉ cấm gặt và trục lúa thôi, nhưng ở
đây các người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm
trong ngày sabat. Sở dĩ người biệt phái xét nét khắt khe như vậy là cái tính ghen
tương nghi ngờ, cái thói hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của người biệt
phái, đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày
sabat. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xẩy ra những xung đột,
cãi vã, và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục
đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo hội cũng như trong cộng đoàn đều
nhằm giúp ta thêm mến Chúa yêu người. Giữ
những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản
luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.
Maurice Zundel
trong quyển “Sự hiện diện khiêm hạ” có viết :”Việc gặp gỡ Thiên Chúa chỉ có thể
thực hiện nếu có tình thân với con người, tình thân ấy sẽ biến thành tình trong
suốt. Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị
là biết cảm xúc trước giá trị con người. Chỉ kẻ biết tôn trọng con người
mới làm chứng được cho Thiên Chúa”.
5. Truyện : Luật
là để yêu thương.
Một người thợ xây đang ở trên giàn ráo cao thì bị xẩy chân
rớt xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều
oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua
loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người
ta đưa vào bệnh viện.
Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng” của miền này ,
gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa từ lâu đã thấy
cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó
thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố :
- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền
thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ. Nếu anh ta đã giết người nhà của
các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải
giết anh ta bằng cách đó, nghĩa
là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn ráo, nhảy xuống đúng vào
đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.
Nghe tòa phân xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin
bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý
và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân chúng trong vùng quyết định loại bỏ
hẳn tính cách “mắt đền mắt, răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người
với nhau.
Lm
Giuse Đinh Lập Liễm
Đà
Lạt