Thứ năm tuần 8 thường niên
Người mù thành Giêricô
(Mc 10,46-52)
1. Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta
việc Đức Giêsu chữa người mù từ mới sinh tại cổng thành Giêricô. Lời kêu van
của người mù :”Lạy Con vua Đavít, xin
thương xót tôi”, cho thấy dân chúng tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng
khôi phục và giải phóng dân tộc. Nhưng khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù
được sáng mắt, Ngài muốn hướng người ta về sứ mạng đích thực của Ngài là cứu độ
muôn dân. Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi đau khổ và tối tăm của sự dữ. Như
thế, tin vào Đức Giêsu, con người mới được ánh sáng, được giải phóng và được tự
do làm con Thiên Chúa.
2. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ
cặp mắt chúng ta có thể nhận biết và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta
có thể nhìn thấy mọi người, mọi vật. Có những người mù từ thuở mới sinh, hay bị
mù do tai nạn, bệnh tật. Họ giống như ngọn đèn bị tắt, suốt đời phải chịu lần
mò trong bóng tối, không còn đuợc hưởng ánh sáng mặt trời và những vẻ đẹp của
thế tới sự sáng, họ phải buồn phiền khổ cực biết bao. Vì thế, anh mù thành
Giêricô hôm nay đang phải ở trong tình trạng đó, anh đau khổ nên anh đã phải tha thiết xin Chúa giúp đỡ :”Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi”.
3. Hôm nay, nghe biết Đức Giêsu đi
qua, anh mù kêu xin Chúa cứu chữa, người ta cấm anh, anh càng kêu lớn hơn. Anh
không xin tiền, xin gạo, xin bánh như mọi khi, nhưng xin được xem thấy. Khi
nghe tiếng Đức Giêsu gọi, anh vội vàng vứt áo choàng, nhảy chồm về phía Chúa.
Lời kêu xin và thái độ của anh chứng tỏ anh tin tưởng sâu xa mạnh mẽ vào quyền
năng của Chúa, chính vì niềm tin này Đức Giêsu đã cứu chữa anh, và khi được
sáng mắt anh đã đi theo Chúa.
4. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ làm thơ,
cho nhạc sĩ viết nên cung nhạc. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người
nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương
và nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng đẹp. Trái lại khi nói về mắt, Phúc
âm lại nói về đôi mắt mù. Mù đôi mắt thân xác đã bất hạnh, còn mù đôi mắt tâm hồn lại là một bất hạnh lớn. Mù đôi mắt tâm hồn là “mù” mà không
chấp nhận mình “mù”, vì nghĩ rằng mình vẫn sáng suốt để nhìn ra Chúa. Nhưng đâu
ngờ, đàng sau đôi mắt ấy, có thể chỉ là một màn đêm lạnh lẽo. Một tâm hồn trống
trải, buồn tênh. Chẳng buồn nghe và thực thi Lời Chúa nữa (Hosanna).
5. Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi
đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy
mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi
cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng
có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người
của mình, là bản thân mình.
Nói
chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng.
Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông
chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn
u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Còn chúng ta, những người sáng mắt thì sao ? Không những chúng ta phải cảm
tạ Chúa, phải quí trọng giữ gìn, bảo vệ tâm hồn nữa. Nếu chúng ta đã lỡ để cho
tâm hồn không còn trong sáng vì nhìn xem
những hình ảnh xấu...thì chúng ta hãy bắt chước anh Bartimê cương quyết, can
đảm và dứt khoát ném áo choàng, đến với Chúa Giêsu trong phép Giải tội để xin Ngài chữa lành, lấy lại ánh sáng tươi đẹp cho đôi mắt.
6. Truyện : Chiếc đèn lồng.
Có
một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân
mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn
sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù
nói :
-
Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.
Người
bạn trả lời :
-
Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn
thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe
hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột
nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói :
-
Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?
Người
kia đáp :
-
Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm.
Qua
câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không
thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả
câu truyện kết luận : Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên
hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều
khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để
soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên :”Lạy
Chúa, xin thương xót con”.
Lm
Giuse Đinh Lập Liễm
Đà
Lạt