Thứ hai tuần 31 thường niên
Hãy có tinh thần
chia sẻ
(Lc 14,12-14)
1. Qua bữa tiệc hôm qua, Đức Giêsu đã dạy thực khách bài học
về khiêm nhường (Lc 14,7-11), hôm nay Ngài lại dạy thêm bài học về việc chia sẻ,
biết cho đi. Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại : “bánh ít cho đi, bánh quy cho lại”, hay
Tây phương cũng có câu : “Do ut des”
: tôi cho anh để anh cho lại. Cho đi mà
không được lại thì tinh thần dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với
nhau khi thấy có lợi cho chính mình.
Đàng này, Đức Giêsu lại dạy : thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho
người không có khả năng đền đáp, cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”.
Chúng ta đã chọn lối sống nào của người đời hay của Đức Giêsu ?
2. Thật sự mà nói, thường thì mọi người chúng ta làm cái gì
cho nhau cũng muốn có qua có lại, thậm chí tham lam
theo kiểu “thả con tép bắt con tôm”,
“thả con săn sắt bắt con cá rô”, hoặc
“Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tự
bản chất chúng ta cho thấy có một sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa giầu
và nghèo, khi dọn tiệc, chúng ta vẫn ưu tiên mời người giầu, và nếu đang lúc
dùng bữa, gặp người giầu chúng ta vẫn dễ dàng mời họ hơn thấy một người ăn mày
đi qua...
Nói tóm lại, chúng ta bỏ ra
thì muốn thu lại, thậm chí muốn thu lại hơn gấp nhiều lần, chứ ít ai
trong chúng ta có được một lòng quảng đại
chia sẻ cho những người nghèo khó. Chúng ta vẫn lấy tiêu chuẩn “công bằng kiểu
làm ăn kinh tế” để đối xử với nhau, thì điều này chúng ta là Kitô hữu cũng chẳng hơn gì, vì
người ngoại họ cũng làm được hơn cả chúng ta, bởi làm việc lành mà được
đáp lại, nghĩa là được thưởng công rồi, nên chẳng còn công phúc gì trước mặt
Thiên Chúa cả (Hiền Lâm).
3. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại đưa ra một
cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi :”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui
mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc” (Lc 14,13).
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống
của Đức Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được
biểu lộ trong việc nhập thể. Đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức
nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Đức
Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ
bé, yêu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những
kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
4. Tình thương của Đức Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại.
Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi
là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo
khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận
lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người
không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý
thức thân phận của mình : nhận ân huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại;
họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Đấng tốt
lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều
Thiên Chúa chờ mong nơi họ (Mỗi ngày một tin vui).
5. Cậu bé đói lả ăn cắp ổ bánh mì bị chủ quán bắt được. Cậu
bị đánh, bị chửi. Thấy vậy, ông chủ quán phở kế bên trả tiền cho cậu và cho cậu
thêm một tô phở mang về. Sau này, ông chủ quán phở lâm bệnh, phải nhập viện. Đứa
con gái ông không thể trả tiền viện phí. Vị bác sĩ chữa trị đã thanh toán viện
phí, kèm theo dòng chữ :”Viện phí của ông đã được thanh toán cách đây hơn 20
năm bằng một ổ bánh mì và một tô phở”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta bài học
về cách làm ơn và cho đi. Ngài không dạy chúng ta làm ơn cho những người có khả
năng đáp trả, nhưng cho những người thiếu thốn, nghèo khó. Khi ấy, chính Thiên
Chúa sẽ thay họ trả cho chúng ta.
Đức Giêsu là tấm gương sáng chói về tinh thần cho đi cách
quảng đại. Ngài đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” để đến với con người,
sống như con người, hiến dâng mạng sống cho con người, mà không đòi hỏi bất kỳ sự trả ơn, đền đáp nào.
6. Truyện :
Tôi muốn cho chị được hạnh phúc.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã thiết lập một căn nhà để tiếp đón tất
cả những người hấp hối không có nơi nương tựa. Vì Mẹ muốn tạo điều kiện để những
người nghèo khổ này được tìm thấy một
cái chết xứng đáng với phẩm giá con người.
Một buổi tối nọ, người ta đưa đến một người đàn bà bị kiệt
sức vì đói khát và bệnh tật. Mẹ Têrêsa đã đích thân săn sóc với tất cả sự ưu ái
và dịu hiền của một người mẹ. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào với mẹ Têrêsa :”Thưa bà, tại
sao bà lại săn sóc tôi như thế”?
Với tất cả lòng ưu ái, mẹ Têrêsa đã trả lời :”Bởi vì tôi muốn
cho chị được hạnh phúc”.Trên khuôn mặt nhợt nhạt của người bệnh bỗng bừng sáng
lên một niềm vui. Bà cố gắng để thì thào với Mẹ :”Xin bà hãy lặp lại câu đó một
lần nữa đi”.
Mẹ Têrêsa mỉm cười nói :”Phải, tôi muốn cho chị được hạnh
phúc”. Và như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người đàn bà tiếp tục thều
thào :”Xin bà hãy lặp lại một lần nữa đi”.
Cuối cùng bà ta cố nắm lấy tay mẹ Têrêsa đặt lên ngực, như
muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của hạnh phúc mà chỉ ai có
lòng quảng đại mới ban phát được.
Lm
Giuse Đinh Lập Liễm
Đà
Lạt