NĂM THÁNH ĐỂ CHÚA AN
ỦI DÂN NGÀI
Bài 3
SAU ĐÊM VẤT VẢ LUỐNG CÔNG
Ngạn
ngữ Công giáo vẫn nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh người có
đạo”. Phải chăng sau lễ phong hiển thánh, những hạt giống đã nảy sinh hàng
loạt? Ba mươi năm rồi, nhìn lại, sự thật thế nào?
- Cụ
thể, trong quyển “Giáo hội Công Giáo Việt
Nam – Niên giám 2016”, ở các trang 480 – 482 có ghi thật rõ các con số về
năm 2015:
- Giám
mục: 45
- Linh
mục triều và dòng: 5197
- Tu sĩ
nam nữ: 23.196
- Giáo
lý viên: 66.624
- Chủng
sinh: 4,854
Tống
cộng lên đến 99.916 Tông đồ, chỉ thiếu 84 người là chẵn 100.000, thế mà số
người lớn được rửa tội chỉ có 38.050 người (Sđd, trang 482, cuối cột thứ 6). Ấy
là chưa kể hơn 60 ngàn hội viên Legio Mariae hoạt động và bao nhiêu nhân viên
các Hội đồng Giáo xứ! Hơn năm vị Tông đồ mới thu hoạch cho Chúa được hai linh
hồn. Còn nếu ta lấy tổng số 6.756.303 tín hữu cả nước đem chia cho số người lớn
được rửa tội, máy tính sẽ cho ta hình ảnh hơn 177 tín hữu cũ/ 1 tín hữu mới. Có
người tọc mạch tìm xem trong tổng số 38.050 có mấy mươi phần trăm theo Đạo
trong dịp lập gia đình và đi đến kết luận: Hóa ra chỉ có mấy cô cậu đang cặp bồ
dung dăng dung dẻ kia tham gia truyền giáo hữu hiệu, còn những người khác kể
như chẳng ai làm được gì!
Người
ta bảo ấy là chuyện số lượng, thế nhưng liệu chừng thông tin về số lượng lại
không hàm chứa một tiết lộ về phẩm chất đó sao?
Tự
dưng, ta có xu hướng nêu câu hỏi: “Tại ai?” Liệu chừng đây là “tại anh, tại ả,
tại cả đôi đàng” hay “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại anh một phần”? Có lẽ
không nên trả lời vội. Cả một năm thánh về lòng thương xót vừa kết thúc 18
tháng nay ít ra cũng phải đọng lại trong lòng ta một chút thương xót đủ để ta
xót thương nhau, không vội trách móc ai điều gì. Xét cho cùng, chỉ nên cùng
nhau ôn lại kinh nghiệm mẻ lưới thuở ban đầu.
Phải
nhận rằng tất cả chúng ta, từ triều đến dòng, từ các ban bệ cấp cả nước và giáo
phận cho đến các hội đoàn trong từng giáo xứ, từ cha sở tới giáo dân, tất cả
chúng ta ai cũng đều cố gắng để rồi, cũng như các Tông đồ xưa, vất vả suốt đêm
mà chẳng bắt được gì. Sự việc xảy ra cho nhóm của Thánh Phêrô hai lần. Lần đầu
khiến ngài chợt thấy mình đầy tội lỗi. Thế còn ở lần sau, “Thưa Thánh nhân, thế
còn ở lần sau, Ngài đã rút được kết luận gì?” - “Ờ, ờ nhỉ! Hình như tại vì suốt
cả đêm chúng tôi chỉ toàn thả lưới bên tay trái… Rồi Chúa bảo chúng tôi thả bên
tay phải!…” Vâng, có lẽ vì chúng ta cứ mải thả lưới bên trái thuyền. Nào, hãy
nghe lời Chúa và cùng bắt đầu lại, thả lưới bên phải thuyền…
Ta hãy
để cho Chúa an ủi và hãy an ủi nhau. Đừng buồn! Đêm vất vả luống công chẳng
phải là chuyện của riêng 26 giáo phận trên mảnh đất chữ S này mà là của Hội
thánh toàn cầu. Tông huấn “Tiếng Gọi Nên
Thánh trong thế giới ngày nay” mời gọi chúng ta tìm một câu trả lời chung
với anh chị em đồng đạo trên thế giới.
Với
chương 1 của tông huấn Nên thánh, câu
trả lời cho đêm vất vả luống công chính là ở chỗ Hội thánh chưa “thánh” đủ,
chưa “thuộc về Chúa” cho đủ. Đúng như ghi nhận của một nhà truyền giáo nọ:
Người ta nể phục chúng ta tổ chức giỏi, thậm chí kinh doanh giỏi, nhưng không
thấy chúng ta là người của Thiên Chúa.
Sự trơ
lì không sinh hoa kết quả chẳng khác nào chuyện kẻ lấy khăn bọc nén bạc đem
chôn (x. Lc 19,20). Đó chẳng phải là chuyện mới. Chúa đã nguyền rủa cây vả
không trái, chỉ toàn lá và nó đã chết khô tận rễ (x. Mc 11,12-14.20-21). Ngài
đã nguyền rủa Khôradin, Betsaiđa và Caphácnaum (x. Mt 11,21-24) rồi Giêrusalem
(x. Mt 23,37-39). Những thành ấy không nhúc nhích gì trước lời nguyền rủa của
Chúa cho nên gần bốn mươi năm sau cuộc Thương khó của Chúa, tất cả đã sụp đổ,
không còn hòn đá nào trên hòn đá nào (x. Lc 19,44). Israel lâm vào cảnh nước
mất nhà tan, bị phân tán khắp nơi trên mặt đất, đau thương gấp mấy mươi lần
cuộc lưu đày Babylon.
Dân
chúng và thủ lãnh Israel phải trả giá đắt đến thế chỉ vì tự mãn, tìm cách chống
chế, không chịu nhìn thẳng vào sự thất bại.
Họ tránh né sự thật vì sợ bị nhục. Phải chi họ đã may mắn biết được điều
Đức Thánh Cha nói với chúng ta nơi số 118 của Tông huấn Tiếng Gọi Nên Thánh: “Khiêm nhường chỉ có thể bén rễ trong lòng qua
những sự hạ nhục. Không có sỉ nhục, thì không có khiêm nhường hay thánh thiện.
Nếu bạn không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì bạn chưa khiêm
nhường và chưa phải là đang trên con đường nên thánh. Để ban sự thánh thiện cho
Hội thánh Ngài, Thiên Chúa đã đành phải cho Con Ngài chịu nhục nhã. Chúa Giêsu
là đường. Sự sỉ nhục làm cho bạn giống Ngài; đó là một khía cạnh không thể
tránh được của việc noi gương Đức Kitô”.
Chính
trong tinh thần khiêm nhường ấy mà các vị Giáo hoàng ngày nay đã nhiều lần lên
tiếng xin lỗi vì những lỗi lầm của các con cái Chúa trong lịch sử. Cũng chính
với tinh thần khiêm nhường ấy, trong Năm Thánh các chứng nhân đức tin, cộng
đồng Dân Chúa Việt Nam đang có cơ hội mở lòng ra với Lời Chúa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì
các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ
giải phóng các ông” (Ga 8,31-32). Lắng nghe Lời Chúa ta sẽ biết được sự
thật Đức Phanxicô nói với ta nơi chương 2 của Tông huấn. Ở đó ngài vạch mặt chỉ
tên hai kẻ thù tinh tế của sự nên thánh. Ngài vừa cảnh báo vừa yêu cầu mỗi
chúng ta tự kiểm điểm xem đã bị chúng lừa gạt như thế nào.
“Tôi
muốn lưu ý đến hai thứ thánh thiện giả mạo có nguy cơ khiến chúng ta lầm lạc:
thuyết ngộ đạo và thuyết Pêlagiô. Hai lạc thuyết này đã có từ thời Kitô giáo sơ
khai, nhưng hiện vẫn hết sức đáng quan tâm. Ngay ở thời nay rất nhiều Kitô hữu
vẫn bị những ý tưởng dối trá này lôi cuốn mà có lẽ không hề ngờ” (Nên thánh, số
35).
- Nhóm
ngộ đạo là những người chạy theo sự bừng ngộ, tự cho là mình nhận được những
hiểu biết sâu nhiệm và đặc biệt, hơn hẳn mọi người.
- Nhóm
Pelagio là những người không tha thiết với ơn Chúa, chỉ dựa trên sức riêng
mình.
Cả hai
thái độ rất gần với lý tưởng ngoại giáo về sự hoàn thiện. Ngộ đạo gần với lý
tưởng giác ngộ, lý tưởng “tu là cội phúc, tình là dây oan”, “tu là trong, lập
gia đình là đục”, cùng với những “thành quả”, những “trình độ” đạt được nhờ tu
tập. Thái độ Pelagio rất gần với những người chủ trương tự cứu bằng sức riêng
mình: tự thắp đuốc mà đi.
Gọi là
lý tưởng, có nghĩa rằng, trước mắt người đời, đó là những giá trị trổi vượt và
người ngoại giáo hiểu đó là chuyện đương nhiên. Người Kitô hữu không phủ nhận
những điều ấy là một thứ giá trị nào đó, nhưng khẳng định rằng những thứ ấy
chẳng có ý nghĩa gì với ơn cứu rỗi nếu chưa có Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa,
bởi vì ơn cứu rỗi là được hiệp nhất trong yêu thương hạnh phúc đời đời với
Thiên Chúa. Thật vậy, “ngoài Đức Kitô ra,
không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã
được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv
4,12).
Đức
Thánh Cha bảo rằng ngày nay rất nhiều Kitô hữu vẫn bị hai ảo tưởng dối trá này
lôi cuốn mà có lẽ không hề ngờ. Thường thì kẻ lạc về phía này, người lạc về
phía khác, mà lắm khi cả hai ảo tưởng có thể xảy ra nơi cùng một người. Tạm ví
dụ về thái độ ngộ đạo: Khi tham gia các đoàn thể đạo đức, ta có thể rơi vào ảo
tưởng mình thánh thiện hơn người khác, hoặc khi ta dương dương tự đắc đấu lý
nhằm thuyết phục người khác theo Đạo, hoặc khi ta thấy mình “nắm vững vấn đề”
hơn ai đó và vì thế… ta thánh thiện hơn họ… Rồi về thái độ Pelagio, cậy vào sức
riêng: Khi ta dấn thân làm tông đồ hoặc bác ái từ thiện và thản nhiên bỏ bê cầu
nguyện. Xin trích nguyên văn số 57:
“Tuy
nhiên, vẫn có một số Kitô hữu cứ nhất quyết đi theo một con đường khác, đòi tự
công chính hoá bằng sức riêng, vẫn cứ tôn thờ ý chí nhân loại và khả năng riêng
của họ. Kết quả là một sự tự mãn quy về mình và tự coi mình là ưu tú, mất hẳn
tình yêu chân thật. Điều này được diễn tả bằng nhiều cách suy nghĩ và hành động
có vẻ rời rạc khác nhau: việc bám chặt vào luật lệ, việc quá bận tâm với các
lợi thế xã hội và chính trị, một sự bận tâm chi li về phụng vụ, tín lý và uy
tín của Hội thánh, một sự huênh hoang về khả năng quản lý các vấn đề thực tiễn,
và say sưa tìm đủ cách tự hoàn thiện nhằm đạt được thành tựu cá nhân. Một số
Kitô hữu dành hết thời giờ và sức lực cho những điều ấy thay vì để cho Chúa
Thánh Thần hướng dẫn theo con đường tình yêu, say mê truyền đạt vẻ đẹp và niềm
vui của Tin mừng và tìm kiếm những anh em bị mất hút giữa đám đông vô số những
người đang khao khát Đức Kitô.”
Khi
tĩnh tâm, ta dễ nhận ra trong lòng ta vốn có kẻ nội thù đồng lõa với thần dữ.
Kẻ đồng lõa ấy mang tên một mối tội đầu nào đó. Qua tông huấn Tiếng Gọi Nên
Thánh, với đặc sủng phân định của người tu sĩ Dòng Tên, Đức Thánh Cha đã nhận
ra đầu mối tạo nên cuộc khủng hoảng trong Hội thánh ngày nay và đã gọi đích
danh nó. Chính hai não trạng ngộ đạo và Pelagio chi phối nặng nề cách suy nghĩ
cũng như cách hành động của nhiều tôi tớ Chúa, khiến họ biến công cuộc của
Thiên Chúa thành công cuộc nhân loại, tiêu tốn hết nhiệt tình, thời giờ và năng
lực vào những chuyện sẽ trở thành vô nghĩa trước nhan Thiên Chúa. Những bận tâm
nhân loại ấy che khuất tầm nhìn đời đời. Sự cậy dựa vào sức người cũng như vào
sự khôn ngoan nhân loại chặn đứng mất nguồn ân sủng Thiên Chúa vẫn hằng tuôn đổ
dạt dào.
Mỗi cá
nhân cũng như mỗi nhóm khó tránh khỏi đã có những lúc rơi vào cạm bẫy của ham
danh, ham lợi, ham thú vui hay quyền lực. Tuy nhiên không phải vì thế mà giờ
đây chúng ta khép kín trong mặc cảm không dám hoán cải. Đức Thánh Cha viết:
“Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua những sự hạ nhục. Không có sỉ nhục,
thì không có khiêm tốn hay thánh thiện” (Tgnt,
118).
Đức
Thánh Cha không bàn tới hai lạc thuyết ấy như những hệ thống ý tưởng nhưng như
hai thái độ nội tâm lấy con người làm chuẩn (x. Tgnt, 35). Ngài không quả quyết rằng anh chị em chúng ta tại Việt
Nam ngày nay mắc phải hai thái độ ấy. Ngài chỉ quả quyết rằng những thái độ ấy
“đang đè nặng và ngăn chặn sự tiến bộ của Hội thánh trên con đường nên thánh…
Chúng có nhiều hình thức khác nhau, theo khí chất và cá tính của mỗi người
(Cũng cần nói thêm: “và của mỗi nhóm người” - TTT). Rồi ngài kết luận: “Vì vậy,
tôi khuyến khích mọi người hãy suy nghĩ và phân định trước mặt Thiên Chúa xem
chúng có thể đang dần dần lộ rõ nơi cuộc sống của mình hay không” (Tgnt, số 62).
Theo
gợi ý của Đức Thánh Cha, tôi cũng đã dừng lại, suy nghĩ và phân định và nhận ra
ảnh hưởng của hai thái độ ấy nơi bản thân mình không nhỏ. Những lúc tôi tưởng
mình hơn người khác và ngấm ngầm phê phán họ, là tôi đang theo pháp môn ngộ
đạo. Có những khi tôi chỉ làm toàn chuyện mình thích, không chịu tìm ý Chúa;
hoang phí hết thời giờ và năng lực vào chuyện phụ, sao nhãng chuyện chính, chạy
theo hình thức phô trương bên ngoài mà quên mất bên trong, đó là tôi đang theo
đuổi lý tưởng Pelagio. Cả hai thái độ lệch lạc ấy dẫn tôi tới chỗ say sưa với
công cuộc riêng của mình và mọi sự trở thành công cốc. Đúng như ghi nhận của
Thánh Gioan Thánh Giá: “Làm việc của Chúa thì trong một giờ có thể thu hoạch
được nhiều hơn làm việc riêng của ta suốt cả một đời” (Châm Ngôn, số 133).
Lý
thuyết Pelagio khi đề cao ý chí cũng đề cao sự khôn khéo và luồn lách theo kiểu
thế gian, rồi đi tới chỗ hoàn toàn vững bụng vì có đủ tiền bạc, phương tiện,
thế lực… Dần dần nó đánh tráo cả phương tiện (cậy dựa vào sức riêng và tiền bạc
thay vì ơn Chúa) lẫn mục đích (tìm kiếm và chiếm hữu của cải vật chất thay vì
phụng sự Thiên Chúa). Đúng như lời Chúa cảnh báo: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ
kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm
tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
Tôi
không tự tha thứ cũng không tự biện hộ nhưng tôi linh cảm rằng chính Thiên Chúa
đã có cách để biện hộ cho ta. Có thể ta đã sai lầm trầm trọng nhưng Thiên Chúa
vẫn thương xót thiện chí của ta vì, nói chung, ta đã hành động theo “một lương
tâm ngay thẳng và một tâm hồn trong sạch” (1Tm 1,5). Có thể nói rằng ta lầm
nhưng chẳng biết mình lầm (x. Lc 23,34). Thiên Chúa cho ta trắng tay là để giáo
dục ta, cho ta sáng mắt ra, khỏi tự tôn tự mãn, và rồi giờ đây Ngài lại dùng
giáo huấn của Đức Thánh Cha để giúp ta nhìn thẳng vào sự thật và sự thật sẽ
giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32). Có đoạn
tuyệt với hai não trạng ngộ đạo và Pelagio, ta mới cảm nghiệm được rất rõ điều
Chúa đã nói: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì
danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt
19,29) và: “Cành nào sinh hoa trái, thì Ngài cắt tỉa
cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,2).
Theo
lời Đức Thánh Cha khuyến khích, mỗi chúng ta cần suy nghĩ và phân định xem mình
có bị đánh tráo cả mục đích và phương tiện một cách tinh vi chăng? Có nhiều
cách để tự trắc nghiệm: Cách thứ nhất là nhìn lại thử nội dung chính trong câu
chuyện hằng ngày của ta ở bàn ăn là gì? Có phần trăm nào bàn về Nước Thiên Chúa
và sự công chính của Ngài hay chỉ toàn nói tới những thứ linh tinh khác? (x. Mt
6,33). Cách thứ hai là xem thử chúng ta đang dùng tiền bạc vào việc gì? Có mấy
phần trăm trực tiếp nhắm đến việc loan báo Tin mừng? Cách thứ ba là dựa trên
quy tắc “xem quả biết cây” (Mt 12,33) hoặc, nói theo thánh Phaolô, “gieo giống nào, sẽ gặt giống ấy” (Gl
6,7): Ta có thể dựa trên những thành
quả mình tự hào để biết mình đã gieo gì, đã tìm gì! Liệu ta có thực sự tìm kiếm
các linh hồn như thánh Gioan Bosco hay là ngược lại? “Xin cho con các linh hồn,
bao nhiêu thứ khác mất còn kể chi, Chúa cần xin cứ lấy đi…” Ta không gặt hái
được các linh hồn, chẳng phải vì ta chỉ toàn lấy các chuyện khác chứ chưa lấy
việc cứu vớt các linh hồn làm mục đích?
Muốn
tránh vấp lại tình trạng lầm nhưng chẳng biết mình lầm, ta cần biết phân định
để nhận rõ được đâu là ơn soi dẫn của Chúa, đâu là sự xúi giục của Satan. Đầu
thế kỷ XIII, năm 1209, thánh Albertô thượng phụ Thành Giêrusalem đã căn dặn các
tu sĩ Cát Minh: “Phải biết sáng suốt phân
định, vì sự sáng suốt phân định chính là quy luật của các nhân đức” (Qui luật
tiên khởi, số 24). Xa xưa hơn, ngay trong các thư Tân ước, các thánh Tông đồ đã
nhắc nhở ta phải sáng suốt như thế (x. Cl 1,9; Hr 6,14; 1Ga 4,1-2).
Phần
thứ ba trong chương 5 của Tông huấn là một dẫn nhập ngắn gọn và dễ hiểu về kinh
nghiệm phân định để kiếm tìm và thực hiện ý Thiên Chúa. Ở bài sau, chúng ta sẽ
chia sẻ về kinh nghiệm này.