Kính chào Lòng Chúa Thương Xót, bài 12
Chia sẻ của Lm Trăng Thập Tự
Thế là đã đến lúc xếp
lại những báo cáo tẻ nhạt từ một trạm nghiên cứu nghiệp dư. Ở phút đúc kết, tôi
chợt nhớ lại nhịp sống của Giáo hội Việt Nam cuối năm ngoái. Khi tôi hỏi tại
sao “Năm thánh các Thánh Tử đạo Việt Nam” chỉ kéo dài sáu tháng thay vì một
năm, một vị trong Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam đáp: “Chúng tôi biết là
vội quá và ngắn quá, các nơi sẽ chẳng kịp làm gì, nhưng có lẽ chỉ cần có thế, một
cột mốc để đi vào chiều sâu là chính, vì sẽ có những dịp trọng đại hơn về sau.”
Khi nào sẽ là dịp
trọng đại hơn, nếu không phải là cuộc kỷ niệm 500 năm Kitô giáo Việt Nam đang đến
gần?
Bài “Sử lược Giáo hội Công giáo Việt Nam (1533-2000)” của Lm Trần Anh
Dũng, Paris, trên trang Simon Hòa Đà Lạt, mở đầu với những dòng sau đây: “Non
sông gấm vóc đất nước Ðại Việt đón nhận Tin Mừng cứu độ của Ðức Kitô từ những
ngày đầu thế kỷ XVI . "Khâm Ðịnh
Sử Việt Thông Giám Cương Mục ghi nhận sự kiện: "Năm Nguyên Hoà nguyên
niên (1533), tháng ba, đời vua Lê Trang Tông, có người Tây Dương tên I-nê-khu
lén vào xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân, và xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ,
âm thầm truyền bá Da Tô tả đạo ».”
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/LichSu/LichSuGHCGVN.htm
Gần năm trăm năm trôi
qua, nhìn lại ta có thể học được gì? Thật khó để học từ các sự kiện, bởi vì lịch
sử chẳng bao giờ lặp lại, rất ít khi có những sự kiện gần giống nhau! Là Kitô hữu,
ta cần đọc bài học lịch sử theo một hướng khác. Dụ ngôn “người gieo giống” có
thể giúp ta dựa vào những diễn biến của quá khứ để đọc ra xu thế của hiện tại
và điểm hẹn của tương lai.
Ngài nói: “Người gieo giống đi ra gieo giống. 4Trong khi người
ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5Có
những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất
không sâu; 6nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên
bị chết khô. 7Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết
nghẹt. 8Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt
được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. 9Ai có tai thì
nghe.” (Mt 13,3-9).
Dụ ngôn này rất phong
phú, với nhiều tầng lớp ý nghĩa chồng chất lên nhau. Trước hết nó vẽ ra trước mắt
ta một thửa ruộng nằm cạnh đường đi, có những góc đất cằn khô và những phía bờ
nhiều gai góc. Bản giải thích trong Matthêu liệt kê bốn loại thính giả của Lời
Chúa với tâm tính khác nhau; bản giải thích trong Marcô nói về những thái độ
khác nhau trước Lời Chúa; bản giải thích trong Luca nói tới những hoàn cảnh
khác biệt...
Có thể bạn đã từng đọc dụ
ngôn theo một cách khác, chẳng hạn nhận ra rằng ngay trong cõi lòng, mình đã từng
đón nhận Lời Chúa với tâm trạng này hay tâm trạng khác. Nó cũng có thể gợi lên
những khác biệt tâm lý nơi bốn giai đoạn của đời người: Tuổi thơ mau chán, tuổi
trẻ khó kiên trì trước thử thách, tuổi trung niên bị cuốn theo bao nhiêu tham vọng
rồi tuổi già bình an đón nhận ơn trời…
Những cảnh ngộ khác nhau ấy
của hạt giống cũng chẳng khác mấy với những khó khăn các đôi vợ chồng gặp phải
trên hành trình hôn nhân.
Những cảm nghiệm tình yêu
ban đầu có vẻ mãnh liệt nhưng cũng có thể hời hợt chẳng khác nào hạt giống rơi ở
vệ đường. Nó dẫn đến cam kết ăn đời ở kiếp với nhau. Thế nhưng, rất sớm sau lễ
cưới, đôi bạn thấy vỡ mộng vì khám phá ra những mặt trái của người bạn đời, của
bố mẹ và gia đình bạn, và nghĩ mình đã chọn lầm. Đó là khủng hoảng thứ nhất. Rất
may, nhờ đứa con sắp chào đời, họ vượt khỏi cám dỗ bỏ cuộc, chuyển dần từ tình
yêu chiếm đoạt sang tình yêu hiến dâng để lo cho con và cảm thông với nhau.
Dăm bảy năm sau ngày cưới,
đã khám phá hết những lý thú của đời hôn nhân và mệt mỏi với bổn phận thường
ngày, họ lâm vào khó khăn thứ hai là sự nhàm chán. Đây là cuộc khủng hoảng cần
thiết để tiến vào một tình yêu của chiều sâu.
Cả trong đời tín hữu, đời
hôn nhân và đời thánh hiến, tình yêu chiều sâu không phải là chuyện dễ. Trong
thực tế, ở tuổi trung niên, phần đông người nam và người nữ đều cảm thấy mình
thất bại. Đây là cuộc khủng hoảng thứ ba, Chúa Quan Phòng đã xếp đặt nhằm giúp
ta có cơ hội nhìn nhận sự bất lực của mình và phó thác tất cả cho Ngài. Người
ta đứng trước một chọn lựa hết sức quyết liệt. Nếu cả hai vợ chồng đều nhận
chân rằng tình yêu thương là quan trọng nhất, tiền của chỉ quan trọng ở mức tối
thiểu, họ sẽ tìm được lẽ sống thật của mình. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, họ vui với cảnh sống “hằng
ngày dùng đủ”, “an phận thủ thường”, chăm lo bổn phận đời thường với tất cả
lòng mến Chúa yêu người. Đôi bạn đời
trở thành đôi bạn đạo. Đó là cảnh đạt
đạo ngay giữa cõi đời tục lụy của những “cư sĩ”, những ơn gọi thánh hiến giữa đời,
những tâm hồn tận hiến tại thế.
Nhiều cuộc hôn nhân sớm tan
vỡ vì cả vợ lẫn chồng đều không còn lấy tình yêu làm mục đích đời người nhưng
chỉ theo đuổi tiền bạc. Cũng có những trường hợp người ta dung hòa được tinh thần
với vật chất và thành công rực rỡ, đạt tới đỉnh cao của giàu có, thịnh vượng, rồi
đến lúc nhận ra rằng tiền bạc được Tạo Hóa trao cho chính là để phục vụ nhân
nghĩa, họ đã hiến hết tài sản cho những công cuộc từ thiện.
Thảm
kịch xảy ra khi người ta đi nước đôi, trên danh nghĩa là thờ Thiên Chúa nhưng
trong thực chất là thờ tiền của, hoặc khi đôi vợ chồng theo đuổi hai lý tưởng
trái nghịch, “ngủ cùng giường mà mộng khác nhau”.
Lúc ấy, nếu biết đến với
Chúa, người ta sẽ nhìn nhận mình thất bại để nhường chỗ cho Thiên Chúa thành
công, và sẽ tiến vào giai đoạn thứ tư đầy hoa trái tâm linh.
Còn nếu tìm cách chạy trốn
sự thất bại bằng những thành công dễ dãi mua được bằng tiền, người ta sẽ lấy những
cái hào nhoáng bên ngoài để che đậy cái trống rỗng bên trong. Để đổ lỗi cho
phía bên kia, thậm chí người ta còn tìm cách chứng tỏ năng lực bằng sự chinh phục
những bồ nhí bằng tuổi con cháu mình. Chính lý do này khiến người ta cũng gọi
đây là cuộc khủng hoảng hồi xuân.
Nhìn từ góc độ cuộc tình
giữa Đức Kitô và Hội thánh, sau khi nghe bài giảng về bánh hằng sống, nhiều môn
đệ đã “vỡ mộng” bỏ đi. Khủng hoảng vỡ mộng kéo dài cho tới những cơn bách hại của
đế quốc Rôma.
Năm 311, Giáo hội được tự
do. Với nếp sống ổn định, được thế quyền ưu đãi, dần dần Giáo hội bị biến chất,
rơi vào một thứ khủng hoảng nhàm chán trong một thời kỳ đen tối và bị chia rẽ
thành hai khối Đông và Tây vào năm 1054. Dòng Cluny, Thánh Phanxicô và Thánh Đa
Minh đã dìu Giáo hội vượt qua khủng hoảng được vài thế kỷ.
Tiếp đó, từ cuối thời
Trung Cổ đến đầu thời Phục hưng, hồi thế kỷ XV và XVI, Giáo hội phải đương đầu
với một khủng hoảng mới, khủng hoảng hồi xuân hay khủng hoảng thất bại trong đời
sống hôn nhân. Người ta không còn say mê với Tin mừng nhưng chạy theo những mục
tiêu trần thế: nghệ thuật, giàu sang, danh vọng. Tình cảnh suy đồi dẫn tới những
nỗ lực cải cách theo hai hướng: Các anh em Tin Lành lìa bỏ Giáo hội để thực hiện
cải cách. Thánh Inhaxiô Lôyôla, Thánh Philipphê Nêri, Thánh Phanxicô Salêsiô,
Thánh Inhaxiô Lôyôla, Thánh Têrêxa Avila, Thánh Gioan Thánh Giá. Thánh Carôlô
Bôrômêô, thực hiện cải cách từ trong lòng Giáo hội…
Ngày nay, với bản Hiến pháp được tu chính năm 2009, Nghị
viện Liên minh châu Âu phủ nhận nguồn gốc Kitô giáo và những đóng góp của Kitô
giáo cho châu lục này. Các quốc gia châu Âu lần lượt phê chuẩn nhiều luật lệ
ngược với quan điểm của Giáo hội Công giáo. Cộng đồng Công giáo trở thành một
nhóm nhỏ. Nhiều nhà thờ trở nên hoang vắng, các tu viện đóng cửa. Giáo hội
phương Tây ngày nay lâm vào cuộc khủng hoảng thứ tư, nhìn phía này thì thấy
mình bị “vắt chanh bỏ vỏ”, nhìn phía kia thì rõ là một lần nữa Thiên Chúa đang
quyến rũ Dân Ngài, “đưa nó vào sa mạc cô tịch để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs
2,16).
Nhìn lại lịch sử Giáo hội
Việt Nam ta thấy hình như cũng có đủ các giai đoạn lặp lại lộ trình của dụ ngôn
người gieo giống:
Ở giai đoạn đầu Lời Chúa
được đón nghe cách hăm hở, cả đến những vị quan trong triều đình và một số công
chúa con vua Lê cũng đã tin và được ơn Thánh tẩy, thế nhưng phải chăng lắm kẻ
chỉ như trẻ thơ ham vui chốc lát, chạy theo thị hiếu nhất thời?
Ở giai đoạn hai, phải
chăng cần có sóng gió nổi lên để tách những cây chưa bén rễ khỏi những đám lúa
đã bén rễ sâu đang vươn lên, lớn mạnh?
Rồi bốn chục năm trở lại
đây, tới giai đoạn thứ ba, bên cạnh nẻo đường phải đi ngày càng hẹp và lên dốc
cao, luôn có sẵn một nẻo đường thênh thang, xuôi xuống và tráng nhựa thật êm.
Người tín hữu bị phai nhạt đức tin không do cấm cách bắt bớ nhưng do bị cuốn
hút theo văn minh tiêu thụ. Phải chăng chẳng những số lượng không phát triển nữa
mà cả phẩm chất cũng thoái hóa, chỉ còn chạy theo hình thức bên ngoài?
Chúng ta đứng tại ngả ba
đầy thử thách, một bên là Thiên Chúa, một bên là vật chất: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ
kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24).
Thật đáng e ngại và đáng
lo sợ khi chúng ta nhìn thấy rất rõ thực tế của Giáo hội phương Tây hồi thế kỷ
XV, XVI đang lặp lại nơi hiện thực của chúng ta lúc này. Người ta bỏ quên điều
chính yếu, chay theo những cái phụ thuộc, bắt bẻ nhau những chuyện vặt vãnh, để
mặc cho lòng mến Chúa yêu người bị bốc hơi, những lời khuyên Tin mừng bị biến
chất vì thỏa hiệp. Hầu như đâu đâu cũng đua nhau xây nhà, dựng tượng, hội hè,
đình đám,… Cả những dòng tu nghèo khó cũng có những cơ sở đồ sộ khiến ta phải
rùng mình khi bước vào.
Bề ngoài thật nguy nga
tráng lệ nhưng liệu có đúng là điều Đấng rao giảng các mối phúc thật đang mong
chờ? Tương lai nào đang chờ đợi ta?
Đây là cuộc khủng hoảng một
mất một còn. Ở bài trước, Thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả đường vào nội tâm như
đường xoắn ốc bảy vòng, trên đó, rất nhiều người tiến vào tới vòng thứ ba,
nhưng do tự hào, tự phụ, lại bị đẩy ngược ra ngoài. Chỉ những ai tín thác, những
ai trông nhờ vào Lòng Chúa Thương Xót, mới được Thánh Thần Thiên Chúa đưa dẫn
vào sâu bên trong.
Cái nguyên nhân tự hào, tự
phụ được Thánh nữ Têrêxa nói đó cũng chính là hai kẻ thù của sự thánh thiện, mà
trong tông huấn Vui mừng hoan hỉ về Tiếng gọi nên thánh trong thế giới ngày nay, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo là hai
nhân tố đang đẩy người tín hữu nói riêng và cả cộng đồng Giáo hội tới chỗ đánh
mất căn tính. Ngài gọi đích danh hai kẻ thù ấy là não trạng ngộ đạo và não trạng
Pelagiô. Vướng vào hai não trạng ấy, thay vì lấy tình yêu thương làm căn bản,
người ta chạy theo quyền lực và danh vọng hoặc những thành công rực rỡ phù phiếm.
Để giúp ta thoát cảnh suy
đồi, ngày nay Chúa cũng đang hướng ống kính của Ngài tới một số người, mà rất
có thể là chính bạn, người đang đọc những dòng này. Bạn cần biết rằng, theo cái
nhìn nhân loại, đây là cái vinh dự rất bạc bẽo. Thánh nữ Têrêxa phải thức đêm
thức hôm viết vội quyển Tiểu sử Tự thuật
để tránh nguy cơ bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Thánh Gioan Thánh Giá bị anh em
cùng Dòng nhốt vào ngục tối, nếu không vượt ngục được thì đã chết rũ tù chẳng
ai hay…
May thay, để dẫn dắt
chúng ta vượt khó, ở thế kỷ trước và thế kỷ này, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
những vị Giáo hoàng thật tuyệt vời, cụ thể là Đức Thánh Cha Phanxicô hiện nay.
Năm ngoái, chỉ mấy ngày sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam rời Rôma sau cuộc
hành hương “ad limina” và vài tháng trước khi chúng ta kỷ niệm ba mươi năm tôn
phong các hiển thánh Tử đạo tại Việt Nam, ngài đã công bố Tông huấn Vui mừng hoan hỉ, về Tiếng gọi nên thánh trong thế giới ngày nay,
trong đó tất cả được tóm tắt nơi “tiêu chuẩn lớn” là Lòng Thương xót (x. Vmhh, 95-109). “Sức mạnh nơi chứng từ của các
thánh là tuân giữ các mối Phúc thật và chuẩn mực của cuộc phán xét cuối cùng.
Chúa Giêsu chỉ nói mấy lời đơn giản nhưng rất thiết thực và có giá trị đối với
hết mọi người, vì trên tất cả mọi sự, Kitô giáo chính yếu là để đem ra thực
hành” (Vmhh, 109).
Mời đón đọc bài 13 và là
bài cuối: Xuất phát lại từ Lòng Chúa Thương Xót.