LỚN LÊN TRONG LỜI CHÚA

Bài 4: Ở LẠI TRONG ĐẤNG YÊU THƯƠNG TA

Khi bản thảo loạt bài này được gửi đến một số người để xin góp ý, ba bài đánh số 4, 5 và 6 không chỉ giới thiệu các kinh nghiệm mà đã dừng lại để nói về cách thực tập, khiến dòng tư tưởng của ba bài trước bị đứt đoạn. Tôi hơi khó xử, một số người có thể đang chờ nghe xem những kinh nghiệm tiếp theo là thế nào, nhưng với một số người khác, đây lại là chuyện dài dòng, không cần thiết!

Để dung hòa, mời anh chị em chúng ta dừng lại và lùi lại một chút để cùng nhìn vào thách đố chung của Hội thánh toàn cầu cũng như riêng của Hội thánh Việt Nam và viễn ảnh đang chờ ta ở chân trời 2033.

Thách đố lớn hiện nay là tình trạng tục hóa ngày càng trầm trọng, không ở đâu xa mà ngay trong lòng Giáo hội tại quê nhà. Cả người Công giáo bị lây nhiễm sự vô cảm của xã hội, đã mất hẳn sự “hăng hái”, chẳng còn thấy ai muốn làm gì cả! Quả là có sự khác biệt giữa hai bầu khí sống đạo trước và sau năm 1985-1986, thời điểm bắt đầu đổi mới về kinh tế, chuyển dần sang cơ chế thị trường, ngày càng tiến theo văn minh tiêu thụ. Người ta nói đến một sự tuột dốc đáng bi quan. Giáo lý Công giáo như đã bị biến thành chuyện lý thuyết suông? Điều gì đã khiến người ta phai nhạt dần đức tin, đức mến và buông theo cầu an, hưởng thụ? Tuy nhiên, vững tin vào Chúa Kitô Phục sinh, ta hiểu rằng đó là cái hiện tại đang qua đi để lạc quan về một hiện tại đang tới mà chính Chúa vẫn luôn ban ơn cho ta xây đắp. Ta hãy nhìn thẳng vào thực trạng đang qua đi, trào lưu tục hóa.

1. TRÀO LƯU TỤC HÓA

Cuối năm 2000, Đấng đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận từng lưu ý chúng tôi rằng: “Đoàn sủng chiêm niệm Cát Minh rất cần cho Dân tộc Việt Nam thời hậu chiến, khi phải đương đầu với sức hút của văn minh tiêu thụ. Cuộc đối mặt này sẽ gay go hơn nhiều so với các cuộc bách hại những thế kỷ qua”.

Nay đã hai mươi năm rồi, lời nhắn nhủ ấy ngày càng thấm thía. Người tín hữu đứng trước ngã ba đường, không thể làm tôi hai chủ, phải chọn hoặc là Thiên Chúa hoặc là Tiền Của và họ đang chọn gì? (x. Mt 6,12). Nhìn các bạn trẻ rời lớp giáo lý của giáo xứ, lên đường đi học, đi làm xa, ta man mác buồn vì cảm thấy mình đang mất đi những đứa con ưu tú, mất không do cách xa về không gian nhưng do chỗ họ sẽ khó đứng vững trước cơn lốc tiêu thụ.

Cùng lúc ấy, luồng gió triết học của chủ nghĩa tương đối chi phối cách nhìn và tư tưởng của thế hệ mới, cả nơi không ít những người thánh hiến. Khi các giá trị nền tảng trước đây bị đặt dấu hỏi, đúng hay sai đều trở thành tương đối, họ bị mất phương hướng, mất hệ quy chiếu, và không còn đủ nội lực để chống lại một sức hút mãnh liệt đang lôi cuốn.

 Đúng như lời Thánh Phaolô: “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe” (2Tm 4,3). Đó cũng là điều chính Chúa đã báo trước: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Ngài còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).

Hình như người Công giáo Việt Nam ngày nay không còn mấy hãnh diện được là con cháu các Thánh Tử Đạo và cũng không còn tha thiết mấy với việc chiến thắng chính mình. Làm sao để giúp mọi tín hữu tìm lại được khí phách của tiền nhân? Thiết tưởng cần có một sư phạm gợi lên được những đà sống tự phát của đại chúng tín hữu, không riêng trong việc tôn kính các Thánh[1] mà trước hết trong việc cảm nghiệm Lời Chúa, sức mạnh vô song giúp nâng cao đức tin và lòng mến.

2. CẦN GIÚP DÂN CHÚA TIẾP CẬN VỚI LỜI CHÚA

Khi khắp nơi phải đình chỉ những thánh lễ tụ tập đông người, Đức Cha Antonio Gómez Cantero, Giám mục Giáo phận Teruel, Tây Ban Nha, đã thẳng thừng nêu cho các giám mục và linh mục câu hỏi về việc kêu gọi tham dự thánh lễ trực tuyến: “Chẳng phải là chúng ta đang đối xử với các tín hữu như thể họ không biết cầu nguyện, và nên phụ thuộc vào hàng giáo sĩ?... Với những gì chúng ta đã làm cho đến nay, có phải chúng ta đang coi anh chị em tín hữu chỉ là khán giả?... [2]

Cách đặt vấn đề của Đức Cha Antonio khiến ta phải suy nghĩ. Từ nửa thế kỷ rồi, Phụng vụ của Giáo hội đã trao tặng cho Dân Chúa một cái khung tuyệt vời để đọc, học và sống Lời Chúa hằng tuần và hằng ngày. Giờ đây bỗng dưng không được dự lễ tập trung, mấy gia đình có khả năng tự tổ chức cùng đọc Lời Chúa và chia sẻ với nhau? Đã có những linh mục muốn cùng đọc Lời Chúa với giáo dân trong thánh lễ nhưng hình như luật phụng vụ không cho phép?

Thiết tưởng luật phụng vụ cần quan tâm tới một sư phạm giúp giáo dân tham dự tích cực hơn, để họ trưởng thành hơn, và có thể tự đảm nhận việc đọc và nghe Lời Chúa khi thiếu vắng linh mục. Có thể một đôi trường hợp nào đó không đạt yêu cầu, nhưng có hệ gì? Đức Thánh Cha Phanxicô từng viết: “Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình.” (Tông huấn Niểm Vui Tin Mừng, 49). “Chúng ta cần phải chuyển đổi từ một nền mục vụ thuần tuý bảo tồn sang một mục vụ dứt khoát  mang tính truyền giáo” (Sđd, 15).

Cuộc cách ly xã hội có tác dụng trắc nghiệm cả đức tin của người tín hữu và cả đường lối sư phạm cũ mòn của chúng ta.

Đã đến lúc chúng ta cần bám chặt lấy Lời của chính Chúa để nhìn thẳng vào cơn hồng thủy tục hóa đang xói mòn và làm tê liệt sự sống của Dân Chúa, và để cùng nhau tìm giải đáp phù hợp. Đã hơn một lần Đức Thánh Cha nói cuộc khủng hoảng hiện nay là cơ hội để hồi tâm. Ta còn có thể nói thêm: Đây là cơ hội để đến với Lời Chúa một cách mới. Tất cả chúng ta, linh mục, tu sĩ cũng như giáo dân đều được mời gọi dìm mình vào Lời Chúa và để cho Lời Chúa thanh tẩy.

Bao năm Lời Chúa bị lãng phí, Lời Chúa không thật sự tác dụng, không phát huy được khả năng đem lại sự sống cho Dân Chúa. Lời Chúa không phải chỉ được học mà đủ, còn phải được nghiền ngẫm và sống. Sư phạm của chúng ta có tạo nên được thói quen nghiền ngẫm và sống Lời Chúa chưa? “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Hr 4,12-13).

Cần giúp Dân Chúa đích thân đến với Lời Chúa. Nếu họ chỉ thụ động đến nhà thờ ngồi nghe, làm sao họ xác tín được chính nghĩa nơi dòng nước ngược của Bài giảng Trên núi? Thiên Chúa muốn nói gì với Hội thánh khi phơi bày thực tế đại chúng giáo dân bị hoang mang và sớm biến chất chỉ vì thiếu các thánh lễ tập trung? Sự kiện ấy không hề là một sự kiện không đáng kể. Chúng ta cần đọc ra được ý định của Chúa để quả cảm đi tìm một lề lối sư phạm mới và hữu hiệu.

Cùng với vị Giám mục Tây Ban Nha, chúng ta hiểu rằng chìa khóa chính để nhân loại thoát khỏi cơn lốc tục hóa là Giáo hội cần có được những linh mục yêu thích cầu nguyện trong thinh lặng. Muốn vậy, thiết tưởng trong thời khóa biểu hằng ngày của chủng viện, cần ưu tiên xếp cho việc nguyện ngắm đủ 30 phút để chủng sinh có thể bảo đảm được trọn 20 phút nguyện ngắm. Xin để cho chủng sinh lớn lên trong tình Chúa nhờ được thinh lặng một mình với Chúa từ đầu tới cuối giờ, thay vì cứ phải nghe ru ngủ bên tai những lời gợi ý mớm sẵn. Chính họ có gặp Chúa trong thinh lặng, khi làm mục vụ mới biết cách giúp giáo dân cũng gặp Chúa và dám theo đuổi công cuộc phúc âm hóa, ngược với dòng tục hóa. Cũng thế, đội ngũ học viên trường trực tuyến cần được huấn luyện thế nào để sẽ thực sự là những tác nhân chính trong tiến trình dậy men Chúa mong ước.

3. THEO CHÂN HỘI THÁNH THUỞ BAN ĐẦU

Sự đối nghịch giữa phúc âm hóa và tục hóa được gói gọn trong lời Chúa nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ... Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24), nói theo người Việt mình, đây là sự đối nghịch giữa nhân nghĩa với tiền tài. Tục hóa xây dựng tất cả nhắm tiền bạc và lợi nhuận, còn phúc âm hóa là xây dựng tất cả khởi đi từ tình thương và nhắm đến tình thương (x. Ga 13,34-35), như trong buổi đầu của Hội thánh, “các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32).

Đó là nhúm men của nền văn minh tình thương đã từng lây lan tới Việt Nam và giờ đây chúng ta cần làm lây lan thêm nữa. Khi Hội đồng Giám mục Việt Nam nhóm họp lần đầu, năm 1980, mô hình ấy đã được đề ra thật chói sáng. Những vị biên soạn lá thư chung đầu tiên đã có một cảm hứng kỳ diệu là xây định hướng mục vụ trên căn bản giáo hội học theo thông điệp “Giáo hội Chúa Kitô” của Đức Thánh Cha Phaolô VI và hiến chế tín lý về Hội thánh của Công đồng Vaticanô II. Đã bốn mươi năm rồi, lá thư chung đầu tiên ấy vẫn luôn xứng đáng là một tuyên ngôn của Giáo hội Việt Nam:

“Dân mới được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được Người sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và như muối đất” (Mt 5,13-16; GH 9,2).

“…Để sống trung thành với bản chất và sứ mạng của Hội Thánh như vừa nói ở trên, chúng tôi đề ra đường hướng mục vụ sau đây: chúng ta phải là Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam.

Trước hết, chúng ta phải là Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô nghĩa là:

- Gắn bó với Chúa Kitô và hợp nhất với Hội Thánh toàn cầu.

- Gắn bó với Đức Giáo hoàng, vị đại diện Chúa Kitô, người được Chúa giao trách nhiệm “chăn dắt đoàn chiên của Người” (Ga 21,15-18), và “làm cho anh em vững mạnh” (Lc 22,32).

- Gắn bó với nhau trong tình huynh đệ theo kiểu mẫu Hội Thánh thời sơ khai: “Chỉ có một tấm lòng, một linh hồn, không một người nào nói là mình có của riêng nhưng đối với họ, mọi sự là của chung” (Cv 4,32; 2,42).

- Trung thành với tinh thần của Công đồng Vaticanô II là tinh thần cởi mở, đối thoại và hoà mình với cộng đồng xã hội mình đang sống.

Để đạt mục đích ấy, trước hết chúng ta phải không ngừng hoán cải lương tâm và thay đổi cách sống của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đoàn Dân Chúa trong Hội Thánh ở Việt Nam sao cho phù hợp với Phúc Âm hơn. Công việc này chúng ta thực hiện nhờ lắng nghe Lời Chúa, lãnh nhận các bí tích, chuyên cần cầu nguyện và thành tâm kiểm điểm đời sống (LBTM 15).” (Sđd, số 8).

Tôi đã được nhìn thấy Hội thánh thuở ban đầu như thể tái hiện ở Tp. Đà Lạt, khi mọi người cùng nhau học tập và sống theo lá thư ấy. Tôi chỉ là một người khách tạm trú nhiều năm tại địa phương Đà Lạt, chỉ tham gia các buổi học về thư chung chứ không tham gia giảng huấn. Thế nhưng mãi tới nay tôi vẫn còn ngây ngất khi nhớ lại mình đã từng được chạm tới bầu khí của một Hội thánh đích thật khi đến thăm và sinh hoạt với những nhóm lớn nhỏ tại nhiều giáo xứ khác nhau. Tôi còn giữ được chứng từ, chín lá thư một cô giáo tín đồ Cao Đài gửi cho người chị em bạn kể lại hành trình theo Chúa cam go của cô, cô quyết theo Chúa chỉ vì cảm kích trước tình hiệp thông và hiệp nhất của cộng đồng giáo xứ Suối Thông B.

Đức cha Bartôlômêô đã xây dựng được hình ảnh lý tưởng ấy nhờ bốn yếu tố: (1) chính ngài dám chấp nhận bị hiểu lầm để nêu cao giáo huấn của Công đồng về Hội thánh, (2) Giáo xứ Chánh Tòa Đà Lạt được xây dựng đúng theo quan điểm và chỉ thị của ngài, (3) có tới sáu giáo xứ đầy sức sống do những linh mục thuộc những Dòng khác nhau đảm trách, vị nào cũng cố gắng phát huy sự hiệp nhất và hiệp thông theo cách của Dòng mình, và thứ tư là (4) một tầng lớp có học, có tinh thần đức tin và lòng đạo. Nhóm người này là lớp men giúp cho việc học tập và sống theo thư chung lan rộng tới các giới, các đoàn thể và những nhóm chia sẻ Lời Chúa.

Cũng như nơi Giáo hội thuở đầu, dù cho chỉ kéo dài được dăm bảy năm rồi phai nhạt dần do ảnh hưởng của trào lưu đổi mới về kinh tế khiến việc học tập bị lơi là, bầu khí ấy vẫn là lời chứng sống động cho thấy lý tưởng Tin mừng là khả thi. Rồi cũng như xưa, khi đại chúng Dân Chúa không còn giữ được nếp sống lý tưởng ấy, các Dòng tu vẫn tiếp tục duy trì nó, để đến một lúc nào đó lại giúp Dân Chúa thấm nhuần Tin mừng của Chúa. Ước gì giờ đây, qua các thành viên tại thế của mình, mỗi Dòng tu sẽ lại cung cấp cho Dân Chúa tại Việt Nam những kinh nghiệm thực hành của Dòng trên đường nhắm tới đức ái hoàn hảo.

Đức cha Bartôlômêô xưa là giám đốc Đại chủng viện Huế. Ngài không những cho phép mà còn khuyến khích chủng sinh gia nhập các hiệp hội huynh đệ linh mục triều nhằm giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh. Tôi không học ở Huế nhưng, được quen biết một số cha đàn anh thuộc các giáo phận miền trung, tôi rất ngưỡng mộ những thành viên của các nhóm OPAC, USU, Caritas, Ora et Labora, v.v…quả là những người mẫu mực. Nếu sợ rằng các tổ chức huynh đệ này sẽ gây chia rẽ trong hàng ngũ linh mục giáo phận thì thật sai lầm, bởi lẽ trong thực tế thì ngược lại, chính các anh em ấy là men hiệp nhất rất hữu hiệu cho cộng đồng linh mục.

Khi một linh mục tha thiết với tinh thần hiệp thông, nhà xứ của vị ấy sẽ thành “nhà Đức Chúa Trời”. Có lần tôi đến thăm một cha đàn anh thuộc dòng Phan Sinh. Anh vừa coi một xứ rất đông tại Xuân Sơn, Bà Rịa, vừa chăm sóc gần mười bạn trẻ tìm hiểu ơn gọi. Tôi hỏi bí quyết, anh bảo: “Tôi chỉ dặn họ rằng: mấy ông thấy tôi làm sao thì cứ làm như vậy là xong.” Đó là sư phạm dậy men, sư phạm của ánh sáng và sự sống.

Khoảng năm 1980 có dịp về thăm tận phía cực nam của đất nước, tôi được đến thăm một nhà xứ mà về sau nhiều anh em bảo đó là một nhà xứ mẫu, có hộp tiền dùng chung cả cha sở, cha phó và thầy xứ, các vị cùng chung tay lo cho người nghèo và làm việc có kế hoạch. Đó là nhà xứ của cha Giuse Nguyễn Văn Việt (1936-2015) ở Rạch Giá… Đó đây đều có những nhà xứ để lại cho tôi ấn tượng tuyệt vời, dù chỉ dừng chân vội vã, với hình ảnh những đàn anh đạt đạo, vui trong cảnh nghèo, những người cùng tuổi hoặc những đàn em trẻ trung, thanh thoát, hồn nhiên.

Cả những Tòa Giám mục nghèo khó nữa, như Tòa Giám mục Bắc Ninh. Tôi đến đó với một cha đàn anh vào tháng 9-1990. Mọi người trong Tòa Giám mục đều ăn cơm chung với Đức Giám mục. Có một linh mục, mươi chị em tu hội đời, một nhóm chủng sinh lớn và nhỏ, mấy người giúp. Đức cha Phaolô Phạm Đình Tụng bảo các chị tu hội hát tặng các cha miền Nam một bài quan họ. Rồi ngài bỏ nghỉ trưa để chia sẻ cho chúng tôi kinh nghiệm về hiệp thông và hiệp nhất, mong chúng tôi về kể lại cho anh em miền Nam. Tại Bắc Ninh hồi ấy cả giáo phận chỉ có Đức Giám mục và hai hay ba linh mục được công nhận. Chiều Thứ Bảy, giáo dân khắp giáo phận kéo về xưng tội và dự lễ, nằm la liệt khắp khuôn viên Tòa giám mục. Họ đem theo gạo và thức ăn, còn nồi niêu, chén bát, bếp, củi thì Tòa giám mục có sẵn… Không ai kể cái gì mình có là của riêng, mọi sự đều là của chung… Hai mươi bảy năm sau tôi có dịp quay lại, nhà ăn Tòa giám mục Bắc Ninh cũng dành chung cho tất cả, từ Giám mục đến những người nhỏ nhất…

Ở Kontum cũng không khác. Năm ngoái đây, về thăm một anh em bị tai biến nằm một chỗ, tôi rất vui vì Tòa Giám mục Kontum thật giản dị mà thâm tình, đâm nghĩa. Có lần trước đây, tôi đi thăm Đức Cha Micae nhưng chưa tới Kontum thì gặp ngài ở Pleiku. Ngài mời lên xe, đưa tới những giáo điểm rất mới, rải rác giữa núi rừng, có những nơi thiếu vắng linh mục, chỉ có vài nữ tu đơn độc. Ít lâu sau, tôi có việc ghé thăm đan viện Cát Minh Sài Gòn. Chị phụ trách nhà khách tại đó vừa ở Kontum về sau mấy tháng giúp chị em cùng dòng trên ấy. Tôi hỏi chuyện, chị giơ cao hai tay và nói:

- Chúa ơi, mấy ông cha ở Kontum sống như thời các thánh Tông đồ.

Còn nữa, ôi, nếu phải kể hết những tấm gương sáng chói của những cuộc sống gia đình đã khiến tôi quyết chạy đua trên đường nên thánh! Nhưng có lẽ tôi chỉ cần kể bằng ấy cũng đủ để nói rằng nếu chúng ta muốn thì Chúa vẫn ban cho chúng ta đủ ơn để xây dựng ngay nơi gia đình và cộng đoàn của mình một nền văn minh tình thương. Và đó là phần thứ ba trong chương trình huấn luyện của trường Cao đẳng trực tuyến mà tôi đề nghị: Một tấm lòng cho Chúa và các linh hồn.  

Nếu để riêng từng người một, ta có thể bị nao núng, không dám bước theo con đường hẹp của Chúa, nhưng khi biết dắt tay nhau cùng đi, ta sẽ thấy an tâm bên cạnh Thầy yêu và bạn quý, liên kết với Chúa Kitô là đầu và với mọi anh chị em là chi thể.

4. TẬN DỤNG NGOẠI CẢNH, TẬP SỐNG LẮNG ĐỌNG

Từ kinh nghiệm của chính mình, linh mục sẽ giúp mỗi gia đình tận dụng hoàn cảnh cách ly xã hội mà khám phá lại ơn gọi của mình và xây dựng hạnh phúc của mình nơi sự thinh lặng. Ta cần có những chỉ dẫn giúp các gia đình tổ chức lại việc cầu nguyện của họ. Thay vì gọi là “kinh sáng”, “kinh tối”, cần gọi là việc cầu nguyện đầu ngày và cuối ngày để nhấn mạnh chỗ đứng của Lời Chúa và sự thinh lặng khi cầu nguyện. Cần dành những khoảng lặng trong mỗi giờ kinh và những chỗ nghỉ trong từng kinh. Cần hát và đọc kinh nhỏ tiếng, theo nhịp thở than rên siết khôn tả của Chúa Thánh Thần (x. Rm 8,26). Cần phát huy tính chiêm niệm của chuỗi Mân côi và chuỗi kính Lòng Chúa Thương Xót bằng cách đọc nhẹ, chậm và có nhiều khoảng lặng.

Nên gợi ý để các nhóm gia đình biết chia sẻ với nhau về kinh nghiệm cầu nguyện trong thinh lặng, lập nên những câu lạc bộ tĩnh nguyện, khởi đi từ những đoàn thể mang tính gia đình. Cũng cần nhắc nhở các gia đình giữ luật nghỉ việc ngày Chúa nhật để họ thật lòng yêu mến thánh lễ Chúa nhật khi hoàn cảnh cho phép.

Cuộc khủng hoảng hiện nay giúp ta hiểu bao nhiêu thứ thừa thãi và vô ích đã khiến ta bị thoái hóa. Chúng còn nhắc ta nhớ rằng để phục hồi chỗ đứng đích đáng của Chúa, chỉ mổ xẻ Lời Chúa thôi không đủ, trước hết cần vào trong thinh lặng cõi lòng và để cho Lời Chúa mổ xẻ ta (x. Hs 2,16). Xin Thiên Chúa đổ ơn thinh lặng trên mỗi người, từ từng năm phút cho tới những ngày dài trong Chúa.

Theo hướng ấy, xin mời đón xem bài 5: “Những kỷ niệm về một ngôi trường sẽ có”. Chúng ta sẽ nhảy vọt tới năm 2033 để nhìn về hôm nay.

Lm Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
Gp Qui Nhơn



[1]  Cần tổ chức kính trọng thể lễ các Thánh Tử đạo Việt Nam cố định vào ngày 24-11, ngày này mới dễ trở thành một lễ hội dân gian được mọi người nôn nao đợi chờ và nhắc nhau trẩy hội, cứ đến hẹn là về, chẳng cần ai bảo ai. Việc mừng trọng thể lễ này vào Chúa Nhật khiến cho ngày 24-11 bị lu mờ, không được nhắc tới và do đó không có cơ may trở thành một lễ hội tự phát.

[2] Xem https://dcctvn.org/coronavirus-mot-duc-giam-muc-nang-loi-phe-phan-cac-vu-oanh-tac-tin-huu-bang-cac-thanh-le-truc-tuyen/

 


Nhịp Cầu Văn Hóa Công Giáo