GIÁO PHẬN QUI NHƠN
BAN MỤC VỤ GIA ĐÌNH VÀ BAN MỤC VỤ VĂN HÓA
SỔ TAY
TÂN PHÚC ÂM HÓA
GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC
IMPRIMATUR
Qui Nhơn, ngày 01
tháng 12 năm 2013
X Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Giám mục giáo phận Qui
Nhơn
Tủ sách Nước Mặn 09
Tân Phúc-âm-hóa là
rao giảng Tin Mừng bằng nhiệt tình mới, với những phương pháp mới và những cách
diễn tả mới, cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Cuộc Tân Phúc-âm-hóa phải bắt đầu từ
mỗi gia đình công giáo là Hội Thánh thu nhỏ, nhờ đó mỗi Kitô hữu tái khám phá
và làm mới lại đức tin của mình, đổi mới cuộc sống theo tinh thần Phúc Âm, để
có thể ra đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ khác một cách hăng say và có hiệu quả.
Vì thế, trong năm
2014 này, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kêu gọi mọi người Công giáo Việt Nam cùng
nhau phúc-âm-hóa đời sống gia đình và thúc đẩy các gia đình tham gia tích cực
vào sứ vụ loan báo Tin Mừng.[1] Cũng trong năm này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ triệu
tập một Thượng Hội Đồng đặc biệt về gia đình, từ ngày 5 đến 18 tháng 10, với chủ
đề: “Các thách đố mục vụ của gia đình trong bối cảnh Tân Phúc-âm-hóa”.
Việc Tân
Phúc-âm-hóa đòi buộc mỗi gia đình công giáo không những phải là những cộng đoàn
cầu nguyện, phục vụ sự sống, mà còn phải gia tăng đức ái để trở thành những cộng
đoàn yêu thương kiểu mẫu, trong đó mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con
cái cũng như giữa anh chị em với nhau phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu
Thiên Chúa, và cuối cùng phải trở thành những cộng đoàn tham gia vào sứ vụ
phúc-âm-hóa của Giáo Hội.[2]
Để giúp các gia
đình công giáo thực hiện công cuộc Tân Phúc-âm-hóa, Ban Mục Vụ Gia Đình và Ban
Mục Vụ Văn Hóa của Giáo Phận Qui Nhơn xin gửi đến các gia đình quyển SỔ TAY TÂN
PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC gồm 2 phần. Phần I với tựa đề “Mối bận tâm hiện
nay của Hội Thánh về gia đình”, gồm những văn bản hướng dẫn của các vị chủ
chăn. Phần II với tựa đề “Một số chỉ dẫn thực hành”, gồm 54 đề tài cụ thể được
biên soạn ngắn gọn dựa theo giáo huấn của Hội Thánh và được tập hợp thành 3 đề
mục: “Gia đình giáo dục”, “Gia đình sống đạo” và “Gia đình truyền giáo”.
Tôi trân trọng giới
thiệu quyển sổ tay này với các gia đình như một nỗ lực nhỏ bé nhằm giúp các gia
đình thực hiện việc Tân Phúc-âm-hóa chính mình, để trở thành những cộng đoàn sống
đức tin và truyền bá đức tin trong môi trường sống của mình.
Qui Nhơn, Chúa nhật I Mùa Vọng,
01.12.2013
X Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Giám mục giáo phận Qui Nhơn
Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền
giáo đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thụ
Plane compertum est (8-12-1939), về việc tôn kính tổ tiên cho giáo dân Việt
Nam.
Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc
chấp thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng
Giám mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha
thiết thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc
Âm cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được
nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu
của mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực
hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời
và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật
Viện, ngày 20-2-1946).
2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày
nay, Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội
không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của
các dân tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của
tổ tông, song vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng
Thiên Chúa có thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh,
một nếp sống siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt
thị, khinh chê tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công
giáo. Trái lại, Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ
hoàn hảo. Trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như
những truyền thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem
nghi lễ của miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu
chỉnh cả tinh thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc
thánh nhân hay các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones,
2-6-1951; Đức Gioan XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps
Pastorum, 28-11-1959).
3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội
Công Giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể
tham dự vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như
tôn giáo nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có
mạc khải một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và
phụng thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những
giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp
Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và
thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là
“đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa
với muôn vật.
Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu
xét những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo
khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia
sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội
khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng
phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý
và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những
buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này
(Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày
20-11-1964)
Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc
kết trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã
giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane
compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám
mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông
cáo này.
1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt
Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm
tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng
hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ,
thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công
Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được
diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường
hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ
tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái
quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng
liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng
hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ
động.
2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức
tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu
có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo
trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn
giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng
phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên
Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những
nơi dành riêng cho việc tế tự... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự.
Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn
định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).
3) Đối với những việc mà không rõ là thế
tục hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó,
theo dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của
một tôn giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được
coi như không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong
trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy:
nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp
thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu
cần phải dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ
nghi, mọi người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ
thị của Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải
thích tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có
dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các
vị phụ trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài
học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm
tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Sacerdos-Linh Mục Nguyệt San, số 43,
tháng 7-1965, trang 489-492
§1 Người tín hữu không được phép tham dự
cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần trong các nghi thức
của người không Công giáo.
§2 Có thể chước chuẩn cho người tín hữu
hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì trách nhiệm dân sự
hoặc vì danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi ngờ đã được Giám
mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các đám cưới và những
cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm gương mù và sinh
lợi.
Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội
thảo VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974,
đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị
của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn
kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:
“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận
Tin Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính
cách thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các
Tổ Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ
động” (Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).
1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ
Tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày
biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn
thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái
độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được
“cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là
dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu
dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ,
Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết
ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi
hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính
người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi
hài người quá cố.
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành
hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những
vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ
không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi
hành các việc trên đây sợ có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời
phân ưu khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu
việc tôn kính Tổ Tiên và các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là
một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn
kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha
mẹ”, đó là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974
Ký tên:
- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế
- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho
- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long
- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ
- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha
Trang
- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột
- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn
Kính gửi: Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam.
LỜI
MỞ
1. Từ Đại Hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lần
thứ X tổ chức tại Toà Tổng Giám Mục Hà-nội từ 08 đến 12-10-2007, chúng tôi,
Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc 26 giáo phận Việt Nam, xin gửi lời chào
thân ái và lời chúc bình an đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, trong
nước cũng như hải ngoại. Đặc biệt, trong tình hiệp thông liên đới và lời cầu
nguyện, chúng tôi bày tỏ niềm cảm thông và phân ưu sâu sắc đối với các thân
nhân và nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ ngày 26-09-2007 và cơn bão số 5 (Lekima)
ngày 02-10-2007.
2. Anh chị em thân mến,
Với các thư trước, chúng ta đã đào sâu
việc thực hành đức tin qua phong cách sống mầu nhiệm Thánh Thể (2004), sống Lời
Chúa (2005) và sống Đạo (2006). Tiếp tục theo đuổi định hướng đó và trong viễn
ảnh chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm vào năm
2010, Thư Chung năm nay lấy giáo dục Kitô giáo làm chủ đề. Điều đó thật đúng
lúc khi mà khắp nơi trên thế giới, giáo dục đang là một vấn đề thời sự nóng
bỏng và đặc biệt hơn nữa, tại Việt Nam, nhiều người cho rằng đã đến lúc cần
phải cương quyết nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục.
3. Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo
không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia
đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên
Chúa để mai sau trở thành công dân nước trời. Sứ mạng đó được khơi nguồn từ
Chúa Cha, được thực hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ Chúa Thánh Thần.
I.
NỀN TẢNG GIÁO DỤC KITÔ GIÁO
Chúa Cha Và Công Trình Tạo Dựng
4. Công trình giáo dục Kitô giáo, trước
khi là công khó của con người, đã là kế hoạch của Thiên Chúa. Khi tạo dựng con
người giống hình ảnh Ngài, ban cho con người khả năng đạt tới chân lý và tự do
(x. Hc 17, 3 &7), Thiên Chúa Cha đã định hướng công trình sáng tạo vũ trụ
của Ngài bằng một đường lối sư phạm mềm dẻo phù hợp với lợi ích và thái độ đón
nhận của con người. Thuở ban đầu, vì Dân Ngài chọn còn cứng lòng nên Thiên Chúa
xem ra nghiêm khắc (x. Lv 26, 14-46; Đnl 28, 15-45), nhưng dần dà, từng bước
một, Ngài tỏ cho họ thấy Ngài vẫn là một Thiên Chúa “thành tín trong mọi lời
Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm” (Tv 144, 13b).
Chúa Con Và Tin Mừng Cứu Độ.
5. Đường lối sư phạm của Chúa Cha cốt là
để chuẩn bị cho Chúa Con đến “dạy dỗ loài người mong chờ và đón nhận ơn cứu
độ”. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định mình “là đường, là sự thật và là sự sống”
(Ga 6, 14). Muốn nắm bí quyết sự sống đích thật, con người phải đến thụ huấn
tại trường học của Chúa Giêsu. Nhưng học nơi trường Chúa Giêsu không chỉ là học
làm người theo nghĩa nhân bản mà còn là học “nên hoàn thiện như Cha trên trời
là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Chúa Thánh Thần Và Vai Trò Tác Thành.
6. Những con người đầu tiên xuất thân từ
trường học của Chúa Giêsu là các tông đồ. Chúa Giêsu là thầy dạy nhưng chính
Thánh Thần mới là Đấng tác động để giáo huấn của Chúa Giêsu, qua lời rao giảng
của tông đồ, trở thành sức mạnh biến đổi tâm hồn người nghe. Nhờ Thánh Thần,
Thánh Phaolô đã cảm thấy lời rao giảng của ngài được đón nhận 'như chính Lời
Thiên Chúa' (x. 1 Thes 2,13). Ngài còn quả quyết: “Thần Khí làm cho anh em nên
nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Abba, Cha ơi” (Rm 8,14-17).
Giáo Hội Và Sứ Mạng Giáo Dục.
7. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao
cho Giáo Hội sứ mạng lên đường dạy dỗ muôn dân. Từ đó, giáo dục trở thành sứ
mạng gắn liền với sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng thế giới. Giáo Hội chính
là người Mẹ “săn sóc toàn diện đời sống con
người, kể cả đời sống trần thế, trong mức độ liên hệ với lời mời gọi của Thiên
Chúa. Vì thế Giáo Hội thông phần vào việc mở mang và phát huy nền giáo dục”
(TN/GD, lời mở đầu). Sứ mạng của Giáo Hội là tạo điều kiện để mọi người
đều được hưởng một nền giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 2).
Sứ mạng đó được thể hiện thế nào trong
bối cảnh Việt Nam hiện nay, đó là vấn nạn cần phải đặt ra, nếu chúng ta muốn có
những định hướng cụ thể cho sứ mạng giáo dục Kitô giáo của Giáo Hội Việt Nam.
II.
HIỆN TÌNH GIÁO DỤC KITÔ GIÁO TẠI VIỆT NAM
Những Dấu Hiệu Lạc Quan
8. Dù còn phải đối diện với vô vàn khó
khăn của thời đại - cơn khủng hoảng về chân lý, về các giá trị đạo đức, chủ
nghĩa tương đối - lãnh vực giáo dục hiện nay, trong môi trường xã hội cũng như
Giáo Hội, đã được quan tâm hơn và đang có những chuyển biến tích cực. Về phía
xã hội, hiện đang có nhiều nỗ lực lành mạnh hóa môi trường giáo dục, bài trừ
bệnh thành tích và tiêu cực trong học hành thi cử. Về phía phụ huynh, không ít
người sẵn sàng chắt chiu dành dụm từng đồng cho con cái ăn học. Những trung tâm
luyện thi, lớp ngoại khóa mọc lên như nấm khắp nơi mà vẫn không đủ đáp ứng nhu
cầu học viên mỗi lúc một gia tăng.
9. Về phía người Công giáo, sự hiện diện
của giới trẻ trong môi trường giáo dục xã hội đã phần nào được bình thường hóa:
lý lịch Thiên Chúa Giáo không còn bị kỳ thị và phân loại như trước đây. Nhờ đó,
số sinh viên Công giáo bậc đại học đã tăng lên đáng kể, ngay cả tại những miền
thôn quê. Trong lãnh vực đức tin, các lớp giáo lý dự tòng và hôn nhân ngày càng
đông học viên cho thấy giới trẻ Việt Nam ngày nay, ngược với trào lưu dửng dưng
tôn giáo phương Tây, vẫn còn quí trọng những giá trị Kitô giáo.
10. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và
tin học ngày càng được xử dụng rộng rãi hơn trong mọi lãnh vực xã hội, cũng đã
góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hóa ngành giáo dục trong xã hội cũng
như Giáo Hội.
Những Mối Quan Ngại
11. Tuy nhiên, bên cạnh những dấu hiệu
lạc quan, cũng không thiếu những điều đáng quan ngại. Trước hết phải kể đến
những lệch lạc trong quan niệm về giáo dục. Do ảnh hưởng của não trạng duy kinh
tế, nền giáo dục gia đình đang bị khủng hoảng. Vì phải chạy theo công ăn việc
làm, người ta không còn dành thì giờ cho các cuộc sum họp đầm ấm gia đình,
những bữa ăn đông đủ càng lúc càng hiếm hoi. Tương quan vợ chồng, cha mẹ, con
cái vì thế mà mỗi lúc một lỏng lẻo suy yếu. Hậu quả là môi trường gia đình, vốn
được mệnh danh là “mái ấm”, không còn nồng nàn tình cảm như xưa.
Chủ nghĩa khoa bảng cũng đang gây ra nguy
cơ đưa gia đình vào thái độ háo danh. Bậc phụ huynh và ngay cả con cái, muốn có
bằng cấp chủ yếu là để được nở mày nở mặt, để có công ăn việc làm tốt, mà quên
đi rằng mục đích cao đẹp nhất của giáo dục là “ngày nay học tập ngày mai giúp
đời”.
12. Điều cũng đáng quan ngại là bất cập
trong phương cách giáo dục. Hình như người ta chỉ quan tâm đến việc đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế mà coi nhẹ chiều kích phẩm cách làm người. Học sinh đến
trường nghĩ đến đối phó với thi cử nhiều hơn là học làm người. Nhà trường quan
tâm đến chỉ tiêu và kỳ tích nhiều hơn là đến sứ vụ xây dựng thực lực cho học
sinh.
13. Chủ nghĩa giáo điều trong giảng dạy
vẫn còn là một hiện tượng khá phổ biến. Thầy cô thường dạy cho học sinh cách
sao chép nguyên mẫu kiến thức, ấn định những bài văn mẫu, làm bài theo đáp án
mẫu nhiều hơn là huấn luyện họ biết sáng tạo, tìm tòi bằng chính nỗ lực riêng
của mình.
14. Mặt trái của phương tiện truyền thông
cũng là một trong những yếu tố tác hại giáo dục. Tuy góp phần thắp lên nhiều
điểm sáng về những giá trị nhân bản, truyền thông cũng tạo cơ hội cho nhiều lạm
dụng đáng tiếc. Vì thiếu ý thức, người sử dụng - phần lớn là giới trẻ - thay vì
thận trọng gạn lọc để tiếp thu tinh hoa, lại sa vào cạm bẫy của những loại hình
văn hóa phi đạo đức.
15. Trong lãnh vực đức tin, nhiều bậc phụ
huynh công giáo, kể cả các vị mục tử, vẫn còn lơ là hoặc thiếu trách nhiệm
trong việc thông truyền đức tin cho con cái, không tổ chức hoặc không lo lắng
cho con em tham dự những lớp giáo lý tại giáo xứ.
Một số nơi, giáo lý vẫn còn bị xem là
những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc giảng dạy
chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động
của người rao truyền.
Những bất cập trên đây đòi chúng ta phải
điều chỉnh lại cung cách giáo dục đức tin cho đúng tinh thần Tin Mừng. Cụ thể
là phải đề ra phương hướng để hành động cho Kitô hữu Việt Nam trong giai đoạn
lịch sử hiện nay.
III. ĐỊNH
HƯỚNG GIÁO DỤC KITÔ GIÁO
16. Ý thức sứ mạng quan trọng đối với
tương lai Giáo Hội và tiền đồ dân tộc, Giáo Hội Việt Nam muốn dấn thân trong sự
nghiệp giáo dục để thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho
mọi người cách hiệu quả và thiết thực hơn. Trong tinh thần đó, chúng tôi kêu
gọi những người có trách nhiệm giáo dục và mọi Kitô hữu Việt Nam hãy chú trọng
hơn nữa đến sứ mạng cao cả này, một sứ mạng mang nhiều đặc tính biệt loại so
với nền giáo dục xã hội trần thế.
Một Sứ Mạng Mang Tính Phổ Cập.
17. Cũng như Đức Giêsu được sai đến với
muôn dân (xem Lc 4,18-19), Giáo hội cũng có sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi
người (Mc 16,15), không phân biệt thành phần, đẳng cấp xã hội hay điều kiện
kinh tế. Sứ mạng đó không phải chỉ là sứ mạng của riêng thành phần nào, nhưng
bao trùm toàn thể Giáo Hội mọi nơi mọi thời, mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn (x.
TH/KTHGD 1).
18. Sứ mạng đó bắt đầu bằng công cuộc
nhập thế do công đồng Vatican II đề ra. Trước khi truyền đạt đức tin, Giáo Hội
có sứ mạng “phục vụ lợi ích của xã hội trần thế và xây dựng một thế giới nhân
đạo hơn” (TN/GD 3). Muốn vậy, Giáo Hội cần phải có chỗ đứng trong nền giáo dục
của bất kỳ thể chế xã hội nào. Tại Việt Nam, điều đáng lạc quan là giáo dục, từ
trước vẫn được coi là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước, nay đã được “xã hội
hóa”. Theo định hướng đó, tư nhân, thậm chí người nước ngoài, có quyền mở
trường tư thục.
19. Nhưng cũng đáng tiếc là đối với các
tổ chức tôn giáo tại Việt nam, cánh cửa giáo dục vẫn còn khép chặt: tôn giáo
chỉ có quyền mở trường tư thục cấp mẫu giáo. Dù vẫn không ngừng nỗ lực làm tất
cả những gì được phép để thể hiện sứ mệnh nhập thế, như mở lớp tình thương, lập
quỹ học bổng cho học sinh nghèo hoặc khuyết tật, Giáo Hội công giáo, với tư
cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội
Việt nam và, vì không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát viên bất
đắc dĩ.
20. Trong lãnh vực đức tin, có lẽ hình
ảnh đẹp nhất để diễn tả nét sinh động của nền giáo dục Kitô giáo là hình ảnh
cành nho của Chúa Giêsu (x. Ga 15, 16). Hình ảnh đó đặc biệt rõ nét hơn trong
hoạt động của các giáo lý viên. Họ giống như những cành nho gắn liền với thân
nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để chuyển
đến các học viên bằng chứng từ rao giảng và thực thi huấn lệnh Chúa.
21. Theo nghĩa đó, mọi Kitô hữu chúng ta
đều là giáo lý viên, bởi vì qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi tham gia
vào một công trình giáo dục trong đó, theo lời Đức Gioan Phaolô II, “mỗi chúng
ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta càng tự rèn
luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác” (TH/KTHGD 7). Học và dạy
cũng là củng cố đức tin cho mình và cho anh chị em mình (x. Lc 22, 31-33). Bao
lâu còn là phần tử của Giáo Hội lữ hành, chúng ta còn là học trò và còn là thầy
dậy đức tin bằng chứng từ cuộc sống của chúng ta.
Các Đối Tượng Ưu Tiên
22. Tính phổ cập của nền giáo dục Kitô
giáo một mặt không miễn trừ trách nhiệm cho bất kỳ ai, một mặt cũng đòi buộc
Kitô hữu không được loại trừ bất kỳ đối tượng nào. Muốn thế, Kitô hữu cần quan
tâm hơn đến những thành phần thường bị xã hội ruồng rẫy, khinh miệt, lãng quên:
người thất học, trẻ em không có điều kiện đến trường, thành phần cô lập do mặc
cảm hay bị kỳ thị. Chúa Giêsu khẳng định rằng sứ mệnh hàng đầu của Ngài là loan
báo Tin Mừng cho người nghèo khó, lao tù, mù lòa, bị áp bức (Lc 4, 18ss).
23. Trong bối cảnh công nghiệp hóa của
những xã hội đang phát triển, nghề nông thủ công truyền thống không còn đủ lợi
tức nuôi sống người lao động, rất nhiều người trong họ không còn con đường nào
khác hơn là trở thành di dân về thành thị tìm công ăn việc làm. Họ phải chịu
bao nhiêu thứ thiếu thốn thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần trên đất khách
quê người. Để có thể duy trì phần nào đời sống đức tin có nguy cơ bị công ăn
việc làm vùi dập. Họ cần phải hòa mình vào bầu khí đạo đức của các giáo xứ nơi
họ tạm cư. Cha xứ và giáo xứ địa phương cũng cần phải sẵn lòng nâng đỡ, chia
sẻ, đón tiếp dân, tạo điều kiện để họ sớm hội nhập vào các sinh họat đạo đức và
văn hóa nơi họ sinh sống. Lời Chúa và khung cảnh tình thân của giáo xứ là môi
trường và là điều kiện cần thiết để an ủi và khích lệ đức tin của họ nơi Thiên
Chúa, Đấng có đủ quyền năng biến cảnh sống tha hương của họ thành cuộc hành
hương đầy ý nghĩa hướng về Quê Trời.
24. Thiếu nhi và giới trẻ cũng là những
thành phần rất đáng quan tâm ở hàng ưu tiên. Thiếu nhi, những trang giấy trắng
đang chờ in những hình ảnh tươi đẹp, cần phải được thụ hưởng một nền giáo dục
chân chính về nội dung và hiệu quả về phương pháp, làm vốn liếng hành trang hữu
ích cho suốt cuộc hành trình làm người và đức tin.
25. Giới trẻ, “tương lai của Giáo Hội và
thế giới” (HT/VH 38), cần phải nhận được sự hướng dẫn tận tình từ các nhà giáo
dục và các thế hệ đi trước để nhiệt huyết tuổi trẻ của họ thực sự được vận dụng
vào công cuộc xây dựng xã hội và Giáo Hội.
Môi Trường Giáo Dục
26. Trách nhiệm giáo dục đức tin thuộc về
mọi Kitô hữu. Tuy vậy, trong thực tế, các “nhà giáo” mới thực sự là những người
được trao phó trách nhiệm giáo dục chuyên nghiệp. Đức Gioan Phaolô II trong
Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân đã thiết tha kêu gọi các giáo viên đang giảng dạy
tại các trường Công giáo hay không Công giáo tích cực làm nhân chứng cho Tin
Mừng (x. TH/KTHGD 6). Như thế ngoài cuộc sống mẫu mực của một nhà giáo, họ còn
là đại sứ của Đức Kitô nơi học đường bằng chính đời sống và lương tâm Kitô hữu.
Mọi người sẽ nhìn thấy họ mà gặp được Thiên Chúa.
27. Đại chủng viện và Học viện Công giáo,
những trung tâm giáo dục có hệ thống nhân sự và phương tiện đầy đủ nhất, phải
đóng đúng vai trò của mình bằng việc “đào tạo những người sẽ đảm nhận công việc
huấn luyện giáo dân” (x. TH/KTHGD 7). Các cơ sở này không những chỉ cung cấp
cho Giáo Hội những thầy giáo, mà còn đào tạo các môn đệ của Chúa Giêsu. Mỗi học
viên sẽ rời học viện vào một lúc nào đó khi mãn trường hay khi đi nhận một
nhiệm vụ mới, nhưng không bao giờ rời trường học của Chúa Giêsu, vị Thầy muôn
thuở của các nhà giáo dục đào tạo.
28. Gia đình là Giáo Hội tại gia, là
trường học tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo. Mọi thành viên của
gia đình, ông bà, cha mẹ và các anh chị em sống đạo nhiệt thành làm thành
truyền thống đức tin gia đình. Nơi đây, đức tin được truyền thụ qua những lời
cầu nguyện, lời nhủ bảo, đặc biệt trong những biến cố vui buồn của cuộc sống và
qua những mẫu gương đức tin. Gia đình còn là “chiếc nôi của sự sống và tình
yêu” (GHXH/GH 209) giúp các phần tử gia đình cảm nghiệm tình yêu và lòng trung
thành của Thiên Chúa, đồng thời cũng giúp hình dung trước những mối tương quan
liên vị trong xã hội.
29. Trong nền giáo dục Kitô giáo, gia
đình không thể tách rời khỏi giáo xứ. Nếu tại gia đình, đức tin được truyền thụ
bằng phương pháp tiếp cận và thực hành, những bài học được giảng dạy ngay giữa thực
tế. Tại giáo xứ, đức tin được thông truyền nhờ giảng giải và việc cử hành phụng
vụ. Chính khi đối chiếu và đón nhận cảm tưởng của nhau, đoàn kết yêu thương
nhau và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng và củng
cố.
30. Với những lớp huấn giáo là những
phương cách căn bản của giáo dục Kitô giáo, cha xứ cùng với các giảng viên sẽ
chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và huấn giáo cho các học viên chuẩn bị lãnh
các bí tích. Tại đây, giáo dân có môi trường thể hiện đức tin với các thành
phần khác của cộng đòan và được tham dự cách ý thức vào các giờ kinh lễ, phụng
vụ, bí tích. Đó là những hình thức tham gia trực tiếp và hữu hiệu vào công
trình giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 4).
31. Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các
đoàn thể Công Giáo và cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng là những môi trường không
thể thiếu để giáo dục Kitô giáo được triển nở tòan vẹn và quân bình.
Tính Toàn Diện Của Giáo Dục Kitô Giáo
32. Là Mẹ và là Thầy, Giáo Hội Công giáo
có bổn phận thông truyền cho mọi người, nhất là các Kitô hữu, một nền giáo dục
toàn vẹn. Mục tiêu hàng đầu của giáo dục Kitô giáo là đức tin. Giáo dục đức tin
không chỉ là truyền lại cho tín hữu những định tín, nhưng còn giúp cho tín hữu
sống đức tin ấy trong cuộc sống cụ thể, vì 'đức tin không có việc làm là đức
tin chết' (Gia. 2,17). Các tín hữu, nhờ được huấn luyện, sẽ trở thành men,
thành muối và ánh sáng cho trần gian.
33. Vì con người là linh hồn nhập thể,
khi giáo dục đức tin, Giáo Hội cũng nhằm đến giáo dục con người toàn diện để
giúp họ nhận ra phẩm giá của mình. Khi ý thức sâu sắc về phẩm giá của mình,
Kitô hữu cũng nhận lấy sứ mạng để sẵn sàng lên đường loan truyền Tin Mừng Chúa
Kitô cho người chưa tin và củng cố lòng tin của anh chị em mình. Phẩm giá Kitô
hữu luôn là những bài học suốt đời còn tiếp tục, vì tín hữu mãi là khách hành
hương. Phẩm giá ấy đang hình thành và sẽ chỉ thành toàn vào ngày cánh chung.
Cũng như sứ mạng tín hữu mãi mãi là được sai đi, tới cánh đồng lúa chín đang
thiếu thợ gặt (x. Mt 9,37). Vấn đề giáo dục Kitô giáo ở đây hôm nay là quyết
tâm bồi dưỡng phẩm giá để thực thi sứ mạng và càng biết thực thi sứ mạng, phẩm
giá lại càng được củng cố hơn.
34. Con người sống trong xã hội không
phải là một ốc đảo, nhưng liên đới với nhau trong niềm vui cũng như ưu sầu. Xã
hội tính là một nét nổi bật của con người. Giáo dục Kitô giáo góp phần cổ võ
tình liên đới, làm cho con người có trách nhiệm với nhau, trách nhiệm đối với
xã hội và công ích, cùng xây dựng một cuộc sống tốt đẹp an bình.
35. Luôn ý thức về sứ mạng làm chứng cho
Chân lý, Giáo Hội của Đức Kitô trải qua mọi thời đại đã góp tiếng nói của mình
qua những giáo huấn mang tính xã hội. Nhờ đó, Giáo Hội chia sẻ với nhân loại
'những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng' (x. GS 1). Với giáo huấn của
mình, Giáo Hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ
thống các mối quan hệ xã hội. Khi đưa ra những chủ trương và đường lối của mình
trong lãnh vực xã hội, Giáo Hội thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình trước những
trào lưu đi ngược lại với giáo huấn Tin Mừng và đạo đức xã hội.
36. Giáo dục Kitô giáo còn nhấn mạnh việc
huấn luyện lương tâm: Huấn luyện lương tâm không chỉ là giảng dạy cho nhau
những mệnh lệnh của hệ thống luật luân lý nhưng còn là tập cho nhau hồn nhiên
lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Bởi vì “lương tâm là luật tự nhiên vốn
phản ảnh phẩm giá con người và đặt nền tảng cho các nghĩa vụ căn bản của con
người” (GHXH/GH 140), nên “lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá
nhân càng tránh được độc đoán, mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu
chuẩn khách quan của luân lý” (GS 16). Khi có lương tâm ngay thẳng, con người
sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc sống công bằng, tôn trọng phảm giá và sự
sống con người hơn.
37. Sau hết, vì luôn là một sinh họat gắn
liền với một không gian nhất định, giáo dục phải được liên kết với truyền thống
văn hóa của không gian ấy. Đặt vấn đề giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam có nghĩa
là đặt vấn đề phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam. Dân tộc chúng ta luôn tự
hào về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống ấy nếu trong quá khứ
đã góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản sinh những danh nhân làm
vẻ vang đất nước, thì nay phải trở thành một trong những tiêu chí của nền giáo
dục Kitô giáo tại Việt Nam.
38. Giáo dục là cả một công trình lâu dài
không thể hoàn thành ngay. Tuy nhiên từng bước một, cần phải đưa ra những mục
tiêu mũi nhọn cho từng giai đoạn. Đại hội năm nay đề ra phương hướng chấn chỉnh
lại nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam, có nghĩa là phương hướng đó sẽ được
thể hiện trong những năm tới. Cụ thể, chúng tôi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa
hãy thực hiện ba bước sau đây:
- 2008: chấn chỉnh môi trường giáo dục
gia đình công giáo.
- 2009: chấn chỉnh việc đào tạo giáo lý
viên.
- 2010: chấn chỉnh cơ sở giáo dục các
giáo xứ.
LỜI
KẾT
39. Anh chị em thân mến,
Giáo dục Kitô giáo là công trình học và
sống làm con người và làm con Chúa. Đây là trách nhiệm của mọi Kitô hữu mọi nơi
mọi thời. Thế hệ trước có trách nhiệm chuyển giao đức tin cho thế hệ sau. Thế
hệ sau tiếp nhận, củng cố và bàn giao cho thế hệ hậu sinh. Lịch sử là một cuộc
hành trình qua đó Kitô hữu chia sẻ đức tin cho nhau dưới sự soi dẫn của Chúa
Thánh Thần.
Giáo dục Kitô giáo còn là một sứ mạng cấp
bách. Sự thay đổi choáng ngợp của nền văn minh thời đại không cho phép chúng ta
chần chừ trì hoãn, nếu không muốn bị đẩy vào nguy cơ tụt hậu. Hơn bao giờ hết
phương châm mà chúng ta phải nêu cao là: “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội
ngày mai”.
Dưới sự bảo trợ của Mẹ La Vang, thánh
Giuse, các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin mời anh chị em cùng chung vai gánh vác
mọi phận vụ của công trình giáo dục Kitô giáo để, với đức tin sống động, Giáo
Hội Việt Nam sẽ nỗ lực làm vinh danh Chúa hơn và góp phần xây dựng hạnh phúc
cho mọi người.
Hiệp thông cùng anh chị em trong tâm tình
cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa.
Hà
Nội ngày 12 tháng 10 năm 2007
X Phêrô Nguyễn Văn Nhơn X Giuse Ngô Quang Kiệt
Chủ
tịch HĐGM/VN Tổng thư ký
HĐGM/VN
Anh chị em thân mến,
“Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất
cả anh chị em” (x. 2Cr 13,13). Chúng tôi, các giám mục từ 26 giáo phận Việt
Nam, quy tụ tại Trung Tâm Mục Vụ Sài Gòn để tham dự Đại hội lần thứ XII của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, xin cảm ơn anh chị em
đã cầu nguyện nhiều cho chúng tôi để Đại hội diễn ra cách tốt đẹp và bình an.
Nay Đại hội đã kết thúc, qua Thư Chung này, chúng tôi muốn chia sẻ với anh chị
em những công việc đã làm trong Đại hội, cách riêng về sứ vụ Tân
Phúc-Âm-hoá.
1. Bước vào Đại hội trong khung
cảnh Năm Đức Tin, chúng tôi vui mừng được
nghe biết về những hoa trái thiêng liêng nơi các tín hữu cũng như các cộng đoàn
giáo xứ, giáo phận, dòng tu, đã tích cực học hỏi và nỗ lực canh tân đời sống
đức tin. Các cuộc cử hành phụng vụ và sinh hoạt mục vụ đã giúp cho đức tin của
mỗi người được thanh luyện, củng cố và đổi mới. Đồng thời, khi nghe biết về
những khó khăn và thử thách mà một số cộng đoàn phải đối diện, chúng tôi hiểu
rằng sống đức tin luôn luôn là một thách đố, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào,
người môn đệ Chúa Giêsu vẫn được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng yêu thương của
Chúa, trở thành chất xúc tác cho việc xây dựng nền văn minh tình thương và văn
hóa sự sống.
Ngoài ra, chúng tôi cũng lắng nghe và góp
ý cho nhau về nhiều sinh hoạt và công việc của Hội Thánh tại Việt Nam , cách
riêng là công trình xây dựng Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang. Đại hội cũng
dành nhiều thời giờ cho việc bầu chọn Ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục cũng
như các chủ tịch của các Ủy ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục trong nhiệm kỳ mới.
2. Giờ đây chúng tôi muốn chia
sẻ với anh chị em về định hướng và chương trình mục vụ trong những năm tới.
Trong ba năm qua (2010-2013), tất cả chúng ta đã cùng nhau học hỏi và sống ý
nghĩa Giáo Hội: mầu nhiệm – hiệp
thông – sứ vụ. Định hướng đó và tinh thần
của Năm Đức Tin cần được tiếp nối bằng nỗ lực “Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin
Kitô giáo”, cũng là chủ đề của Thượng
Hội Đồng Giám Mục lần thứ XIII, diễn ra tại Rôma, từ ngày 7 – 28 tháng 10 năm
2012. Thật vậy, ánh sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên khuôn mặt các Kitô hữu và ánh
sáng ấy phải lan đến những người khác, giống như từ ngọn nến phục sinh, vô vàn
những ngọn nến khác được thắp lên trong Đêm Vọng Phục Sinh.[3]. Ngoài ra, chúng ta còn được
nhắc nhở cách riêng về sứ mệnh đó trong năm nay, khi Hội Thánh tại Việt Nam kỷ
niệm 25 năm tuyên phong 117 chứng nhân đức tin (19.06.1988 – 19.06.2013), là
những hoa trái thánh thiện của công cuộc phúc-âm-hóa.
3. Mục tiêu của phúc-âm-hóa là dẫn mọi người vào
cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần, nhờ đó gặp gỡ Thiên
Chúa Cha của Người, cũng là Cha của chúng ta, và để đời sống mình được biến đổi
theo tinh thần Phúc Âm. Như thế, trước hết chính bản thân chúng ta phải được
phúc-âm-hóa, phải củng cố và làm mới lại đức tin của mình, rồi mới có thể giúp
những anh chị em đã xa rời đức tin tái khám phá vẻ đẹp và ánh sáng đức tin.
Ngày nay, khi một số người chỉ còn là Kitô hữu trên danh nghĩa, chúng ta hãy
sống cho đúng với ơn gọi Kitô hữu của mình trong niềm vui, hãy chiếu tỏa sức
hấp dẫn của Tin Mừng cho những người chung quanh.
Phúc-âm-hóa là sứ vụ mang tính toàn diện,
vì “ánh sáng đức tin không chỉ soi chiếu đời sống nội bộ của Hội Thánh hoặc chỉ
để xây dựng thành đô vĩnh cửu trong thế giới mai sau, mà còn giúp chúng ta xây
dựng xã hội hiện nay nhằm hướng tới một tương lai hi vọng”.[4] Chính Chúa Giêsu dạy chúng ta hướng đi
này. Người đứng về phía những nạn nhân của các thảm họa và bất công. Người liên
đới với những ai bị xã hội loại bỏ. Liên đới và xót thương những nạn nhân và những
người bị gạt ra bên lề xã hội phải trở thành đòi hỏi thiết yếu trong sứ vụ
phúc-âm-hóa.[5]
4. “Tân Phúc-âm-hóa” không phải là rao giảng
một Phúc Âm mới vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như
vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8), nhưng là “mới về lòng nhiệt thành, mới trong
phương pháp, và mới trong cách diễn tả”.[6] Mới về lòng nhiệt thành là
làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, để mối tương
quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận
dụng những phương pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời
đại về nhiều mặt, văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là
cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay
có thể hiểu và lĩnh hội được sứ điệp Phúc Âm.
Công cuộc Tân Phúc-âm-hóa đòi duyệt lại
toàn bộ các sinh hoạt mục vụ ở tất cả mọi bình diện, nghĩa là phải thực hiện cuộc
hoán cải từ trong tâm thức đến định hướng và phương pháp khi làm mục vụ. Từ
kinh nghiệm của các nước đã có nhiều Kitô hữu bỏ đạo, nếu chúng ta không nhanh
chóng thực hiện cuộc hoán cải mục vụ này, thì trong tương lai không xa, Hội Thánh
tại Việt Nam cũng có thể rơi vào tình trạng băng giá của mùa đông đức tin như một
số nơi trên thế giới.
Chương trình canh tân đời
sống đức tin cần được lồng vào trong tổng thể của kế hoạch mục vụ mà Hội Đồng
Giám Mục trình bày trong Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “Cùng nhau bồi đắp nền văn
minh tình thương và sự sống”. Thư Chung ấy là chương
trình hành động của Hội Thánh tại Việt Nam trong nhiều năm. Dựa trên định hướng
căn bản này, chúng tôi mời gọi anh chị em hãy cùng với chúng tôi thực hiện kế
hoạch mục vụ kéo dài 3 năm (2014-2016):
– Năm 2014: Phúc-âm-hóa đời sống gia
đình;
– Năm 2015: Phúc-âm-hóa đời sống giáo xứ
và các cộng đoàn;
– Năm 2016: Phúc-âm-hóa đời sống xã hội.
5. Trong năm 2014 sắp tới, chúng ta hãy
cùng nhau phúc-âm-hóa đời sống gia đình và thúc đẩy gia đình tham gia tích cực
vào sứ vụ loan báo Tin Mừng. Hội Thánh được gọi là gia
đình của Thiên Chúa và mỗi gia đình Kitô hữu được gọi là Hội Thánh tại gia.
Việc canh tân Hội Thánh phải được bắt đầu từ mỗi gia đình, do đó, Hội Thánh đặc
biệt quan tâm đến các gia đình. Cách cụ thể, mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã
loan báo triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục khóa ngoại lệ vào tháng 10 năm 2014
về “Những thách đố mục vụ đối với gia đình trong bối cảnh Phúc-âm-hoá”. Thư Chung Hậu Đại Hội Dân
Chúa 2010 cũng nhấn mạnh: “Trước
cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay, Hội Thánh nhận thấy cần phải tăng cường và
canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạtđộng quan trọng, nối
kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận”.[7]
6. Để thực hiện những mục tiêu trên,
xin anh chị em hãy xây dựng gia đình mình thành một cộng đoàn cầu nguyện,
sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin
Mừng.
– Gia đình là cộng đoàn cầu
nguyện, thờ phượng Thiên Chúa, đền thờ tại gia. Hiệp thông trong kinh
nguyện vừa là hoa trái vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông bắt nguồn từ bí tích
Rửa Tội và Hôn Phối. Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình khi vợ chồng, cha mẹ,
con cái cùng cầu nguyện, và khi đó, chính cuộc sống gia đình trở thành lời kinh
sống động. Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện. Tuy nhiên
đây là đòi hỏi quan trọng trong đời sống gia đình công giáo. Vì thế, cùng với
việc siêng năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích, chúng tôi tha thiết
xin anh chị em duy trì giờ kinh chung trong gia đình, và cố gắng đưa Lời Chúa
vào giờ kinh này.
– Gia
đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy
chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ
và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của
Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo
hành, “hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu
đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
– Gia đình là cộng đoàn phục vụ
sự sống, được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa Hằng Sống. Vợ chồng Kitô hữu
yêu thương nhau bằng một tình yêu mở ra với sự sống, tôn trọng sự sống ngay từ lúc
thụ thai, cộng tác với Thiên Chúa Tạo Hóa qua việc sinh con có trách nhiệm,
giáo dục con cái nên người tốt và nên con cái Chúa. Gia đình phải là ngôi
trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự
sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái
xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là
những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của
mình.
– Gia đình là cộng đoàn tham
gia vào sứ vụ phúc-âm-hóa, bằng lời cầu nguyện cũng như bằng hành động cụ
thể. Chính đời sống yêu thương hiệp nhất trong gia đình công giáo, ngay giữa
những khó khăn và thử thách của cuộc đời, tự nó đã là lời chứng âm thầm nhưng
có sức thuyết phục của Tin Mừng. Ngoài ra, theo truyền thống tốt đẹp, gia đình
công giáo còn là nơi vun trồng ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đồng thời, khi có thể,
xin anh chị em hãy mạnh dạn chia sẻ và giới thiệu Đức Kitô cho người khác.
7. Để đồng hành với các
gia đình trong sứ mệnh cao cả nói trên, chúng tôi đề nghị một số việc mục vụ
sau:
Việc chuẩn bị cho
giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân và gia đình là đòi hỏi
khẩn thiết hơn bao giờ hết. Các bạn trẻ cần ý thức và sống đời hôn nhân như một
ơn gọi và sứ mệnh cao quý, được chọn lựa với ý thức, tự do và trách nhiệm. Đôi
bạn Kitô hữu còn được mời gọi sống bí tích Hôn Phối như dấu chỉ hữu hình và hữu
hiệu của tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh, một tình yêu phong nhiêu, duy
nhất và bất khả phân ly. Để được như thế, cần có sự chuẩn bị xa, chuẩn bị gần,
và chuẩn bị trực tiếp cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân.
Trong bối cảnh có nhiều biến động về văn
hóa-xã hội ngày nay, chúng tôi thiết nghĩ cần phải nhắc lại chân lý này: định
chế gia đình đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người
nữ. Định chế này dựa trên bản tính con người, do chính Thiên Chúa thiết
lập, hướng đến thiện ích của chính gia đình và xã hội; vì thế, mọi cá nhân và
tập thể xã hội cần nhìn nhận và tôn trọng định chế này.
Đồng hành với các gia đình trẻ ngày nay là yêu cầu mục vụ quan
trọng, để giúp họ sống tình yêu vợ chồng với tinh thần trách nhiệm, phục vụ sự
sống, biết hòa hợp tình thương trong tổ ấm gia đình với trách nhiệm xây dựng
Hội Thánh, xã hội và đất nước.
Với những anh chị em
đang gặp khó khăn vì hôn nhân đổ vỡ và gia đình ly tán, một
đàng chúng ta vẫn phải nêu cao lý tưởng đời sống hôn nhân công giáo, đàng khác
phải đồng hành và nâng đỡ họ, thay vì bày tỏ thái độ lên án và loại trừ.
Hiện nay, có nhiều nhóm, hiệp
hội, phong trào tu đức và tông đồ đang dấn thân chăm lo mục vụ gia
đình theo những cách thế và mức độ khác nhau. Những phong trào này cần được các
mục tử đồng hành và hướng dẫn, nâng đỡ và khích lệ, để họ góp phần cách cụ thể
và hài hòa với chương trình mục vụ chung trong mỗi giáo xứ, giáo phận.
Các giáo phận nên
quan tâm đến việc đào tạo giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân chuyên trách mục vụ
gia đình. Những người này sẽ cộng tác với các giám mục giáo phận trong việc
xây dựng và triển khai những chương trình mục vụ gia đình trong giáo phận cũng
như giáo xứ. Chúng tôi cũng muốn gửi lời kêu gọi đặc biệt đến anh chị em văn
nghệ sĩ và giới truyền thông công giáo. Ước mong anh chị em vận dụng tài năng
Thiên Chúa ban, để tôn vinh vẻ đẹp đích thực của tình yêu hôn nhân và gia đình.
Các linh mục tương lai cũng cần được chuẩn bị chu đáo hơn về mục vụ gia đình,
để có thể đồng hành với các gia đình cách hữu hiệu.
Anh chị em thân mến,
Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ với anh chị
em những thao thức mục vụ cũng như những đề nghị cụ thể, nhằm góp phần vào nỗ lực
“Tân Phúc-âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”. Ước mong những đề nghị này
được anh chị em - cách riêng, các linh mục là những cộng tác viên gần gũi của
hàng giám mục - đón nhận để cầu nguyện, suy nghĩ, khai triển và thực hiện ở nhiều
cấp độ: gia đình, giáo xứ, giáo phận. Hướng về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những
tấm gương sáng ngời trong sứ mệnh phúc-âm-hóa, chúng ta hãy thân thưa với các
ngài:
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là con thảo
của Cha trên trời, là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô, là thành phần trung
kiên của Hội Thánh, xin giúp chúng con biết trân trọng di sản đức tin mà các
ngài đã truyền lại cho chúng con bằng máu và nước mắt. Xin cho chúng con mạnh dạn
sống đức tin trong gia đình cũng như xã hội, theo tấm gương xán lạn của Thánh
Gia Thất, để chiếu tỏa ánh sáng đức tin khắp nơi nơi; nhờ đó chúng con có thể
tích cực góp phần thi hành sứ mệnh truyền giáo, đem lại hoa quả dồi dào trên
quê hương Việt Nam thân yêu.
Làm tại Trung tâm Mục
vụ Sài Gòn, ngày 10-10-2013
+
Cosma Hoàng Văn Đạt + Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Giám
mục Bắc Ninh Tổng giám mục Hà Nội
Tổng
thư ký HĐGM.VN Chủ tịch HĐGM.VN
(đã ký)
(đã ký)
Tháng Mười 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên
bố sẽ triệu tập một Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về Gia Đình trong các ngày 5-18
tháng Mười, năm 2014 với chủ đề “Các Thách Đố Mục Vụ Của Gia Đình Trong Bối Cảnh
Tân Phúc Âm Hóa”.
Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, một buổi họp
báo đã được tổ chức tại Phòng Báo Chí của Tòa Thánh. Trong buổi họp báo này, Đức
TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng, cho hay: để chuẩn bị
cho Thượng Hội Đồng vào năm tới, cuộc họp lần thứ năm của Hội Đồng Thượng Hội Đồng
Thường Lệ đã diễn ra trong các ngày 7-8 tháng Mười vừa qua để đưa ra Tài Liệu
Chuẩn Bị. Tài liệu này bao gồm một trình bày tổng quát về chủ đề, các trích dẫn
thánh kinh và huấn quyền về chủ đề, và một bản câu hỏi về các thách đố chính của
gia đình hiện đại. Sau đây là nguyên văn Tài Liệu Chuẩn Bị.
I. Thượng Hội Đồng: Gia đình và việc phúc
âm hóa
Sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật,
được Chúa trực tiếp ủy thác cho các môn đệ của Người, vẫn tiếp diễn trong Giáo
Hội trong suốt giòng lịch sử. Cuộc khủng hoảng xã hội và tâm linh, hết sức hiển
nhiên trong thế giới ngày nay, đang trở thành một thách đố mục vụ trong sứ mệnh
phúc âm hóa của Giáo Hội liên quan tới gia đình, vốn là viên đá sinh tử xây dựng
nên xã hội và cộng đồng Giáo Hội. Trước đây, chưa bao giờ việc công bố Tin Mừng
về gia đình trong bối cảnh này đã khẩn trương và cần thiết hơn. Sự quan trọng của
chủ đề này được phản ảnh trong sự kiện Đức Thánh Cha đã quyết định triệu tập một
Thượng Hội Đồng Giám Mục; Thượng Hội Đồng này sẽ là một hành trình gồm hai giai
đoạn: đầu tiên, một Phiên Khoáng Đại Đặc Biệt trong năm 2014, nhằm xác định
“status quaestionis” (tình huống của vấn đề) và thu lượm kinh nghiệm và đề nghị
của các giám mục trong việc công bố và sống thực Tin Mừng Gia Đình một cách khả
tín; thứ hai, một Phiên Khoáng Đại Thường Lệ trong năm 2015 nhằm đưa ra các chỉ
dẫn có thể áp dụng được trong lãnh vực chăm sóc mục vụ cho các con người và gia
đình.
Các lo âu chưa từng nghe thấy cho tới những
năm gần đây nay đã xuất hiện do hậu quả của nhiều tình huống khác nhau, từ tập tục
sống chung khá phổ biến mà không dẫn tới hôn nhân, đôi khi còn loại bỏ cả ý niệm
hôn nhân nữa, cho tới các cuộc kết hợp đồng tính giữa những người thường được
phép nhận con nuôi. Các tình huống mới đòi Giáo Hội phải chú tâm và chăm sóc mục
vụ là những tình huống này: các cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo; gia đình có
cha hoặc mẹ đơn lẻ; đa thê; hôn nhân với vấn đề hồi môn sau đó, một hồi môn đôi
khi bị hiểu như giá mua người đàn bà; hệ thống đẳng cấp (caste); văn hóa phi
cam kết và giả thiết rằng dây hôn phối chỉ có tính tạm thời; các hình thức duy
nữ phản Giáo Hội; di dân và việc tái lên công thức đối với chính ý niệm gia
đình; chủ nghĩa đa nguyên duy tương đối trong quan niệm về hôn nhân; ảnh hưởng
truyền thông đối với nền văn hóa bình dân trong cái hiểu về hôn nhân và đời sống
gia đình; các khuynh hướng tiềm ẩn về tư duy trong các đề xuất luật pháp nhằm hạ
giá ý niệm vĩnh viễn và lòng trung thành của giao ước hôn nhân; gia tăng tập tục
làm mẹ mướn (surrogate motherhood, cho thuê dạ con); và các giải thích mới lạ về
điều được coi là nhân quyền. Bên trong Giáo Hội, có nhiều dấu hiệu cho thấy đức
tin vào tính bí tích của hôn nhân và sức mạnh hàn gắn của Bí Tích Sám Hối càng
ngày càng yếu đi hoặc hoàn toàn bị loại bỏ.
Thành thử, ta hiểu được tính khẩn trương
của việc mời gọi hàng giám mục thế giới họp “cum et sub Petro” (cùng với và dưới
quyền Phêrô) để bàn thảo các thách đố này. Thí dụ, chỉ cần nghĩ tới sự kiện: do
tình huống hiện nay, rất nhiều trẻ em và người trẻ sẽ không bao giờ được thấy
cha mẹ chúng lãnh nhận các bí tích, là đủ để ta hiểu các thách đố đối với việc
phúc âm hóa do tình huống hiện nay tạo ra khẩn trương như thế nào; ta có thể nhận
thấy những thách đố này ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Song hành với thực trạng
này, ta thấy đại đa số hiện nay chấp nhận giáo huấn lòng thương xót Chúa và sự
quan tâm đối với người đau khổ, đang đứng bền lề xã hội, cả theo nghĩa địa dư lẫn
nghĩa hiện sinh. Thành thử, đại đa số đang mong chờ các quyết định mục vụ sẽ được
đưa ra liên quan tới gia đình. Ngoài tính cần thiết và khẩn trương ra, sự suy
tư về các vấn đề này của Thượng Hội Đồng Giám Mục còn được coi như một bổn phận
đức bác ái đối với những ai được trao phó cho các giám mục coi sóc và đối với
toàn thể gia đình nhân loại.
II. Giáo Hội và Tin Mừng Gia Đình
Tin vui tình thương Thiên Chúa phải được
công bố cho mọi người đang đích thân sống kinh nghiệm nhân bản nền tảng là lứa
đôi và hiệp thông dẫn tới hồng ân con cái, tức cộng đồng gia đình. Các giáo huấn
đức tin về gia đình phải được trình bày theo cách truyền thông và hữu hiệu, để
chúng tới được các tâm hồn và biến đổi chúng theo thánh ý Thiên Chúa, một thánh
ý vốn được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu Kitô.
Về các nguồn Thánh Kinh liên quan tới hôn
nhân và gia đình, tài liệu này chỉ trích dẫn các tham chiếu chủ yếu. Điều này
cũng đúng đối với việc trích dẫn Huấn Quyền: chỉ trích dẫn các điều có tính phổ
quát, trong đó có thêm một số bản văn của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình. Các
giám mục tham dự Thượng Hội Đồng được tự do trích dẫn các tài liệu từ các hội đồng
giám mục của các ngài.
Ở mọi thời và trong nhiều nền văn hóa
khác nhau, không thiếu giáo huấn rõ ràng của các mục tử cũng như các chứng từ cụ
thể của tín hữu nam nữ, những người bất chấp các hoàn cảnh khác nhau vẫn luôn sống
Tin Mừng Gia Đình như một hồng phúc khôn sánh đối với đời họ và con cái họ. Cam
kết của Thượng Hội Đồng Đặc Biệt sắp tới được gợi hứng và nâng đỡ bởi ý muốn
thông truyền sứ điệp này một cách mạnh mẽ hơn, hy vọng rằng “kho tàng mạc khải,
vốn được ủy thác cho Giáo Hội, mỗi ngày mỗi tràn ngập tâm hồn từng người hơn”
(Dei Verbum, số 26).
Kế hoạch Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Đấng
Cứu Chuộc
Vẻ đẹp của sứ điệp Thánh Kinh về gia đình
bắt nguồn từ việc dựng nên người đàn ông và người đàn bà, cả hai giống hình ảnh
và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1,24-31; 2,4-25). Được liên kết với nhau bằng sợi
dây bí tích bất khả tiêu, những người kết hôn cảm nghiệm được cái đẹp của tình
yêu, tình cha, tình mẹ, và phẩm giá tối cao của việc nhờ cách này, được tham dự
vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Trong hồng ân hoa trái phát sinh từ cuộc
kết hợp của mình, họ đảm nhận trách nhiệm dưỡng nuôi và giáo dục những con người
khác cho tương lai nhân loại. Nhờ việc sinh sản, người đàn ông và người đàn bà
chu toàn trong đức tin ơn gọi trở thành người cộng tác của Thiên Chúa trong việc
bảo vệ công trình sáng tạo và phát triển gia đình nhân loại.
Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II nhận định về khía cạnh này trong Familiaris consortio như sau: “Thiên Chúa
tạo dựng con người giống hình ảnh và họa ảnh Người (xem St 1,26-27), khi mời
gọi họ bước vào hiện hữu qua ngả yêu thương, Người cũng đồng thời kêu gọi họ
hướng về yêu thương. Thiên Chúa là yêu thương (xem 1Ga 4,8) và chính nơi Người,
Người vẫn sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương đầy tính bản vị. Khi tạo nên
nhân loại giống hình ảnh Người và liên tục duy trì họ hiện hữu, Thiên Chúa đã
ghi khắc nơi nhân tính người nam và người nữ ơn gọi, và do đó cả khả năng
và trách nhiệm, yêu thương và hiệp thông (Gaudium et spes, số 12). Do đó, yêu thương
là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi người” (Tông huấn Gia đình, số 11).
Kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, một kế
hoạch bị tội nguyên tổ gây trở ngại (xem St 3,1-24), đã tự vén mở qua dòng lịch
sử trong các biến cố của dân riêng cho tới tận thời viên mãn, lúc mà nhờ Con
Thiên Chúa nhập thể, không những ý muốn cứu vớt của Thiên Chúa mà cả ơn cứu chuộc
đem lại ơn thánh theo thánh ý ấy đều được xác nhận.
Con Thiên Chúa, Ngôi Lời thành xác phàm
(xem Ga 1,14) trong cung lòng Mẹ Đồng Trinh, đã sống và lớn lên trong gia đình
Nadarét và tham dự tiệc cưới tại Cana, nơi Người làm tăng tầm quan trọng của lễ
hội bằng “dấu lạ” đầu tiên (xem Ga 2,1-11). Trong hân hoan, Người hoan nghinh
việc tiếp rước Người trong gia đình các môn đệ Người (xem Mc 1,29-31; 2,13-17)
và an ủi gia đình bằng hữu của Người đang gặp tang chế tại Bêtania (xem Mc
10,38-42; Ga 11,1-44). Chúa Giêsu Kitô phục hồi vẻ đẹp của hôn nhân, vì một lần
nữa, Người đề xuất kế hoạch của Thiên Chúa từng bị bỏ ngang vì sự cứng lòng của
trái tim con người, ngay bên trong truyền thống dân Israel (xem Mt 5,31-32;
19,3-12; Mc 10,1-12; Lc 16,18). Trở về thời nguyên thủy, Chúa Giêsu dạy ta sự
đơn nhất và lòng trung thành của vợ chồng, bác bỏ tập quán đuổi vợ và ngoại
tình.
Chính qua vẻ đẹp phi thường của tình yêu
nhân bản, vốn được đề cao bằng âm sắc linh hứng trong Diễm Ca, và dây hôn phối
do các tiên tri như Hôsê (xem Hs 1,2; 3,3) và Malaki (xem Ml 2,13-16) kêu gọi
và bảo vệ, Chúa Giêsu đã xác quyết phẩm giá nguyên thủy của tình yêu hôn nhân
nơi người đàn ông và người đàn bà.
Giáo huấn của Giáo Hội về gia đình
Ngay trong cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi,
gia đình đã xuất hiện như một “Giáo Hội tại gia” rồi (xem Sách Giáo Lý Của Giáo
Hội Công Giáo, số 1655): Trong các điều gọi là “qui luật về gia đình” (family
canons) của các thư Tân Ước, gia đình trong thế giới cổ thời được nhận diện như
là nơi diễn ra sự liên đới sâu sắc giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái, và
giữa người giầu và người nghèo (xem Ep 5,21-6:9; Cl 3,18-4,1; 1Tm 2,8-15; Tt
2,1-10; 1Pr 2,13-3,7; xem thêm Thư Philêmôn). Cách riêng, thư Êphêsô nhìn nhận
tình yêu phu thê giữa một người nam và một người nữ là “một mầu nhiệm lớn”, vì
đã biến tình yêu của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người thành hiện thực (xem
Ep 5,31-32).
Trong nhiều thế kỷ, nhất là
từ thời cận đại cho tới nay, Giáo Hội đã đưa ra một giáo huấn liên tục và tiệm
tiến về gia đình và hôn nhân là định chế vốn làm nền cho nó. Một trong các phát
biểu đáng lưu ý nhất đã được Công Đồng Vatican II đề xuất trong Hiến Chế Mục Vụ
Gaudium et spes; hiến chế này, khi bàn tới
một số vấn đề khẩn trương, đã dành trọn một chương để cổ vũ phẩm giá hôn nhân
và gia đình, như được thấy trong đoạn mô tả các giá trị của chúng đối với việc
tạo lập xã hội: “gia đình, nơi gặp gỡ của nhiều thế hệ giúp nhau đạt được sự
khôn ngoan sâu rộng hơn và hoà hợp được các quyền lợi bản thân với các đòi hỏi
khác của đời sống xã hội, đã tạo nên nền tảng cho xã hội” (GS, số 52).
Điều đặc biệt đáng lưu ý là lời kêu gọi của
nó đối với một nền linh đạo lấy Chúa Kitô làm trung tâm sinh hoạt đức tin của vợ
chồng: “Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa hằng sống và thừa hưởng phẩm
giá nhân vị chân chính, vợ chồng hãy kết hợp với nhau trong cùng một tình âu yếm,
trong cùng một tư duy và trong cùng một sự thánh thiện hỗ tương, ngõ hầu, theo
gương Chúa Kitô, Đấng vốn là nguyên lý của sự sống, vợ chồng có thể nhờ các hân
hoan và hy sinh trong ơn gọi của mình, nhờ lòng trung tín trong tình yêu của
mình, mà trở nên các chứng nhân của mầu nhiệm yêu thương mà Chúa đã tỏ lộ cho
thế giới qua cái chết và sự sống lại của Người” (GS, số 52).
Sau Công Đồng Vatican II, các
vị kế nhiệm Thánh Phêrô cũng đã dùng huấn quyền của các ngài mà phong phú hóa
giáo huấn về hôn nhân và gia đình, nhất là Đức GH Phaolô VI với thông
điệp Humanae vitae, là thông điệp đưa ra các
giáo huấn chuyên biệt cả về nguyên tắc lẫn hướng dẫn. Sau đó, trong Tông
Huấn Familiaris consortio, Đức GH Gioan Phaolô II muốn
nhấn mạnh tới việc đề xuất kế hoạch Thiên Chúa nhân nói tới các sự thật về
nguồn gốc tình yêu vợ chồng và nguồn gốc gia đình: “ ‘Nơi’ duy nhất làm cho việc
tự hiến theo nghĩa thật sự trọn vẹn này trở thành khả hữu chính là hôn nhân,
tức giao ước tình yêu hay sự lựa chọn có ý thức và tự do qua đó, người đàn ông
và người đàn bà chấp nhận cộng đồng sự sống và tình yêu đầy thân ái, vốn được
chính Thiên Chúa mong muốn” (xem GS, số 48), một cộng đồng chỉ biểu lộ được ý
nghĩa chân thực của nó dưới ánh sáng này mà thôi. Định chế hôn nhân không phải
là một can thiệp không nên có của xã hội hay của một thẩm quyền nào đó, cũng
không phải là việc áp đặt một hình thức ngoại tại nào. Đúng hơn, nó là một đòi
hỏi nội tại của giao ước yêu thương phu phụ, một giao ước được công khai xác
nhận là duy nhất và độc chiếm, để hai bên sống tuyệt đối trung thành với nhau
theo kế hoạch của Thiên Chúa Hóa Công. Tự do bản vị, thay vì bị lòng trung
thành này giới hạn, thực ra đã được che chở khỏi mọi hình thức duy chủ quan hay
duy tương đối, để trở thành người tham dự vào Sự Khôn Ngoan sáng thế” (Tông huấn Gia đình 11).
Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo đã
gom lại một nơi các khía cạnh căn bản của giáo huấn này: “Giao ước hôn nhân,
qua đó, một người đàn ông và một người đàn bà thành lập với nhau một cộng đồng
thân mật sống và yêu thương nhau, đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và ban cho
những luật lệ riêng biệt. Do chính bản chất của nó, giao ước này được sắp đặt
cho thiện ích của vợ chồng, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Chúa
Kitô đã nâng hôn nhân giữa những người đã rửa tội lên hàng một bí tích” [xem
Công Đồng Vatican II, Gaudium et spes, số 48; Bộ Giáo Luật,
số 1055,1]” (Sách GLCGHCG, 1660).
Học thuyết trình bày trong Sách Giáo Lý
này xem xét cả các nguyên tắc thần học lẫn các tác phong luân lý, được khai triển
dưới hai đầu đề riêng biệt: Bí Tích Hôn Nhân (các số 1601-1658) và Điều Răn Thứ
Sáu (các số 2331-2391). Đọc cẩn thận các phần này của Sách Giáo Lý, ta sẽ có được
một cách hiểu cập nhật về học thuyết của đức tin, để hỗ trợ hành động của Giáo
Hội trước các thách đố hiện nay. Nguyên tắc mục vụ của Giáo Hội được gợi hứng từ
sự thật về hôn nhân, một sự thật được xem sét dưới ánh sáng kế sách Thiên Chúa,
Đấng đã tạo nên người đàn ông và người đàn bà, và là Đấng, vào thời viên mãn,
đã mạc khải nơi Chúa Giêsu tính tròn đầy của tình yêu vợ chồng, lúc được nâng
lên hàng bí tích. Đặt cơ cở trên sự ưng thuận, hôn nhân Kitô Giáo cũng được ban
cho nhiều hiệu quả như thiện ích và bổn phận vợ chồng. Nhưng, hôn nhân không được
miễn nhiễm khỏi hậu quả tội lỗi (Xem St 3,1-24), một việc có thể gây ra những vết
thương sâu xa, thậm chí còn hạ thấp cả phẩm giá của bí tích nữa.
Thông điệp mới đây của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô, tựa là Lumen Fidei (ánh sáng đức tin - LF) có đề cập
tới gia đình trong bối cảnh một suy tư về việc đức tin cho ta biết “các sợi dây
nối kết người ta lại với nhau bền vững ra sao khi Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ”
(LF, số 50). “Khung cảnh đầu tiên trong đó đức tin soi sáng cho kinh thành con
người là gia đình. Tôi nghĩ trước hết và đầu hết tới sự kết hợp bền vững giữa một
người đàn ông và một người đàn bà trong hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh từ
tình yêu của họ, như là dấu chỉ và là sự hiện diện của chính tình yêu Thiên
Chúa, và phát sinh từ việc nhìn nhận và chấp nhận sự tốt lành của dị biệt hóa
giới tính, nhờ đó, các người phối ngẫu có thể trở nên một thân xác (xem St
2,24), và có khả năng sinh ra một sự sống mới, vốn là điều nói lên sự tốt lành,
khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Hóa Công. Đặt cơ sở trên tình yêu
này, người đàn ông và người đàn bà có thể thề hứa yêu thương nhau trong một cử
chỉ vận dụng được trọn cả đời họ và phản ảnh được nhiều đặc điểm của đức tin.
Thề hứa yêu thương nhau mãi mãi chỉ có thể có khi ta nhận thức được một kế hoạch
lớn hơn chính các dự án của ta, một kế hoạch nâng đỡ ta và giúp ta khả năng
trao phó trọn tương lai ta cho người ta yêu” (LF, số 52). “Đức tin không phải
là nơi trú ẩn của những người nhát gan, nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó
làm ta ý thức được tiếng gọi kỳ diệu, tức lời mời gọi của tình yêu. Nó bảo đảm
với ta rằng tình yêu này đáng tin tưởng và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên
lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn sự yếu đuối của
ta” (LF, số 53).
“Theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng
đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình, vì chính định chế hôn nhân và tình yêu vợ
chồng đều quy hướng về việc truyền sinh và giáo dục con cái, làm nên triều
thiên cho định chế và tình yêu ấy.
Trong thực tế sâu xa nhất của nó, tình yêu
vốn cốt yếu là ơn huệ. Và tình yêu vợ chồng, khi đưa đôi bạn đến chỗ “biết”
nhau làm cho họ trở thành “một xác thịt”, nó không chấm dứt nơi hai người nhưng
nó làm cho họ có khả năng thực hiện được việc trao hiến lớn lao nhất, nhờ đó họ
trở nên những người cộng tác với Thiên Chúa để thông ban sự sống cho một nhân
vị khác. Vì thế khi hai vợ chồng trao hiến cho nhau thì cũng trao ban một hữu
thể thực hữu vượt khỏi họ, tức là đứa con. Nó là dấu chỉ thường xuyên của sự
hiệp nhất vợ chồng và là tổng hợp sống động, không thể phân chia của tư cách
làm cha làm mẹ của họ.” (Tông Huấn Gia Đình, số 14)
Người
xưa nói: “Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn trong nôi.” Ngày nay
người ta còn nhấn mạnh: “Dạy con từ thuở con còn trong thai”. Sự giáo dục này
được gọi là thai giáo.
Ngay khi còn trong bào thai, em bé đã có thể tiếp nhận sự giáo
dục của cha mẹ. Cuộc sống gia đình, sức khoẻ và tâm trạng người mẹ lúc ấy có
ảnh hưởng rất lớn trên em bé, cả về sự phát triển thể chất và tâm thần đang
lặng lẽ hình thành.
Các
tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính đứa con
sắp chào đời. Do đó những bậc cha mẹ thương con sẽ hết sức lưu ý để sống thật
lành mạnh về luân lý và tâm linh. Trong thời gian cưu mang, người mẹ cần tĩnh
dưỡng, suy nghĩ về ơn gọi làm mẹ; cần có thái độ bình tĩnh, vui thích đợi chờ.
Nên chiêm ngắm những hình ảnh tươi đẹp thánh thiện, chọn nghe nhạc êm dịu trong
sáng, nghe và hát thánh ca, cầu nguyện trong tâm tình tin cậy phó thác. Dù con
còn trong dạ, người mẹ cũng có thể vuốt ve và nói với con những lời ˆâu yếm dịu
dàng. Người cha cần biết tạo điều kiện bên ngoài cho êm ấm để người mẹ luôn
được an vui hạnh phúc.
Đừng
đặt tên cho con cái cách tuỳ tiện. Hãy làm tuần chín ngày kính Đức Chúa Thánh
Thần để biết Thiên Chúa muốn gì trên cháu bé và xin Ngài soi sáng để chọn cho
cháu một tên gọi gói ghém được ước mơ của cha mẹ và cả của Thiên Chúa trên cuộc
đời cháu. Hãy suy nghĩ để sớm chọn người đỡ đầu rửa tội cho cháu. Tốt nhất là
chọn trong vòng thân hữu những gia đình cùng một chí hướng giáo dục.
Thời
gian mang thai là thời gian khẳng định hướng đi căn bản cho cuộc đời cháu bé.
Với anh chị em là những Kitô hữu, đó phải là hướng đi căn bản của người con cái
Chúa. Chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng nên chúng ta chính là để chúng
ta được hiệp nhất yêu thương với Ngài trong hạnh phúc đời đời. Mọi sự Thiên
Chúa ban cho ta ở đời này đều nhằm giúp ta đạt tới mục tiêu cuối cùng ấy. Do
đó, trong mọi sự, ta luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa và cho sự hiệp nhất với
Ngài. Hễ điều gì còn giúp ta gần gũi Thiên Chúa thì ta đón nhận, một khi nó bắt
đầu ngăn cản ta gần gũi Thiên Chúa, ta sẽ loại trừ ngay.
Cha
mẹ thế nào, con cái thế ấy. Anh chị em muốn đào tạo con cái mình nên người thế
nào, thì cứ cố gắng sống như thế ấy. Gương sáng của anh chị em sẽ khuôn đúc nên
con cái của anh chị em.
Sau
cùng, hãy đến với Đức Mẹ. Khi bà Êlizabét đang mang thai thì Mẹ Maria đến thăm.
Đứa bé trong lòng bà đã nhảy mừng. Khi nó sinh ra, láng giềng kinh ngạc bảo
nhau: “Con trẻ này rồi sẽ ra thế nào, vì có tay Chúa ở với nó” (Lc 1,66). Thánh
Gioan Bosco nói: “Muốn cho trẻ nên người, hãy đưa chúng đến với Đức Mẹ”. Hãy
đưa con cái đến với Mẹ Maria ngay khi chúng còn là bào thai trong lòng mẹ.
“Khi trở nên cha mẹ, đôi bạn cũng lãnh nhận nơi Thiên Chúa
một quà tặng, đó là một trách nhiệm mới. Cha mẹ được mời gọi để biến tình
thương con cái thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được chính tình yêu của
Thiên Chúa, “là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời dưới đất” (Ep 3,15) (Tông Huấn Gia Đình, số 14).
Về việc giáo dục các cháu từ mới sinh đến 3
tuổi, ta cần lưu ý những điểm sau đây:
1.
Việc giáo dục của giai đoạn này tập trung nơi người mẹ: Đứa bé chưa phân biệt
nó với ngoại vật, chưa phân biệt nó với mẹ. Mẹ với nó là một. Mẹ là sự an toàn,
là sự dễ chịu cho nó. Thái độ tôn giáo của người mẹ trong giai đoạn này ảnh
hưởng rất sâu đậm trên đức tin sau này của đứa bé, chuẩn bị hoặc cản trở đức
tin của nó khi lớn. Vai trò của người cha lúc này là tạo sự thoải mái yên ấm
cho người mẹ. Phải đợi khi đứa bé được hai tuổi, người cha mới có thể ảnh hưởng
trực tiếp.
2.
Vun trồng lòng tin cậy đầu tiên: Người mẹ cần chăm sóc con với niềm vui và tình
thương chứ không như một bổn phận phải làm. Cần tỏ ra dịu dàng âu yếm, tránh
nóng nảy, lạnh lùng. Lúc cho ăn, cần giúp cho cháu bé được thoả mãn, thích thú,
không căng thẳng, sợ hãi.
3.
Khuôn mẫu đầu tiên của em bé là người mẹ: Em bé bắt chước mẹ. Nếu người mẹ vui
vẻ hài hoà với mọi người mọi vật và các biến chuyển của đời sống, sẽ tạo cho em
bé một dấu ấn tin cậy, lạc quan, bác ái, về sau em sẽ cởi mở với mọi người; còn
ngược lại, em sẽ bi quan, khép kín.
4.
Nhận biết tình thương có uy quyền: Tròn một tuổi, em bé khám phá ra rằng nó có
thể làm hài lòng hay làm mất lòng mẹ; nó phải hoà hợp với mọi người, nhất là
với mẹ. Nó tìm cách giữ được tình yêu thương của mẹ, vì đó là tất cả sự yên
nguy của nó. Tình yêu thương trong uy quyền làm cho em bé lớn lên trong lòng
trông cậy.
5. Kỷ
luật đầu tiên: Tình thương của người mẹ phải bao gồm một kỷ luật cần cho sự
giáo dục. Cần có giờ giấc và điều độ trong việc ăn, ngủ, đi vệ sinh. Không nên
thoả mãn hết mọi ao ước của đứa bé. Thiếu ý thức về những giới hạn cần thiết,
ta sẽ làm cho cháu trở thành đứa trẻ hay đòi hỏi, hỗn, không biết tự chủ, không
biết để ý tới người khác. Người mẹ cần thông minh và nghị lực để phát hiện
những đòi hỏi không chính đáng và không chiều theo những đòi hỏi ấy. Tuy nhiên,
kỷ luật này không được ngăn cản đứa bé bày tỏ những ước vọng chính đáng, khiến
nó cảm thấy cuộc sống khắt khe, không có cơ hội thành công. Những giới hạn quá
hẹp sẽ khiến đứa bé về sau trở thành loại người lớn dễ bất mãn hoặc hay nói
dối. Để có thể phát triển điều hoà, đứa bé cần thấy được nơi tình yêu người mẹ
những nét của tình yêu Thiên Chúa.
6.
Tập tiếp xúc: Đứa bé cần bắt chước mẹ nó để biết tiếp xúc, quan tâm tới người
khác, nhất là trong cách mẹ nó cư xử với anh chị nó và với những người khác
trong gia đình.
7.
Đào tạo luân lý: Những điều nói trên tạo cơ sở cho một lương tâm ngay thẳng. Đứa
bé sống luân lý bằng cách dự phần vào ý thức luân lý (lương tâm) của mẹ nó. Nó
thoả lòng khi mẹ vui, nó ân hận khi mẹ buồn. Nét mặt người mẹ có một ý nghĩa
đối với đứa bé. Cả tính khí và những tiếng dùng của người mẹ cũng vậy. Việc sửa
phạt được biểu lộ qua thân xác và tâm hồn bằng cái nhìn. Cái nhìn của người mẹ
đặc biệt có sức đưa dẫn đứa bé vào trật tự luân lý. Khi nó có lỗi, người mẹ cần
nhìn cách nào để cái nhìn ấy không phải là một sự từ chối yêu thương nhưng đúng
hơn là một sự đau khổ, buồn phiền, trách móc và mời gọi. Cái nhìn ấy sẽ giúp
đứa bé nhận ra sự trách móc của Thiên Chúa, khi phải xa “nụ cười” của Ngài.
8.
Đời sống tôn giáo và giáo lý: Trên đây đã là một sự đào tạo tôn giáo, nhưng vẫn
còn ở mức độ của giáo dục nhân bản. Ta còn cần đề cập rõ hơn: Trước hết, quan
trọng nhất là gương sáng: Cách sống của người lớn, cách xếp đặt mọi sự trong
nhà, thái độ của cha mẹ khi cầu nguyện, khi phản ứng trước những chuyện thường
ngày. Tiếp đến là một sự khai tâm gọi là “sữa đức tin”: Giới thiệu cho các cháu
biết Thiên Chúa ngay từ khi tập nói, và tập cho các cháu hướng về Thiên Chúa
qua những cử chỉ đơn giản nhất (vòng tay, cúi đầu) và những lời nguyện bập bẹ:
Con ạ Chúa, cám ơn Chúa cho con ăn cơm, cám ơn Chúa cho con đi ngủ, con cám ơn
Chúa con sẽ ngoan hơn...
“Trước
hết các đôi bạn Kitô hữu làm việc tông đồ trong chính gia đình mình, bằng một
đời sống đúng theo luật Chúa dưới mọi khía cạnh, bằng việc đào tạo về mặt giáo
lý Kitô giáo cho con cái, giúp chúng trưởng thành trong đức tin, giáo dục đức
khiết tịnh, chuẩn bị cho chúng vào đời, săn sóc để chúng tránh những nguy hiểm
về ý thức hệ và luân lý mà chúng đang bị đe dọa. Bên cạnh, giúp chúng hội nhập
vào cộng đồng Giáo Hội và cộng đồng dân sự cách tiệm tiến và có tinh thần trách
nhiệm; giúp đỡ và góp ý cho chúng trong khi chọn lựa ơn gọi.” (Tông Huấn Gia Đình, số 71)
Việc giáo dục các cháu 13, 14 tuổi trở
lên thật khó. Khi con cái còn bé tí xiú, chúng cần cha mẹ bảo trợ và âu yếm.
Nhưng sẽ tới một thời gian sớm hơn ta tưởng chúng đi tìm con người riêng trong
cách xử sự và cả trong vấn đề đạo giáo nữa. Thời kỳ ấy sẽ làm cho cả cha mẹ lẫn
con cái phải khổ tâm. Bậc cha mẹ sẽ biết xóa mình đi trước nhân cách của đứa
con đang lớn lên, và tìm cách giúp con cái đáp lại tiếng gọi của Chúa theo cách
của nó, chứ không rập theo cách của cha mẹ. Bậc cha mẹ nhớ rằng, dù không nói
ra, đứa con sẽ rất khâm phục cha mẹ, nếu họ sống đức tin với lòng xác tín, mà
không cưỡng ép chúng làm những việc đạo đức như họ. Ước gì các gia đình Kitô
giáo có được một bầu khí vừa che chở vừa cởi mở, trong đó, con cái cảm thấy
được tôn trọng và nhìn thấy nơi cha mẹ những tấm gương sáng về lòng tốt, lòng
chung thủy, tình thân mật, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm và cần cù làm
việc, tất cả phản ánh một đức tin sâu xa. Việc giáo dục ở tuổi này sẽ đỡ khó
khăn hơn nếu ta đã giúp cho các cháu biết cởi mở, tin cậy phụ huynh. Cần nhẫn
nại, dành thời giờ cho các cháu, trở thành người bạn của con mình.
Cần để ý xem con cái làm bạn với những
ai. Cần ngăn cản các cháu chơi với bạn xấu. Ngược lại, khuyến khích và tạo điều
kiện cho chúng chơi với bạn tốt. Thánh nữ Têrêxa Avila khi kể lại thời choai
choai của mình, đã viết: “Nếu tôi phải khuyên các bậc làm cha mẹ, tôi sẽ nài
xin họ hết sức lưu ý tới bạn bè của con cái trong lứa tuổi này. Đi lại với
những bạn bè xấu có thể đem lại những hậu quả thật đáng tiếc, vì tự bản chất,
chúng ta dễ bắt chước điều xấu hơn là điều tốt. Trường hợp tôi cũng thế. Tôi có
người chị lớn tuổi hơn nhiều, dẫu chị rất đoan trang và nhân đức, tôi đã chẳng
học đòi chị được điều gì. Trái lại, tôi bắt chước hết mọi cái xấu nơi một người
chị họ thường lui tới nhà tôi. Lối chuyện vãn của chị rất lẳng lơ đến nỗi mẹ
tôi, vì thấy chị có thể gây hại cho tôi, đã cố gắng hết sức để ngăn chị khỏi
đến nhà tôi, nhưng mẹ tôi đành bất lực, vì chị có rất nhiều lý do để tới.”
Kinh nghiệm của Thánh Gioan Boscô là đừng
la mắng trước đám đông nhưng nói riêng thật nhỏ nhẹ. Ngài cũng còn dạy: “Yêu
thương bạn trẻ thôi chưa đủ, còn phải làm sao để bạn trẻ cảm nhận được rằng chúng
ta yêu thương họ.”
Cần giúp các cháu biết phát huy tinh thần
trách nhiệm, biết tự lo tổ chức cuộc sống, biết tự sắp xếp các công việc của
mình và tự nguyện làm, không đợi nhắc bảo. Nhắc các cháu biết xin ơn Chúa Thánh
Thần soi sáng khi bắt đầu mỗi ngày cũng như trước mỗi việc làm và lời nói, biết
gắn bó yêu mến Chúa Giêsu và quyết bước theo con đường Ngài, biết dành ưu tiên
cho việc bổn phận, biết làm việc theo thời khoá biểu và điều hoà các bổn phận
khác nhau theo thứ tự ưu tiên. Nói chung, nếu các cháu biết chăm lo bổn phận
thì sẽ tránh được nhiều cạm bẫy ở đời và có thể sớm trưởng thành.
“Vì
là người truyền sự sống cho con cái, cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải
giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và
chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ
khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình
một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và
tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá
nhân và xã hội được dễ dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức
tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được”. (Tuyên ngôn
về việc Giáo dục Kitô giáo, số 3)
Không
gì gây tác dụng giáo dục hoặc phản giáo dục sâu đậm cho bằng những mẫu gương,
gương tốt hoặc gương xấu, mà trước hết và quan trọng nhất chính là mẫu gương
của cha mẹ.
Anh chị em muốn con mình sẽ ra sao thì ngay từ hôm nay
anh chị em hãy sống như thế đi. Những lời khuyên răn và dọa nạt sẽ chẳng ích gì
nếu các cháu thấy nhà giáo dục không sống những điều họ dạy. Nhiều lắm cũng chỉ
đủ sức ngăn cản chúng làm những điều ấy khi có mặt cha mẹ mà
thôi.
Nếu
anh chị em muốn con mình sẽ có tinh thần trách nhiệm, ngay từ hôm nay anh chị
em hãy làm việc siêng năng chăm chỉ. Muốn cho con luôn thành thật, anh chị em
đừng bao giờ nói dối, dù chỉ là dối đùa. Muốn con mình biết cư xử tế nhị, ngay
hôm nay anh chị em hãy biết tỏ ra kính trọng mọi người, kính trọng nhau và kính
trọng chính mình.
Tự
thắng mình, chỉnh đốn lại con người của mình, thật là khó. Đôi khi ta dễ có cám
dỗ nghĩ rằng mình đã lớn rồi, muộn rồi, làm sao sửa đổi được nữa! Không đâu,
vẫn còn kịp nếu ta bắt đầu từ hôm nay, ngay từ lúc này. Vì yêu mến những đứa
con sẽ sinh ra, vì yêu mến bạn mình, vì yêu mến chính mình và vì yêu mến
Thiên Chúa, anh chị em hãy bắt đầu thực
hiện cho con cái một cái mẫu để chúng bắt chước.
Anh
chị em cũng đừng quên chọn cho con cháu những người bạn tốt. Hãy kể cho các
cháu nghe, hãy giúp các cháu thán phục những tấm gương tốt, nếu có dịp, hãy cho
các cháu được tiếp xúc với những con người ấy. Rất nhiều danh nhân trong sách
vở cũng là những người bạn và gương mẫu, nhất
là những vị thánh. Nhiều người hình như sợ rằng nếu con mình nên thánh thì sẽ
bị mất nó… Nhiều người có cái suy nghĩ sai lầm rằng: các thánh là những vị xa
vời, con mình là gì mà dám vươn tới. Không đâu, mọi Kitô hữu đều được mời gọi
nên thánh và đều được Chúa ban đầy đủ ơn để nên thánh.
Có
những vị thánh mà gia đình anh chị em không thể không biết đến, như các vị bổn
mạng, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, thánh Giuse, Đức Mẹ Maria. Và nhất là
Đấng Thánh, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Chính Ngài mời gọi chúng ta
bắt chước Ngài: “Hãy học với Ta” (Mt 11,29); “Như Ta đã yêu thương các con, các
con cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34); “Ta đã nêu gương cho các con, ngõ hầu
như Ta đã làm cho các con thế nào, các con cũng làm như vậy” (Ga 13,15).
Sau
cùng, xin mời anh chị em lắng nghe lời nhắn nhủ của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô
II: “Vì cha mẹ đã sinh ra con cái nên quyền và bổn phận giáo dục là một điều
nằm trong yếu tính của họ; vì tương quan giữa họ với con cái là một tình yêu
thương không thể thay thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của họ có tính
cách độc đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục của những người khác, đó cũng
là một cái gì không thể thay thế và không thể chuyển nhượng được, cho nên cũng
không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác cưỡng đoạt” (Tông huấn
Gia đình 36).
“Dù phải
đương đầu với những khó khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn to lớn
trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha mẹ cần phải tin tưởng và can đảm
giáo dục con cái họ theo những giá trị chính yếu của đời người. Trẻ em phải lớn
lên trong một sự tự do chân chính trước các của cải vật chất, biết chọn một nếp
sống giản dị và khắc khổ, vì xác tín mạnh mẽ rằng: “giá trị của con người là do
cái mình là, hơn là do cái mình có” (Tông Huấn Gia Đình, số 37)
Làn sóng văn minh tiêu thụ tràn vào Việt
Nam ngày càng nhanh. Điều đáng sợ cho cộng đoàn Dân Chúa lúc này không phải là
sự cấm cách bắt bớ nhưng chính là sức hút của xã hội tục hoá. Để sống theo Tin
Mừng, người tín hữu phải lội ngược dòng đời. Ngay cả đối với những tín hữu
trưởng thành, tỉnh táo sáng suốt để nhận rõ và can đảm thực hiện đúng ý Chúa đã
là chuyện rất khó, huống nữa là bạn trẻ!
Văn minh tiêu thụ không chỉ ảnh hưởng
trên con em chúng ta mà ngay cả trên chính bản thân mỗi người chúng ta, khiến
tinh thần Tin Mừng nơi chúng ta có thể
phai nhạt lúc nào không hay. Cần có tinh thần đức tin sâu xa, ta mới có thể xác
tín chiều sâu của 8 mối phúc thật.
Những điều chân phúc trong Tin mừng sở dĩ
là hạnh phúc chính là vì nó tạo điều kiện cho con người đón nhận Thiên Chúa.
Sống các mối phúc chính là đặt mình vào tình trạng có thể cảm nhận được sự hiện
diện của Thiên Chúa, hay đúng hơn, có thể kết hợp với Thiên Chúa.
Không phải chỉ trong nhà thờ, nhưng ngay
trong gia đình, Thiên Chúa làm người đang ở với chúng ta. Nước Trời đang ở giữa
chúng ta, chỉ cần chúng ta biết mở rộng vòng tay đón nhận. Nghèo khó, phiền
sầu, đói khát sự công chính, giữ lòng trong sạch… chính là sẵn lòng buông bỏ
tất cả để có được Chúa làm gia nghiệp. Điều quan trọng là sự sẵn lòng. Cái
chúng ta tìm kiếm không phải là cái nghèo nhưng là sự tự do của một tấm lòng
không ham mê của cải. Nếu sống trong cảnh nghèo xác xơ mà lòng nặng trĩu sự ham
mê của cải thì vẫn chưa sẵn sàng để đón nhận Nước Thiên Chúa. Chính vì thế mà
thánh Mátthêu đã nhấn mạnh tới sự sẵn sàng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo
khó!”
Hạnh phúc Nước Trời là ở chỗ chúng ta
được thuộc về Thiên Chúa. Điều làm cho người Kitô hữu khác với những người khác
là, ngay trong những hoàn cảnh đen tối nhất, họ vẫn được tràn ngập hạnh phúc.
Đó là điều vẫn đang xảy ra hôm nay trong cuộc sống hằng ngày. Biết bao gia đình
Kitô hữu hôm nay đang sống tám mối phúc thật như thế… Trước mắt thế gian, chọn
bước theo Chúa Giêsu trên con đường Ngài quả là điên rồ, ngu xuẩn, nhưng đối với
những người được cứu chuộc thì đó lại là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên
Chúa (1Cr 1,18-25).
Chúng ta cần giúp các em xác tín mình
được gọi sống với Thiên Chúa, giúp các em khao khát trở nên người con tự do,
biết làm chủ bản thân và biết dùng mọi sự theo ý Cha trên trời. Muốn vậy, đừng
sợ gieo cho các em ý tưởng nên thánh và nên thánh lớn ngay giữa đời thường. Quý
phụ huynh cũng đừng sợ một cách sai lầm rằng nếu các em theo đường tâm linh là
mình mất con! Thành quả lớn nhất của giáo dục là đào tạo được con cái thành
những vị thánh.
“Trên căn
bản phẩm giá và sứ mạng của họ, các cha mẹ Kitô hữu có bổn phận đặc biệt phải
giáo dục cho con cái họ biết cầu nguyện, phải đưa chúng tới chỗ dần dần khám phá
ra mầu nhiệm Thiên Chúa và đối thoại riêng với Ngài: “Nhất là gia đình Kitô hữu
đã nhận được những ân sủng, và đòi hỏi phong phú của bí tích Hôn Phối, nên ở đó
ngay từ nhỏ, trẻ em phải được dạy dỗ để nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng
yêu mến tha nhân, theo như đức tin chúng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội” (Tông Huấn Gia Đình, số 60).
Gương sống cụ thể, chứng tá sống động của
cha mẹ, là yếu tố căn bản và không thể thay thế được trong việc giáo dục cầu
nguyện: chỉ khi nào cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái, chu toàn chức vụ tư tế
vương giả của họ, họ mới vào sâu được trong lòng con cái và để lại đó những dấu
vết mà các biến cố cuộc sống về sau sẽ không thể xóa nhòa được. Chúng ta hãy
nghe lại lời kêu gọi mà Đức Phao-lô VI đã ngỏ lời với cha mẹ: “Hỡi các bà mẹ,
chị em có dạy cho các con nhỏ của mình những lời kinh của người Kitô hữu không?
Chị em có cộng tác với các linh mục để chuẩn bị cho chúng lãnh nhận các bí tích
của thời niên thiếu: xưng tội, rước lễ, thêm sức không? Nếu chúng đau ốm, chị
em có tập cho chúng quen nghĩ tới những sự đau khổ của Đức Kitô, quen kêu cầu
sự giúp đỡ của Đức Mẹ Đồng Trinh và các thánh không? Chị em có lần hạt chung
với chúng ở gia đình không? Còn anh em hỡi những người cha, anh em có biết cầu
nguyện chung với con cái, với cộng đồng gia đình, ít là thỉnh thoảng không?
Gương sống của anh em qua sự ngay thẳng trong tư tưởng và hành động, được hỗ
trợ bằng ít nhiều kinh nguyện chung, quả là một bài học sống, một hành vi thờ
phượng đáng tuyên dương. Như thế anh em đang đem bình an vào trong tổ ấm gia
đình anh em: “Bình an cho nhà này”. Đừng quên rằng làm như thế là anh em đang
xây dựng Giáo Hội!”.
Để đào tạo tâm tình cầu nguyện, để giúp
các cháu nhớ có Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, mỗi nhà đều nên có một bàn
thờ sáng sủa, trình bày đơn giản để diễn tả đức tin thật chính xác. Bàn thờ tổ
tiên có thể đặt ngay dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có sự phân biệt rõ ràng, hoặc
có thể để ở gian khác, nên trình bày đơn giản, sáng sủa.
Bàn thờ cần giữ sạch sẽ, tuyệt đối không
để những vật dụng lặt vặt. Nên lau bàn thờ mỗi chiều thứ bảy hoặc sáng Chúa
nhật.
Điều cần thiết khi cầu nguyện là nhớ rằng
Thiên Chúa đang hiện diện. Ta ở đó để nghe Chúa nói và nói với Chúa. Muốn dễ
nhớ sự hiện diện của Thiên Chúa, khi cầu nguyện nên ăn mặc nghiêm chỉnh, thu
dọn đồ đạc trong phòng và trên bàn cho ngăn nắp.
Để khỏi rơi vào thói quen đọc kinh máy
móc, cần tránh kiểu đọc đều đều. Nên đọc chậm, ngắt câu rành rẽ, nghỉ lâu hơn.
Nếu được, nên dùng cung nói thay vì cung đọc.
Buổi tối, cần thu xếp cầu nguyện thật sớm
để tiện cho mọi người, nhất là để trẻ em có thể tỉnh táo. Tốt nhất là dăm phút
sau khi ăn tối xong. Sáng cũng như tối, giờ cầu nguyện cần được đặt lên hàng
đầu, trước khi làm mọi việc khác, để nếu cần xén bớt vài việc thì sẽ hy sinh
những việc khác chứ không bỏ mất giờ kinh.
“Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần
Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì
tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại
ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến
anh em không làm được điều anh em muốn. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái,
hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.
Không có luật nào chống lại những điều như thế. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí,
thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl
5,16t.22t.25)
Trong ngôn ngữ của con cái Chúa và trong
ơn Chúa, ta gọi là các nhân đức. Theo ngôn ngữ đời, ta có thể nói nôm na là những
thói quen tốt;
Kinh nghiệm cho ta thấy việc giáo dục cốt
ở chỗ giúp con em có được những thói quen tốt lành, về nhân bản cũng như về tâm
linh. Thói quen ngủ sớm dậy sớm, thói quen dâng ngày ban sáng, dâng mình ban
tối, tạ ơn trước và sau bữa ăn; thói quen làm tròn bổn phận; thói quen xin phép
cha mẹ, cởi mở bày tỏ với cha mẹ, mau mắn vâng lời, tỏ lòng biết ơn, nhận lỗi
và xin lỗi; thói quen ngăn nắp thứ tự… Nhìn vào các gia đình họ hàng và bạn hữu
cũng như chính gia đình mình, ta sẽ thấy ngay việc giáo dục của mỗi gia đình
thành công nhiều hay ít là tuỳ ở chỗ tập được cho con em nhiều hay ít thói quen
tốt. Dĩ nhiên, cha mẹ không thể dạy cho con cái những thói quen mà chính mình
không có… Do đó, muốn bảo đảm kết quả giáo dục cho con em, chính phụ huynh phải
kiểm điểm lại những thói quen hằng ngày của mình, những thói quen nho nhỏ, từ
bên ngoài, nơi lời nói và cử chỉ… những thói quen ấy tốt hay xấu?
Anh chị em đã quá rõ về tầm quan trọng
của những thói quen tốt trong việc giáo dục thiếu niên nhi đồng. Đây chính là
chỗ mà cha ông ta nói: Uốn cây từ thuở còn non, dạy con từ thuở con còn trong
nôi.
Cần theo dõi vở chép bài của các cháu để
giúp các cháu biết trình bày sáng sủa, rõ ràng, sạch đẹp. Giúp các cháu tập
viết đủ nét, liền nét, thuận nét, đều nét và trọn nét; biết viết các dấu giọng
rõ ràng và đúng quy cách. Đây là những chi tiết hết sức nhỏ nhưng có tác dụng
rất lớn trong việc hình thành nhân cách và cách ứng xử của các cháu.
Đang khi học cách chu toàn bổn phận, các
em sẽ gặt hái nhiều thói quen tốt. Các nhà giáo dục vẫn nói: “Bạn càng tập được
nhiều thói quen tốt càng hay, nếu không, những thói quen xấu sẽ làm hỏng đời
bạn”.
“Vì là
người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng
phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên
và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót
sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình
một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và
tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá
nhân và xã hội được dễ dàng. Do đó gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức
tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được” ( Tuyên
ngôn về giáo dục Ki-tô giáo, số 3)
.
Đạo lý Á Đông nhấn mạnh năm nhân đức căn
bản là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân là lòng yêu người, nghĩa là lòng biết
ơn, lễ là biết kính trọng người khác, trí là biết sáng suốt cân nhắc, tín là biết
giữ lời hứa.
Đạo lý phương Tây nhấn mạnh bốn nhân đức
căn bản là: Khôn ngoan, dũng cảm, công bình và tiết độ. Khôn ngoan là biết sáng
suốt cân nhắc, dũng cảm là biết cương quyết bước trên đường lành, công bình là
biết tôn trọng của cải và quyền lợi của người khác, tiết độ là biết giữ đúng
chừng mực.
Hai cụm nhân đức căn bản theo phương Đông
và phương Tây đều rất ưu việt nhưng thiếu chiều sâu Kitô giáo vì không tạo được
sự liên tục giữa tự nhiên và siêu nhiên. Chìa khoá mở được sự hài hoà giữa luân
lý tự nhiên và sự thánh thiện Kitô giáo là ba nhân đức căn bản rút từ bài giảng
trên núi, được nữ thánh Tiến Sĩ Têrêxa Avila trình bày trong quyển Đường Hoàn
Thiện: Khiêm nhường, từ bỏ và yêu thương, vừa tương ứng với ba nhân đức hướng
thần (Tin, Cậy, Mến), vừa tương ứng với ba lời khuyên Tin Mừng (Vâng phục,
Nghèo khó, Khiết tịnh).
Các nhân đức căn bản rất quan trọng, vì
chúng gói ghém các nhân đức tự nhiên khác và giúp vươn tới ba nhân đức hướng
thần là tin, cậy và kính mến.
Khiêm nhường là biết sống đơn sơ bé nhỏ.
Nhân đức này đặt nền móng cho lòng yêu người và giúp nhận biết Thiên Chúa để
thờ kính mến yêu.
Từ bỏ là biết thoát khỏi các thụ tạo để
hướng về Thiên Chúa. Nhân đức này giúp ta dễ thoát khỏi những ràng buộc của thụ
tạo để gắn bó với Thiên Chúa và trông cậy nơi Ngài.
Yêu thương là biết nghĩ đến mọi người.
Nhân đức này giúp ta đem lại hạnh phúc cho nhau và mở rộng lòng ta kính mến
Thiên Chúa.
Muốn hướng tới hoàn thiện, ta cần sống các
nhân đức căn bản theo Tin Mừng cho đến cùng, tức là theo đuổi tinh thần vâng
phục, nghèo khó và khiết tịnh.
“Vì thế, từ ngày chúng tôi nghe biết như vậy,
chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am
tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho.
Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về
mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu
biết Thiên Chúa hơn. Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh
quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả” (Cl 1,9-11).
Trong giáo dục, ta cần giúp các cháu biết
cân nhắc để nhận rõ ý Chúa trước thực tế hằng ngày và quảng đại đáp lại.
Thứ nhất là tập xem xét để chú tâm chu toàn bổn phận hiện tại.
Trước mọi việc bổn phận lớn nhỏ, ta đều tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần soi
sáng, cân nhắc xem phải làm thế nào để đạt kết quả tốt nhất, rồi làm ngay với
trọn lòng yêu mến.
Thứ
hai là trước các vấn đề cuộc sống, trước những cảm hứng muốn làm điều này hay
điều khác, dĩ nhiên là những điều tốt, làm sao để dò tìm và nhận rõ được ý
Chúa. Đây là một kinh nghiệm khá tế nhị nhưng không phải là quá khó. Trước hết,
khi đã có lòng khao khát muốn biết ý Chúa, ta cần giữ cho mình một lương tâm
ngay thẳng và một tấm lòng trong sạch, nếu còn vướng mắc tội lỗi thì phải thực
lòng ăn năn. Tiếp đến ta chú tâm xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng,
rồi cân nhắc xem xét kỹ để biết phải làm gì và làm một cách quảng đại. Kinh
nghiệm này gọi là phương pháp xem – xét - làm.
Bước thứ nhất là xem, tức là quan sát,
nhìn kỹ xem hoàn cảnh thực tế đang đòi hỏi điều gì, đâu là những thuận lợi và
những khó khăn. Việc này phải rất chính xác, đủ các khía cạnh cần thiết. Nếu ta
chỉ tuyển một số sự kiện theo ý ta muốn và gạt hẳn một số sự kiện không thuận
lợi cho kết luận, kết luận của ta sẽ không trung thực.
Bước thứ hai là xét, tức là phân tích tìm
lý do sâu xa của các sự kiện trên và dựa theo tinh thần Tin Mừng để lượng giá
phê phán và tiến đến một kết luận. Sự phê phán này cần hết sức vô tư. Thường ta
dễ bị thiên lệch vì những quyến luyến lệch lạc và những định kiến có sẵn, khiến
cho việc nhận định bị mất sáng suốt. Do đó cần tỉnh táo lọai trừ mọi định kiến
và quyến luyến lệch lạc.
Trước những tình thế khó khăn của cuộc
sống, ta cần bình tĩnh xét xem hướng đi của ý Chúa trong hoàn cảnh mới, không
vội phản kháng cũng không tìm cách uốn nắn hoàn cảnh cho hợp với ý ta.
Muốn nhận rõ ý Chúa, ta cần để cho lòng
lắng xuống trong “yêu thương, khiêm nhường và từ bỏ.” Cần can đảm cậy trông vào
Chúa. Đôi khi ta ngập ngừng không dám bắt tay vào việc, nhưng bắt đầu làm thì
rồi sẽ thấy ánh sáng dần dần lộ rõ. Đừng vội nghĩ rằng ánh sáng vừa nhận được
là tất cả ánh sáng. Cần biết vui lòng với những giới hạn. Không đòi những điều
kiện tối ưu, cũng không vẽ vời những kế họach vượt quá quyền hạn và khả năng
mình.
Bước thứ ba là làm, tức là bắt tay vào
việc thật đúng lúc, đúng cách, với cả tấm lòng. Cứ quảng đại đáp lại theo điều
Chúa gợi ý trong giây phút hiện tại. Ta chưa thấy rõ tương lai nên cần biết phó
thác cho Chúa. Cứ bước đi trong bình an và chờ để xem Chúa đang muốn dắt đi
đâu. Hành trình Chúa dắt ta đi là hành trình của kinh nghiệm, theo kiểu quy
nạp. Thoạt đầu mọi chuyện có vẻ chẳng liên hệ gì với nhau, nhưng rồi cuối cùng
sẽ thấy tất cả ăn khớp với nhau cách kỳ diệu.
“Trong
một xã hội đã bị lung lay và phân hóa do những căng thẳng và xung khắc vì sự
đối đầu khốc liệt giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ loại, trẻ em cần phải
có được ý thức về sự công bằng đích thực, vì chỉ có sự công bằng ấy mới đưa đến
sự kính trọng phẩm giá ngôi vị của từng người. Hơn thế nữa, chúng ta phải có ý
thức về tình yêu đích thực, tình yêu dệt bằng mối quan tâm chân thành và việc
phục vụ vô vị lợi đối với kẻ khác, và đặc biệt là đối với những người nghèo
nhất và những người cần được giúp đỡ nhất.” (Tông Huấn Gia Đình, số 37)
Thánh Phanxicô Trần Văn Trung tử đạo ngày
10-6-1858. Khi bị giam, nhớ ra còn thiếu nợ một vài người, ngài lo lắng sợ các
chủ nợ bắt các con mình ở đợ để trừ nợ, vừa cực khổ lại có thể quên cả đạo
nghĩa nữa, vì thế ngài căn dặn vợ rất kỹ lưỡng, những đồ đạc nào trong nhà phải
bán đi để thanh toán nợ nần thật chu đáo. (Thiên hùng sử, tr. 308)
Ngày nay, ý thức công bằng ở ngòai xã hội
ngày càng xuống thấp, l8ám lúc dường như người ta chẳng còn biết gì đến công
bằng. Giữa tình huống ấy, các gia đình Kitô hữu phải quan tâm dạy con cái ý
thức công bằng từ trong những chuyện nhỏ, trong việc làm bài cũng như khi chơi
đùa với bạn hữu. Chính bậc cha mẹ cũng cần thường xuyên kiểm tra lại ý thức
công bằng của mình, bởi vì công bằng là nền tảng của bác ái, như Tông Huấn về
Gia Đình có dạy:
“Một nhiệm vụ khác của gia đình là huấn
luyện con người đến với tình yêu và thực hành tình yêu trong mọi tương quan với
người khác, nhờ vậy gia đình sẽ không tự khép kín, nhưng mở rộng ra với cộng
đoàn, được đánh động nhờ ý thức về công bằng và nhờ sự quan tâm đối với người
khác, cũng nhờ bổn phận của trách nhiệm riêng đối với toàn thể xã hội”. (Tông
huấn Gia đình 64)
Cần hết sức tránh đừng để rơi vào nợ nần.
Nếu mắc nợ, cố gắng trả càng sớm càng tốt. Nên tập thái độ này từ trong chuyện
thường ngày: Lấy cái gì ở đâu, dùng xong, trả liền vào ở đó. Mượn vật gì của
ai, dùng xong, trả lại liền. Thói quen giải quyết dứt điểm công việc mỗi ngày
cũng giúp dẫn đến thói quen giúp sớm thoát nợ nần tiền bạc: Vừa có tiền trả nợ
là trả ngay, không chần chừ. Có đến đâu trả đến đó, cuối năm sẽ thấy nhẹ nhàng.
Chuyện đời sau cũng giống chuyện đời này: Ai không để mình nợ công việc, sẽ không
nợ tiền bạc. Ai không để mình nợ đời này, sẽ không nợ đời sau.
“Mọi thành
phần trong gia đình, mỗi người theo ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách
nhiệm để ngày này sang ngày khác tiếp tục xây dựng sự hiệp thông giữa các ngôi
vị, bằng cách biến gia đình thành một “trường học đào tạo cho nhân tính được
hoàn hảo và phong phú hơn”. Chỉ có một tinh thần hy sinh cao cả mới giúp gìn
giữ được, và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp
thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra
để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau, và hòa giải với nhau. Không gia đình
nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hòa, những căng thẳng, những xung
đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể
làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn hình thức chia rẽ
khác nhau trong đời sống gia đình.” (Tông Huấn Gia Đình, số 21)
Thánh Anrê Kim Thông chu toàn nhiệm vụ
của mình với tinh thần hăng say, với lòng đạo đức sốt sắng và lòng bác ái hoàn
hảo. Ngài được Đức Cha Cuénot đặt làm Trùm Cả toàn tỉnh Bình định. Làng cũng
chọn ngài lo việc xét xử, hòa giải mọi người trong xóm làng. Vất Vả nhưng vì
ích chung, ngài vui vẻ đảm nhận. Điểm đặc biệt trong đời sống của ngài là lòng
nhiệt thành với các vị thừa sai, nhất là đối với Đức Cha Cuénot. Trong những
năm tháng dài, dù hiểm nguy đến tính mạng, ngài đã bố trí cho Đức Cha trốn
lánh, tá túc ngay trong nhà mình, đón tiếp các linh mục, các thầy giảng đến
thăm Đức Cha, phục dịch các ngài, phí tổn khá nhiều. Sự nhiệt tâm này dù làm
cho đời sống kinh tế gia đình nhiều lúc trở nên eo hẹp, ngài cũng chẳng nề hà.
Điều làm cho Cụ quan tâm nhất là bảo đảm an toàn cho Đức Cha và các linh mục.
Do đó khi được các quan đòi lên tỉnh bất cứ vì lý do gì, ngài vội đi ngay, đối
đáp, trao đổi sao cho ít thiệt hại nhất, và khi ra về vẫn giữ sự liên lạc xã
giao với họ.
Một điểm quan trọng trong việc giáo dục
gia đình công giáo ngày nay là đào tạo tinh thần ích chung. Hoàn cảnh xã hội
ngày càng dễ khiến người ta thành ích kỷ. Bậc cha mẹ công giáo cần dạy con cái
biết quên mình, hy sinh vì ích chung. Trước mặt người đời, đây có vẻ là điều
dại dột, nhưng người Kitô hữu xác tín vào những lời tuyên phúc của Chúa, cần
luôn phát huy tinh thần sẵn sàng chịu thiệt vì ích chung. Cha mẹ sẽ đào tạo
tinh thần này cho con cái trước hết là qua những bổn phận hằng ngày được giao
cho chúng. Cần dạy các cháu biết vui vẻ chu toàn, dành ưu tiên cho lợi ích
chung của gia đình, sẵn lòng gạt bỏ những thú vui chơi để chu toàn bổn phận.
Tiếp đến, cha mẹ cần nêu gương cho con cái trong việc hy sinh vì ích chung của
Xã Hội và Giáo Hội, và nhắc bảo con cái theo hướng ấy.
“Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả
vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh
mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những
lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong
vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9,23-25).
Trong giáo dục, ta cần giúp các cháu biết
từ bỏ để sống theo tinh thần kỷ luật. Nói đơn sơ là biết bỏ ý riêng và mau mắn
vâng lời.
Kỷ luật đầu tiên là những kỷ luật về sạch
sẽ, ngăn nắp, thứ tự, đúng giờ.
Trước hết và trên hết, để các cháu thấm
nhuần tinh thần từ bỏ, chính bậc cha mẹ cần nêu gương. Cần biết can đảm dứt bỏ
những điều không tốt. Ngay cả trong những điều tốt, cũng cần biết dừng lại ở
mức độ thực sự cần thiết, từ ý nghĩ, lời nói, việc làm đến sự sở hữu. Những gì
vượt quá mức độ cần thiết, những cái thừa, ta cần tìm cách loại bỏ dần.
Văn minh tiêu thụ tạo ra rất nhiều nhu
cầu giả. Càng biết từ chối những nhu cầu giả, ta càng thanh thóat hạnh phúc.
Cần biết tự chủ, có chừng mực trong các thứ giải trí. Cần có tinh thần khó
nghèo và siêu thoát trong việc sử dụng các tiện nghi vật chất: Chỉ dùng ở mức
hết sức cần thiết, không lạm dụng.
Tập can đảm từ bỏ những điều không cần
thiết, khởi sự từ những thứ linh tinh chẳng bao giờ dùng tới. Trong nhà có lắm
đồ vật thừa choán mất chỗ của những đồ dùng cần thiết, gây mất trật tự, che lấp
mất những cái cần thiết, khiến khi cần ta không tìm ra. Hãy can đảm gom những
đồ vật dư thừa, cho người bán ve chai, hoặc đốt bỏ.
Những câu nói thừa, vừa làm vừa nói linh
tinh, khiến ta thành lải nhải, người khác hết muốn nghe. Những cử chỉ thừa
khiến người khác có cảm tưởng ta thiếu thành thật. Những việc thừa khiến người
khác bực mình. Việc thừa là việc của người khác, việc của lúc khác. Việc thừa
cũng còn là những âu lo vô ích đủ thứ. Mỗi tối cần nhìn lại xem trong ngày có
những lời nói và cử chỉ nào dư thừa, không cần thiết. Vất bỏ những đồ vật thừa,
ta sẽ có nhiều chỗ cho những vật dụng cần thiết được ngăn nắp. Dẹp bỏ những lời
thừa và việc thừa, ta sẽ có rất nhiều nghị lực và thời giờ để làm những việc
cần làm.
Ta chỉ có thể dứt bỏ, khi biết dứt bỏ
ngay lúc này, tại đây, nơi những điều trước mắt.
Cũng cần nhớ rằng sự dứt bỏ quan trọng
nhất là dứt bỏ ý riêng. Lắm khi, ta bị lạc vào chủ quan và theo đuổi ý riêng
thay vì ý Chúa. Cần nhớ rằng trước mắt Chúa, vâng lời quý hơn của lễ. Chính đức
tin, đức cậy và đức mến sẽ giúp ta đạt được sự từ bỏ tận cõi lòng, sự thanh
thoát và không màng.
“Gia đình
Kitô hữu được sinh động và được hướng dẫn bằng luật mới của Thần Khí và trong
sự hiệp thông mật thiết với Giáo Hội là dân tộc vương đế, được mời gọi
sống việc “phục vụ” của mình vì tình yêu
đối với Thiên Chúa và tha nhân. Như Đức Kitô thực thi vương quyền của Người
bằng cách hiến thân phục vụ con người, thì người Kitô hữu cũng tìm được ý nghĩa
đích thực của việc tham dự vào vương quyền của Chúa mình bằng cách chia sẻ tinh
thần và thái độ phục vụ đối với con người.” (Tông Huấn
Gia Đình, số 63)
Khi cậu bé Saviô xin Thánh Don Bosco dạy
con đường nên thánh, ngài trả lời:
Con đường nên thánh trẻ
Lấy vui vẻ làm đầu
Bổn phận nhớ chuyên sâu
Thực hành câu giúp ích.
Khi nhắc các cháu học hành, ta sẽ không
nói phải học để kiếm sống nhưng cần nhấn mạnh học là để có thể phục vụ hữu hiệu
hơn.
Ta phải tập cho các cháu biết phục vụ
ngay trong bầu khí gia đình. Các cháu cần biết chu toàn phần việc đã được giao
để giúp cả nhà. Hơn thế nữa, vì yêu thương cha mẹ và anh chị em, cháu còn mau
mắn làm những việc mình thấy cần làm, dù chưa ai nhắc bảo. Ta cũng cần dạy con
cái biết lo cho phần rỗi của kẻ khác, biết mau mắn phục vụ khi trong xóm có
tang chế hay có người gặp tai nạn rủi ro.
Cần dạy cho các cháu biết tiếp khách. Sau
mỗi lần có khách, nên chỉ vẽ giúp các cháu rút kinh nghiệm. Nói chung là luyện
phản xạ kính trọng người khác. Tốt dành cho khách, sạch nhường cho bạn. Luôn
quan tâm tới nhu cầu người khác và mau mắn giúp đỡ. Biết nhường đường cho người
khác khi sử dụng các phương tiện giao thông. Đó là những thói quen giúp các
cháu ngày càng trở thành người có tư cách.
Ở số 37,
Tông Huấn Gia Đình viết: “Gia đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản
về đời sống xã hội; như một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến
mình là qui luật hướng dẫn gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng. Sự hiến
mình đang làm cho tương quan giữa đôi bạn với nhau được sinh động, chính là
kiểu mẫu và nguyên tắc cho sự hiến mình cần có giữa anh chị em trong nhà và
giữa những thế hệ khác nhau đang cùng sống trong gia đình. Sự hiệp thông và
chia sẻ được thể hiện mỗi ngày tại gia đình, trong những lúc vui mừng cũng như
khó khăn, chính là khoa sư phạm cụ thể nhất và hữu hiệu nhất để làm cho trẻ em
có thể hội nhập một cách tích cực, có trách nhiệm và phong phú vào trong khung
cảnh lớn hơn của xã hội.”
đôi khi ta cảm thấy bất lực và khổ tâm vì, dù
ta không muốn, ta đang thông truyền cho con cái tính ích kỷ của ta. Nhưng ta sẽ
cố gắng hơn, chắc chắn ta cũng thông ban cho chúng lòng tốt, nhờ vào sự thông
cảm, tính kiên nhẫn và tinh thần sẵn sàng phục vụ của ta đối với con cái cũng
như đối với mọi người.
“Được
lệnh truyền mới của tình yêu sinh động và nâng đỡ, gia đình Kitô hữu tiếp đón,
kính trọng, phục vụ mọi người, luôn luôn nhìn mọi người trong phẩm giá của họ
như những ngôi vị và như con cái Thiên Chúa” (Tông Huấn Gia Đình, số 64).
Việc đó
phải được phát triển trong phạm vi rộng lớn của cộng đồng giáo xứ: nhờ
đó, qua lòng bác ái của gia đình, Giáo Hội có thể mang một khuôn mặt thân thiện
hơn, giúp mọi người tìm được ở đó một bầu khí huynh đệ và gia đình.
Lòng bác
ái còn phải vượt quá vòng huynh đệ giữa những người cùng một đức tin, bởi vì
“mọi người đều là anh em tôi”. Nơi mỗi người, nhất là người nghèo túng, yếu
đuối, đau khổ và bị đối xử cách bất công, lòng bác ái biết nhận ra khuôn mặt
của Đức Kitô và một người anh em cần phải yêu mến và phục vụ.
Trong hạnh tích Thánh Đaminh Phạm Trọng
Khảm (1780-1859), ta đọc thấy: “Khi bị bắt, cụ án Khảm đã gần 80 tuổi, vừa là
tiên chỉ trong làng, vừa là hội viên dòng ba, kiêm chức trùm họ trong giáo xứ.
Mọi người đều công nhận cụ là người đạo đức, giàu lòng bác ái và nhiệt tình
trong các trách vụ. Các vị thừa sai, kể cả các giám mục cũng biết tiếng và từng
đến trọ tại nhà cụ trong những ngày khó khăn. Trong giáo xứ, cụ cộng tác đắc
lực với cha xứ trong việc điều hành tổ chức họ đạo. Với xóm làng, cụ là một mẫu
người đức độ, quan tâm đến nhu cầu của mọi người, cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia
sẻ của cải cho người nghèo khó và khích lệ mọi người can đảm trước cơn bách
hại. Gia phả con cháu cụ ghi rằng: “Gia nhân phải kiếm kẻ khó vào ngồi chung
thì cụ mới ăn cơm.” (Thiên hùng sử, tr. 29)
Bản giúp trí nhớ giản dị cho việc đào tạo
đức bác ái là kinh Thương người có mười bốn mối:
Thương xác bảy mối :
Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn.
Thứ hai :
Cho kẻ khát uống.
Thứ ba :
Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
Thứ bốn :
Thăm kẻ đau ốm cùng kẻ tù tội.
Thứ năm: Cho khách trọ nhà.
Thứ sáu :
Chuộc kẻ làm tôi.
Thứ bảy :
Chôn xác kẻ chết.
Thương linh hồn bảy mối :
Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người.
Thứ hai :
Mở dạy kẻ mê muội.
Thứ ba :
An ủi kẻ âu lo.
Thứ bốn :
Răn bảo kẻ có tội
Thứ năm: Tha thứ cho kẻ khinh ghét ta.
Thứ sáu :
Nhịn kẻ mất lòng ta.
Thứ bảy :
Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ
bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng
chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó
là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho
một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không”
thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5,33-37)
Cụ
Êlêazarô 92 tuổi bị tố cáo là người tin Chúa. Luật Cựu Ước cấm ăn thịt heo. Những
người có cảm tình đề nghị cụ chỉ giả vờ ăn thịt heo thôi là sẽ được tha. Thế
nhưng cụ nhất quyết không chịu giả vờ. Chuyện tương tự cũng đã xảy ra với Thánh
Anrê Kim Thông. Quan Tổng Đốc thương xót tuổi già của ngài nên đã đề nghị: “Ông
hãy bỏ đạo đi, cách thầm lén cũng được, rồi trở về gia đình, xưng tội là xong,
có thiệt thòi gì đâu?” Thế nhưng ngài đã từ tốn trả lời: “Thạch tín là thuốc
độc, uống vào sẽ chết, nhưng cũng có thuốc giải. Tuy vậy, không ai liều mình
uống thạch tín bao giờ. Việc chối đạo cũng thế”. Thế là ngài bị kết án lưu đày.
Để giúp cho con cái biết yêu mến sự thật,
trước hết trong mọi công việc hằng ngày cha mẹ phải hết sức tôn trọng sự thật.
Mọi lời nói và việc làm của cha mẹ đều phải luôn chân thật. Cha mẹ phải luôn
luôn nói sự thật với con cái. Đừng bao giờ nói dối chúng, dù chỉ là dối đùa một
chút xíu. Phải làm sao để trẻ em thấy có thể hoàn toàn tin lời cha mẹ. Nhờ đó,
các em sẽ cởi mở với cha mẹ cách hồn nhiên, sẽ mạnh dạn bày tỏ và bàn hỏi: Các
em sẽ sống thành thật và vâng lời.
Cần dạy các em biết thành thật khi làm
bài cũng như khi chơi với bạn bè. Chúa Kitô là Sự Thật. Do đó, mọi tư tưởng,
lời nói, việc làm của người môn đệ Ngài phải luôn trong sáng, chân thật.
Cần giúp các em biết luôn sống trong cái
nhìn của Chúa. Là những người con tự do của Thiên Chúa, luôn sống trong ánh mắt
yêu thương của Ngài, các em sẽ tập cân nhắc phê phán để tự quyết định theo
lương tâm của mình, khi nào thấy cần hỏi ý kiến nhà giáo dục trước khi quyết
định thì mau mắn hỏi ngay.
Lớn lên trong sự thật, con cái chúng ta
sẽ thực sự là những đứa con đầy tự do của Thiên Chúa, không khiếp nhược trước
cuộc đời.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng
nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách
của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn
anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
(Mt 11,28-30)
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh
Phaolô cũng dạy: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng
khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,1-3).
Điều thứ nhất trong kinh “Cải tội bảy
mối có bảy đức” là “khiêm nhường chớ kiêu ngạo”, nghĩa là biết nhận mình
hèn mọn trước mặt Thiên Chúa, mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, biết ơn Thiên Chúa và
biết ơn mọi người, đồng thời biết chăm chỉ lắng nghe và vâng lời người trên, và
biết kính trọng và yêu thương mọi người, trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Noi gương Chúa Kitô, ta chọn phần thấp
hèn, bé nhỏ, vì “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được
tôn lên” (Mt 23,12). Tránh đừng nói về những thành quả của mình cũng như về
những cái hay của gia đình và dòng họ mình. Ham danh là một dạng rất tinh vi
của kiêu ngạo. Chạy theo sự khen chê của người đời, ta sẽ dần dần xa Chúa.
“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nóng
giận chính là không chịu từ bỏ mình, và cũng là còn nô lệ cho sự kiêu ngạo.
Người khiêm nhường luôn ôn tồn, nhỏ nhẹ, cử chỉ dịu dàng.
Khiêm nhường còn là biết nhận lỗi, biết
chân thành cám ơn và xin lỗi.
Cần nhớ khiêm nhường khác với khiêm tốn.
Khiêm tốn là làm ra vẻ nhún nhường bên ngoài, còn đức khiêm nhường Chúa dạy là
khiêm nhường trong lòng, là thật lòng nhìn nhận mình chẳng quan trọng gì, chẳng
là già cả. Nếu ta có là gì thì đều do ơn Chúa, nên chẳng có lý do nào mà tự
mãn, tự hào, chẳng có lý do nào để coi khinh người khác. Chính vì thế, Thánh Nữ
Têrêxa Avila định nghĩa rất chính xác: “Khiêm nhường là bước đi trong sự thật”.
“Nhờ kết
quả của thừa tác vụ giáo dục, qua chứng từ đời sống, cha mẹ là những người đầu
tiên loan báo Tin Mừng cho con cái. Hơn nữa, khi cùng cầu nguyện với chúng, khi
cùng với chúng lao mình vào việc đọc Lời Chúa, và
khi làm cho chúng sống thân mật trong thân thể Đức Kitô bằng việc khai tâm Kitô
giáo, họ trở nên cha mẹ theo nghĩa trọn vẹn, nghĩa là không những họ sinh ra
chúng theo sự sống phần xác mà còn theo cả sự sống mà nhờ sự đổi mới của Thần
Khí tuôn
trào từ thập giá và sự phục sinh của Đức Kitô.” (Tông Huấn Gia Đình, số 39)
Kinh thánh không chỉ đơn thuần là bộ sách
do người ta viết ra, nhưng còn là Lời của Thiên Chúa. Chinh vì thế Kinh thánh
luôn có giá trị cho mọi người, mọi thời đại. Chính Chúa Thánh Thần đã tác động
và soi dẫn cho những người Ngài chọn để họ tùy theo tài năng và cách thế riêng
của mình mà viết lên những điều Ngài muốn họ viết ra vì ơn cứu độ chúng ta. Thế
nên, Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa nói với con người bằng ngôn ngữ loài
người.
Các nghị phụ Công đồng Vaticanô II thiết
tha nhắn nhủ mọi Kitô-hữu: “Hãy năng đọc Thánh Kinh”, vì như Thánh Giêrônimô
nói, “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”.
Để giúp con em tiếp xúc với chính bản văn
Thánh Kinh như Công Đồng mong ước, nên liệu cho mỗi em có một quyển Thánh Kinh
riêng. Nên chọn những quyển có in những phần dẫn nhập và chú thích vì những
phần này sẽ giúp cho ta rất nhiều khi đọc và học hỏi Thánh Kinh.
Hằng ngày nên dành ít phút để đọc Thánh
Kinh và đọc theo một lịch trình:
- Hoặc theo niên lịch phụng vụ được ghi
trong lịch công giáo (các bài đọc của thánh lễ mỗi ngày).
- Hoặc theo tuần tự các sách trong quyển
Thánh Kinh. Khi đọc đến sách nào, nên coi phần dẫn nhập của sách đó trước.
Tận dụng mọi cơ hội để học hỏi thêm về
Thánh Kinh: qua lời giảng của linh mục trong thánh lễ, qua các lớp học hỏi về
Thánh Kinh, qua đài, qua các sách, báo, phim ảnh về Thánh Kinh hoặc qua các
buổi chia sẻ Lời Chúa với nhau.
Mỗi tối Thứ Năm, cả nhà nên cùng nhau tìm
hiểu trước đoạn Tin mừng Chúa Nhật sắp tới.
Tìm hiểu ý chính và bài học áp dụng, rồi kiểm điểm đời sống dưới ánh sáng
đoạn Tin mừng vừa đào sâu. Dành ra ít phút thinh lặng và cầu nguyện để cho Lời
Chúa thấm vào lòng. Rồi chọn một câu chính yếu để sống cả tuần.
“Việc giáo dục này không những chỉ giúp nhân
vị được trưởng thành...nhưng còn nhằm giúp những người rửa tội trong khi họ
được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi, càng ngày càng ý thức
hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong
tinh thần và chân lý (x. Ga 4,23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ cũng như
được huấn luyện để biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện
của chân lý (Ep 4,22-24), và nhờ vậy, họ đạt tới con người toàn thiện, chín
chắn, đạt tới sự sung mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 4,13), góp phần làm cho Nhiệm
Thể được tăng trưởng.” (Tuyên
ngôn về giáo dục Ki-tô giáo, số 2)
Thánh Antôn Nguyễn
Đích tử đạo ngày 12-8-1838. Con gái ngài là cô Maria Mến cung khai trước toà
điều tra phong chân phước: “Bố tôi tên là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện
Nam Sang, tỉnh Nam Định. Ông bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có
linh mục thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh, rồi bố tôi lập gia đình ở
đó.”
Về Thánh Tôma Nguyễn
Văn Đệ, ta đọc thấy: “Ra đời trong một gia đình công giáo tại làng Bồ Trang,
tỉnh Thái Bình năm 1811, vì lý do sinh kế, anh Tôma Nguyễn Văn Đệ đã theo cha
mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn lên anh theo nghề may và
được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với việc trong xứ trong họ. Hầu
hết cờ quạt và đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ đều nhờ đến bàn tay khéo
léo và sáng tạo của anh.” (Thiên hùng sử, tr. 446)
Tinh thần Hội Thánh trước hết là gắn bó
với nhà thờ, với trung tâm sinh hoạt của cộng đoàn Dân Chúa và nhiệt tình đóng góp
vào sinh hoạt giáo xứ theo khả năng của mình. Tuy nhiên ta cần giúp các cháu có
cái nhìn rộng hơn, quan tâm đến Giáo Phận của mình và Giáo Hội Toàn Cầu. Cần
giúp các cháu biết đồng cảm với Hội Thánh, qua những tin tức về sinh hoạt Dân
Chúa tại giáo xứ, cũng như những nơi khác trong giáo phận, trên đất nước Việt
Nam và trên toàn thế giới.
“Như Công
Đồng Vaticanô II đã tái xác nhận thật rõ giữa kinh nguyện của Giáo Hội và kinh
nguyện của mỗi tín hữu có một tương quan sâu xa và sống động. Bởi vậy, mục đích
quan trọng của kinh nguyện trong giáo hội tại gia là bước dẫn nhập tự nhiên cho
trẻ em đi vào kinh nguyện phụng vụ của toàn thể Giáo Hội, vừa chuẩn bị chúng đi
vào kinh nguyện phụng vụ vừa mở rộng việc kinh nguyện này vào trong lãnh vực
của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Do đó cần phải có sự tham dự của mọi
thành phần trong gia đình Kitô hữu vào bí tích Thánh Thể, nhất là ngày Chúa
Nhật và các ngày lễ trọng, cũng như tham dự vào các bí tích khác, cách riêng là
bí tích khai tâm Kitô giáo cho trẻ em.
Để chuẩn
bị và kéo dài ngay tại nhà mình việc phụng tự được cử hành ở nhà thờ, ngoài
kinh nguyện sáng tối, các gia đình cũng được tha thiết khuyên bảo nên đọc và
suy niệm Lời Chúa, chuẩn bị cho các bí tích, tôn sùng và tận hiến cho Trái Tim
Chúa Giêsu, sùng kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a với những hình thức khác nhau, cầu
nguyện khi ăn cơm và thực hành các việc đạo đức bình dân”. (Tông Huấn Gia Đình, số 61)
Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành tử đạo ngày
12-7-1841. Khi con bà là cô Lucia nụ đến thăm trong ngục, bà khuyên: “Con hãy
về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng,
sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng
bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước thiên đàng.”
Để giúp con cái yêu thích tham dự thánh
lễ, cha mẹ cần tập cho chúng quen đi lễ từ nhỏ, thánh lễ Chúa Nhật, và nếu
được, cả thánh lễ ngày thường. Hơn nữa, cần chỉ dạy các cháu biết chuẩn bị
thánh lễ Chúa Nhật từ những ngày cuối tuần, từ giặt ủi quần áo, cắt móng tay,
cho đến đọc trước bài Tin Mừng Thánh Lễ. Nếu được, vào tối Thứ Năm, cả nhà cùng
đọc Tin Mừng Chúa Nhật sau đó và cùng chia sẻ. Cũng cần nhắc nhở về tác phong
tham dự thánh lễ. Để giúp các cháu ý thức luật kiêng việc xác ngày Chúa Nhật,
cần nhắc nhở mọi người trong nhà thu xếp làm xong mọi việc vào ngày Thứ Bảy để
Chúa Nhật có thể nghỉ ngơi. Khi hòan cảnh cho phép, thỉnh thoảng nên tổ chức
cho cả nhà đi chơi hoặc đi thăm bà con vào ngày Chúa Nhật.
Hằng tháng, cần nhắc các cháu xưng tội.
Nhắc cho các cháu khi bắt đầu một mùa phụng vụ mới và bố trí sinh họat gia đình
theo tinh thần mùa phụng vụ, như dọn hang đá, ăn chay kiêng thịt, viếng nhà
thờ, viếng nghĩa trang… Mỗi lần có thể được, nên thu xếp để cả nhà cùng tham dự
phụng vụ với nhau, và nhiều sáng kiến khác như thế.
Ở
số 21, Tông Huấn về Gia Đình còn nhắc ta rằng: “Cách riêng việc tham dự vào bí
tích giao hòa và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Kitô sẽ đem lại cho gia đình Kitô hữu
ơn sủng cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương xứng để thắng vượt tất cả mọi
chia rẽ, bước tới sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và
như thế là đáp lại nỗi ước mong nồng nàn của Chúa là “xin cho tất cả được nên
một” (Ga 17,21).
“Tương lai việc truyền giảng Tin mừng tuỳ
thuộc phần lớn nơi Hội thánh tại gia. Sứ
mạng tông đồ ấy của gia đình bắt nguồn từ phép rửa tội và đã nhận được
nơi bí tích hôn phối một sức đẩy mới để truyền đạt đức tin, để thánh hóa và
biến đổi xã hội hiện tại theo ý Thiên Chúa” ((Tông Huấn về Gia Đình, số 52)).
Đầu thập niên 1980, Giáo Hội Công Giáo
Nam Triều Tiên đưa ra một chiến dịch truyền giáo, mời gọi mỗi gia đình Công
Giáo tìm cách đưa v ề cho Chúa một người. Chiến dịch đã đạt kết quả cao. Năm
2010, dân số Công giáo tại Nam Triều Tiên đã vượt hơn 5,4 triệu người - tức
khoảng 11% dân số. Hiện nay tỷ lệ người Công giáo so với dân số Nam Triều Tiên
đã cao hơn tỷ lệ người Công giáo so với dân số toàn quốc tại Việt Nam.
Điều gì sẽ xảy ra cho Giáo Hội Việt Nam
nếu mỗi năm mỗi gia đình đem lại cho Chúa một tín hữu mới?
Hội thánh đã được Chúa thiết lập làm dụng cụ
cứu rỗi nên chỉ ở trong Hội thánh mới có những phương tiện hữu hiệu cho việc
cứu rỗi như các bí tích, lời giảng huấn, sự hướng dẫn, chỉ ở trong Hội thánh
người ta mới được đón nhận trọn vẹn Chúa Thánh Thần, được kết hợp với Đức Kitô
là Đầu và được nên con cái tự do của Thiên Chúa Cha. Hội thánh cho con người cơ
hội và giúp con người điều kiện để nắm chắc được sự cứu rỗi. Chính vì thế, mọi
phần tử đã gia nhập Hội thánh đều được kêu gọi lưu tâm lo lắng giúp anh chị em
mình gia nhập Hội Thánh là Dân Thiên Chúa để được cứu rỗi, được nên thánh.
Có lẽ đa số gia đình công giáo còn tiêu
cực trong việc truyền giáo. Nhiều gia đình công giáo sống rất tốt, được bà con
người lương ở lối xóm quý mến nể phục, thế nhưng dường như họ ngại nói về Chúa
Giêsu, không dám nói hoặc không biết cách nói.
Người công giáo thường ngạc nhiên trước
sự nhiệt thành của anh chị em Tin Lành. Không những nhiệt thành, họ còn chăm
học hỏi Lời Chúa và học cách truyền giáo rất kỹ lưỡng để có khả năng rao giảng
Tin mừng. Đa số các gia đình Tin Lành đều biết cách giới thiệu Chúa Giêsu cho
người khác. Đó là một tấm gương đáng cho người công giáo suy nghĩ. Ước gì mỗi
gia đình công giáo cũng là một gia đình truyền giáo, để đáp ứng điều Hội thánh
mong đợi.
Theo thánh nữ Têrêxa Chúa Giêsu, ta có
thể nói: Yêu thương biến gia đình thành một góc thiên đường.
“Gia
đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng
đồng các ngôi vị: đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận
đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một
cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị. Nguyên
lý nội tại, sức mạnh thường xuyên và mục đích cuối cùng của một sức mạnh như
thế chính là tình yêu: Nếu thiếu tình
yêu, gia
đình không phải là một cộng đồng các ngôi vị; thì cũng thế, không tình yêu, gia
đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng các ngôi
vị.” (Tông Huấn Gia Đình, số 18).
“Tình yêu
giữa người nam và người nữ trong hôn nhân, và nói rộng hơn, tình
yêu thương giữa các phần tử trong cùng một gia đình: giữa cha mẹ và con cái,
giữa các anh chị em, giữa tất cả bà con họ hàng, được linh hoạt và nâng đỡ do
một sức năng động từ bên trong đưa dẫn gia đình về một sự hiệp thông càng lúc
càng sâu xa và đậm đà hơn, làm nền tảng và nguyên lý cho cộng đồng hôn nhân và
gia đình.”
Nói cách đơn sơ, sự hiệp thông nói đây
chính là tình gia đình. Phương tiện luôn sẵn có cho ta để đào tạo tình gia đình
chính là các bữa ăn và giờ giải trí hằng ngày. Cần liệu sao để cả nhà có thể ăn
chung với nhau. Trong bữa ăn, có thể nhắc nhở nhưng tránh đừng rầy la, đay
nghiến. Nên khen ngợi, bông đùa, quan tâm hỏi han việc làm của cha mẹ, việc học
của con cái. Cách riêng là quan tâm đến những ngày kỷ niệm: sinh nhật hoặc bổn
mạng của từng người. Trong giờ ăn, nên tắt TV để có thể lắng nghe nhau và trò
chuyện thân mật. Ăn xong, nên đọc kinh tối liền. Một tuần vài lần, nên có phần
giải trí sau giờ kinh tối.
Tình gia đình là tình cảm giữa cha mẹ với
con cái, giữa con cái với cha mẹ và giữa anh chị em với nhau.
Để đào tạo tình gia đình cho con cái,
chính vợ chồng phải thuận hoà yêu thương trong một sự hiệp nhất không thể phân
ly. Tông Huấn viết tiếp:
“Sự hiệp
thông vợ chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người
nữ, và được nuôi dưỡng nhờ ý chí của đôi bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau
toàn thể dự phóng cuộc đời của họ. Họ chia sẻ với nhau tất cả những gì họ có và chính bản thân
họ…”
“Sự hiệp thông vợ chồng được đánh dấu
không những do sự duy nhất, nhưng còn do tính chất bất khả phân ly của nó: Sự
kết hợp mật thiết, việc hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái
buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi họ kết hợp với nhau cách
bất khả phân ly” (19-20).
“Sự hiệp
thông vợ chồng tạo nên nền tảng trên đó xây dựng được sự hiệp thông rộng lớn
hơn trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa những anh chị em trong nhà với
nhau, giữa những người bà con gần và những thành phần khác của gia đình.” (Tông Huấn Gia Đình, số 21)
Trong số 117 Hiển Thánh Việt Nam, có 3 vị
cùng một gia tộc. Thánh Giuse Phạm Trọng Tả là anh em thúc bá với Thánh Đaminh
Phạm Trọng Khảm. Con trai đầu của Thánh Khảm là Thánh Luca Phạm Trọng Thìn. Cả
gia tộc dìu nhau trên đường nên thánh.
Trong sinh hoạt gia đình Việt Nam, những
dịp hồn nhiên và thuận lợi để đào tạo tình gia tộc là tết nguyên đán và những
ngày giỗ. Những gặp gỡ, những bữa ăn trong những ngày này là dịp để mọi người
sống tình hiệp thông không những giữa những người sống mà còn cả giữa người
sống và những người đã khuất.
Tết Nguyên đán là dịp sum họp gia đình,
kính nhớ tổ tiên và thăm viếng nhau gia tăng tình thân ái. Cần loại bỏ những
chi tiết phong tục quá rườm rà cũng như những gì đi ngược với Tin mừng, và lưu
ý phát huy những gì tốt đẹp. Khởi đầu là việc dọn tất niên. Từ giữa tháng chạp
là thời gian rất thuận tiện để mỗi gia đình tổng kết một năm sinh hoạt. Cả cha
mẹ và con cái sẽ cùng nhau làm xong những việc cần thiết còn đọng lại; tổng kết
chi thu, thanh toán nợ nần; tổng kết kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm việc một
năm qua.Tất cả cần xong trước ngày ăn bữa tất niên. Bữa ăn này được coi như để
kết toán mọi chuyện: còn gì phải xin lỗi nhau hoặc góp ý xây dựng đều nói hết
trong dịp này, để rồi ngày đầu năm sẽ không còn phải nhắc gì đến chuyện cũ, chỉ
chúc tuổi nhau thật vui vẻ.
Dịp tết Nguyên đán, trong những gia đình
theo đúng tinh thần Việt Nam, ẩn dưới những niềm vui rộn rã đầu xuân là cả một
thực tại linh thiêng trầm mặc đầy ắp không gian: Cõi hữu hình và cõi vô hình
đan dệt vào nhau, ông bà tổ tiên đã khuất như thể đang có mặt giữa con cháu một
cách thân thiết, gần gũi, linh thiêng và đầy an ủi. Có được bầu khí ấy là nhờ
các nghi lễ rất nghiêm túc của phụng tự gia đình. Từ buổi chiều cuối năm đến
chiều mùng ba Tết là một khoảng thời gian dành riêng để tưởng nhớ gia tiên cách
thật sâu đậm, và để cho tâm hồn lắng đọng trong niềm cảm mến biết ơn.
Sự sum họp gia đình buổi sáng đầu năm rất
quí giá. Thánh lễ ở nhà thờ xong, mọi người về nhà ngay, cùng nhau cử hành lễ
gia tiên. Sau lễ gia tiên, các cháu mừng tuổi ông bà, con cái mừng tuổi cha mẹ,
mọi người mừng tuổi nhau. Cũng cần tế nhị tôn trọng sự thân mật của các gia
đình khác, đừng vội đến nhà người khác ngay sáng sớm mùng một tết.
Bữa ăn giỗ là để phát huy tình cảm gia
đình và gia tộc, cho nên từ chương trình đến cách sắp xếp chỗ ngồi, cần làm sao
để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong tình hiệp nhất
thân mật. Do đó, nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài người khách
thì nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật giữa mọi
người trong gia tộc.
Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để
dâng lời cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa
là để cầu xin Chúa sớm hoàn thành việc thanh luyện cho những người đã khuất còn
vướng mắc hậu quả của tội lỗi.
“Truyền
thống xưa nay của Giáo Hội vẫn quen đón nhận từ nền văn hóa các dân tộc những
gì thích hợp để diễn tả những phong phú vô tận của Đức Kitô cách tốt hơn. Và
chỉ với sự góp sức của mọi nền văn hóa, những phong phú ấy mới có thể càng lúc
càng bộc lộ rõ hơn và Giáo Hội mới có thể tiến tới sự hiểu biết ngày càng trọn vẹn
và sâu sắc hơn về chân lý mà Chúa đã ban trọn cho Giáo Hội.” (Tông Huấn Gia Đình, số 10)
Nét nổi bật trong việc hội nhập văn hoá
của Giáo Hội Việt Nam là truyền thống Đạo Hiếu. Từ năm 1965, chúng ta đã tiếp
nhận lại việc thờ cúng tổ tiên theo cung cách Việt Nam. Đến nay sinh hoạt này
đã thành bình thường và tạo được thiện cảm nơi bà con lương dân.
Qua chiến tranh ly loạn,
gia phả sổ sách mai một, người thân xa lạc nhau. Ngày nay, khắp nơi dấy lên
phong trào tìm cội nguồn, tìm dòng họ. Người Công giáo cần chạy đua với anh chị
em lương dân trong việc giáo dục tình gia đình và gia tộc. Sự nhập cuộc này sẽ
tô đậm thêm mối thiện cảm vừa nói, hơn nữa, còn giúp ta cơ hội để đem ánh sáng
Tin mừng xóa tan bóng tối mê tín đang có nguy cơ trở lại trầm trọng.
Từ đường không còn, mà nếu còn cũng khó
có người chăm sóc, vì lắm trường hợp cả gia đình trưởng tộc cũng đã lập nghiệp
ở phương xa. Ruộng hương hoả không còn, mà nếu còn cũng khó đem lại đủ lợi tức
cho sinh hoạt gia tộc. Để giải quyết những khó khăn ấy, nhiều gia tộc đã có
sáng kiến thực hiện sinh hoạt phí hương hoả ngắn hạn và từ đường lưu động.
Trong bữa ăn họp mặt gia tộc, sẽ quyên tiền sinh hoạt phí hương hoả cho ngày
gia tộc lần sau và mời gọi đăng ký phụ trách bữa ăn họp mặt lần sau. Gia đình
tình nguyện phụ trách ngày gia tộc lần sau sẽ nhận số tiền sinh hoạt phí này để
lo xin lễ và tổ chức bữa ăn họp mặt. Gia đình này cũng nhận di ảnh và bài vị
các tổ phụ đem về lo hương khói ở nhà mình. Như thế, gia đình này cũng đóng vai
thủ từ và nhà họ trở thành từ đường cho đến dịp giỗ lần sau. Hằng ngày, mọi
người trong gia tộc sẽ cầu nguyện cho gia đình thủ từ. Gia đình này sẽ ở trong
trái tim của cả gia tộc và cả gia tộc nên quan tâm thăm hỏi cách đặc biệt, tới
lui và nâng đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất. Các gia đình con và cháu
trong gia tộc, nam cũng như nữ, đều có thể đăng ký chịu trách nhiệm tổ chức
ngày gia tộc. Giải pháp này cũng đem lại an ủi cho những gia đình lẻ loi xa xứ,
vì vẫn có cơ hội tình nguyện phụ trách ngày truyền thống gia tộc. Chắc hẳn việc
này đòi phải hy sinh cố gắng nhưng là một hy sinh rất đích đáng, đạt được hai
chiều kích của Đạo Hiếu, vừa kính nhớ biết ơn Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ vừa xây đắp
sự cảm thông trong Gia Đình và Gia Tộc. Kinh nghiệm cho thấy những người con có
lòng với tình Gia Tộc luôn được Thiên Chúa chúc lành, được tiên nhân bầu cử,
phù hộ và cũng được mọi người trong Gia Tộc thương mến.
“Giữa
lòng gia đình như một cộng đồng các ngôi vị, cần phải dành một sự chú ý đặc
biệt cho đứa con, bằng cách phát huy lòng quí chuộng sâu xa đối với phẩm giá
ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự kính trọng thật lớn đối với những quyền
lợi của nó, những quyền lợi mà người ta phải phục vụ một cách quảng đại. Đó là
điều phải dành cho tất cả mọi đứa con, mà quan trọng nhất là đứa con nhỏ tuổi
hơn, đang cần đủ mọi thứ, hoặc đối với một đứa con bị đau yếu, đau khổ hay tàn
tật.” (Tông Huấn Gia Đình, số 26)
Mỗi người con là một hình ảnh của Thiên
Chúa, thế nhưng có những người không biết tôn trọng con cái. Họ mắng chửi con
cái thậm tệ và nguyền rủa con cái bằng những lời thô bỉ. Trong giáo dục, chúng
ta cần biết tôn trọng con cái, vì các cháu là con của Thiên Chúa trước khi là
con của anh chị em. Chính Thiên Chúa trao gởi con cái cho anh chị em nuôi dạy.
Có những phụ huynh vẽ ra trong đầu một
khuôn mẫu về đứa con của họ, rồi tìm mọi cách gò ép nó theo khuôn mẫu ấy. Như
thế là thiếu tôn trọng con cái và không phải là giáo dục. Giáo dục không phải
là uốn nắn con em theo hình ảnh mình muốn cho nó nhưng là chú ý khám phá xem Thiên
Chúa muốn gì trên con em mình để giúp nó phát triển như Ngài muốn.
Khi con cái còn bé tí xíu, chúng cần cha
mẹ bảo trợ và âu yếm. Nhưng sẽ tới một thời gian sớm hơn ta tưởng chúng đi tìm
con người riêng trong cách xử sự và cả trong vấn đề đạo giáo nữa. Thời kỳ ấy sẽ
làm cho cả cha mẹ lẫn con cái phải khổ tâm, nhưng bậc cha mẹ sẽ biết xóa mình
đi trước nhân cách của đứa con đang lớn lên, và tìm cách giúp con cái đáp lại
tiếng gọi của Chúa theo cách của nó, chứ không rập theo cách của cha mẹ. Bậc
cha mẹ nhớ rằng, dù không nói ra, đứa con sẽ rất khâm phục cha mẹ, nếu họ sống
đức tin với lòng xác tín, mà không cưỡng ép chúng làm những việc đạo đức như
họ. Ước gì các gia đình Kitô giáo có được một bầu khí vừa che chở vừa cởi mở,
trong đó, con cái cảm thấy được tôn trọng và nhìn thấy nơi cha mẹ những tấm
gương sáng về lòng tốt, lòng chung thủy, tình thân mật, lòng biết ơn, tinh thần
trách nhiệm và cần cù làm việc, tất cả phản ánh một đức tin sâu xa.
Chính vì thế, cũng trong Tông Huấn Gia
Đình, ở số 21, chúng ta đọc thấy: “Yếu tố
căn bản tạo để nên sự hiệp thông trong gia đình, chính
là sự trao đổi có tính cách giáo dục giữa cha mẹ và con cái, làm cho mỗi người
đều có thể cho đi và nhận lại. Qua tình yêu, sự kính trọng và vâng lời đối với
cha mẹ, con cái mang lại phần đóng góp đặc biệt và không thể thay thế được của
chúng cho việc xây dựng một gia đình thật sự nhân bản và Kitô. Điều đó sẽ dễ
dàng hơn cho chúng nếu các bậc cha mẹ thực hành nghiêm chỉnh quyền bính của họ
như một tác vụ thật sự hay đúng hơn, như một việc phục vụ nhắm tới lợi ích nhân
bản và Kitô của con cái. Đặc biệt hơn, như một việc phục vụ nhằm làm cho con
cái đạt được một sự tự do thật sự có trách nhiệm, nếu chính các cha mẹ cũng
luôn giữ được một ý thức bén nhạy về hồng ân mà họ không ngừng nhận được từ nơi
con cái họ.”
Trong giáo dục, tôn trọng con cái có nghĩa là
trở nên người bạn của con cái mình.
“Việc dạy giáo lý trong gia đình đi
trước, đi kèm và phong phú hoá mọi hình thức khác của việc dạy giáo lý. Ngoài ra,
nơi nào luật lệ chống tôn giáo chủ ý cản trở việc giáo dục đức tin, nơi nào chủ
nghĩa thế tục lan tràn, khiến không thể có tăng trưởng tôn giáo đích thực trong
thực tế, thì Hội Thánh nhỏ tức là gia đình trở thành môi trường độc nhất trong
đó trẻ nhỏ và thanh niên có thể theo học giáo lý chân chính. Vì thế, các cha mẹ
kitô hữu phải hết sức cố gắng chuẩn bị để đảm nhận vai trò làm giáo lý viên cho
chính con cái mình và để thực hiện bổn phận ấy với một lòng nhiệt thành không
mệt mỏi.” (Tông Huấn về việc Dạy Giáo Lý, số 68 và 39)
“Từ tuổi thơ ấu cho đến khi bắt đầu tuổi
trưởng thành, việc dạy giáo lý trở nên một trường học thường xuyên về đức tin
và theo sát những giai đoạn trọng yếu của cuộc đời, như một hải đăng soi sáng
đường đi của thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên.”
Thánh nữ Anê Lê Thị Thành, 60 tuổi, tuẫn
đạo ngày 12-7-1841. Khi giáo quyền thẩm vấn lập hồ sơ phong thánh, cô Lucia Nụ,
con gái út của ngài, đã kể về mẹ mình rằng: “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo
việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng ta đọc chữ và học giáo lý, sau lại
dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng
nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc giục chúng tôi bằng được
mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội Con Đức Mẹ và vào ban thiếu nữ thưa kinh
ở nhà thờ.” (Thiên hùng sử, 213)
Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, 33 tuổi.
Anh tuyên xưng đức tin và bị giam trong ngục. Đứa con gái nhỏ của anh là
Catarina Thông đến thăm và được phép ở lại giúp cha một tháng. Thế nhưng nghe
tin ở xứ nhà có lớp giáo lý, anh đã bắt nó phải về để theo học giáo lý. (Thiên
hùng sử, tr. 308)
Tiếp nối tấm gương những bậc thánh phụ
huynh như thế, các bậc cha mẹ công giáo ngày nay cần quan tâm đến việc học giáo
lý của con em. Ở thành phố, trẻ em lắm khi phải đi học thêm quá nhiều; ở miền
quê, nhiều em phải phụ cha mẹ lo việc nhà và việc đồng áng. Thế nhưng, ý thức
trách nhiệm của mình, bậc làm cha làm mẹ cần biết dành mọi ưu tiên cho việc học
giáo lý của con em, chủ động giúp con em thu xếp thời giờ để có thể đi học giáo
lý thường xuyên đều đặn.
“Khắp nơi đều cố gắng đẩy mạnh công cuộc
giáo dục mỗi ngày một hơn. Trước con số học sinh gia tăng mau chóng, người ta
gia tăng trường ốc và cải tiến học đường, thiết lập thêm những cơ sở giáo dục
khác. Các phương tiện giáo dục và giảng huấn được canh tân dựa vào những kinh
nghiệm mới. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực lớn lao để đem lại những lợi ích trên cho
mọi người, nhưng vẫn còn rất nhiều trẻ em và thanh thiếu niên chưa được hưởng
sự huấn luyện căn bản và biết bao người khác vẫn còn thiếu một nền giáo dục
thích hợp để phát huy chân lý và bác ái.” (Lời mở đầu của Tuyên Ngôn về Giáo
Dục Kitô Giáo).
Giúp được cho con em biết ham học là đã
tạo được một thuận lợi rất lớn cho việc giáo dục toàn diện. Chỉ cần con em hiếu
học là cha mẹ đã đỡ lo nhiều. Muốn vậy, cha mẹ cần dành thời giờ quan tâm tới
việc học của con cái.
Trước hết cần giúp các cháu nắm vững mục
đích việc học. Thánh Bênađô nói: “Người hiếu kỳ học để mở mang kiến thức; người
kiêu ngạo học chỉ để nâng cao địa vị trong xã hội; còn người mến Chúa thì học
để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi của mình và tha nhân”.
Như thế, đối với
người Kitô hữu, học là để nên người và để phục vụ hữu hiệu. Do đó, cần tránh
thái độ học chỉ để đối phó với thi cử, nhưng cần học kỹ, học rộng và biết cân
nhắc phê phán để nắm vững sự thật. Cần suy nghĩ dựa trên thực tế đời thường để gắn liền sự học
với cuộc sống và con người.
Cũng cần giúp các cháu biết cách để học
cho kết quả.
1. Muốn học tập kết quả, phải bền chí.
Tâm trí phải làm việc tối đa để tìm hiểu cặn kẽ những điều chưa hiểu. Học là
việc khó nhưng nhớ đến thành quả tốt đẹp mai sau, ta sẽ có nghị lực.
2. Ưu tiên cho việc học tập, biết gác lại
mọi thú tiêu khiển, những chuyện vặt vãnh để tập trung vào việc học.
3. Ngày nào học xong bài ngày ấy. Khi
phải làm nhiều bài tập ở nhà, cần chia thời gian làm bài ra nhiều lúc để tránh
tình trạng dồn dập, nhồi nhét.
4. Ngăn nắp thứ tự.
5. Biết cách đọc sách.
6. Bắt đầu một môn học, cần nắm vững đối
tượng, mục đích và phương pháp, tức là môn học ấy nhằm tìm hiểu những gì, giúp
ta phát huy tài năng nào và phải học môn ấy cách nào mới kết quả tốt.
7. Xem trước nội dung bài thầy sẽ giảng
hôm sau.
8. Ghi lại những điểm cần thiết khi nghe
giảng. Nên chia tập vở thành hai phần: Phần tự ghi chú và phần ghi chép những
lời thầy cô giảng để dễ dàng ôn bài cả hai phần.
9. Mạnh dạn phát biểu, nêu thắc mắc: Nếu
có điểm gì chưa hiểu, nên xin thầy cô giảng lại ngay.
10. Mỗi tối, xem lại bài đã nghe giảng
trong ngày, viết lại các ý chính và cố gắng ghi nhớ.
11. Học nhóm: Khi học nhóm, các bạn có
điều kiện để thảo luận, tìm hiểu nhiều cách giải bài tập khác nhau và giảng cho
nhau.
12. Tự ra đề và làm bài kiểm tra: Nên
“đánh dấu đỏ” những điểm quan trọng có thể trở thành đề thi, tự đặt câu hỏi
kiểm tra và tự giải các câu hỏi ấy, nhưng vẫn phải học toàn bộ bài, tránh học
tủ.
13. Làm thật nhiều bài tập: Ngoài những
bài tập thầy cô cho, bạn cứ làm thêm nhiều bài tập khác.
14. Bài làm phải sạch sẽ: Hai bài giống
nhau, bài nào sạch đẹp hơn thường gây ấn tượng tốt cho người đọc hơn.
“Tôi xin gửi đến các gia đình một lời kêu
gọi đặc biệt: Xin các bậc cha mẹ, cách riêng những người làm mẹ, hãy quảng đại
hiến dâng cho Thiên Chúa những người con được Chúa mời gọi tiến tới chức linh
mục. Xin hãy vui mừng cộng tác vào tiến trình ơn gọi của con cái. Tôi đoan chắc
rằng, bằng cách ấy họ sẽ được cảm nghiệm hạnh phúc của Đức Trinh Nữ Maria:
“Người được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và hoa quả lòng người cũng được
chúc phúc” (Lc 1,42).
“Với những người trẻ hôm nay, tôi muốn
nhắn nhủ điều này: Các bạn hãy ngoan nguỳ hơn hữa trước ơn Chúa Thánh Thần; hãy
để cho vang vọng lên trong lòng các bạn những nỗi mong chờ lớn lao của Giáo Hội
và của nhân loại. Đừng ngại mở rộng cõi lòng trước tiếng gọi của Chúa Kitô. Hãy
khám phá ra ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu đang hướng thẳng về phía các bạn
và hãy hăng hái đáp lại lời Ngài đang đề nghị các bạn nối gót theo Ngài cho đến
cùng.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn “Những Mục Tử Như Lòng Mong Ước”, số 82)
Kể về chân phước Anrê Phú Yên, cha Đắc Lộ
xác nhận: “Đúng 3 năm trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được
hạnh phúc rửa tội cho thầy”. Được rửa tội 3 năm trước khi chết, tức là năm
1641. Chính năm nầy, vào ngày Đại lễ Phục Sinh (31-03-1641) lần đầu tiên cha
Đắc Lộ đến Phú Yên, tàu cập bến tại cửa biển Bà Đài, tức Vịnh Xuân Đài Ngày
nay. Cha Đắc Lộ được quan Trấn Biên tiếp đón niềm nở, cha lưu lại đây 2 tháng
thăm viếng mục vụ cộng đoàn tín hữu Phú Yên. Trước khi rời Phú Yên, cha Đắc Lộ
đã rửa tội cho 90 người tại nhà nguyện trong Dinh Trấn, Anrê Phú Yên là một
trong 90 tân tòng nầy.
Năm 1642 cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên
lần thứ hai, Anrê Phú Yên ngỏ lời với cha
Đắc Lộ, xin theo cha giúp việc truyền giáo. Lúc đầu cha Đắc Lộ từ chối vì Anrê
còn trẻ, hơn nữa trong thời buổi cấm đạo việc di chuyển của đoàn truyền giáo có
đông người là điều nên tránh. Tuy nhiên rồi cha đã phải thua sự kiên trì nài nỉ
của Anrê và của người mẹ đạo đức, đến không để van xin cho con út quý yêu của
mình được ‘ngồi bên tả hay bên hữu’ mà đến để van xin được đồng hành yêu mến và
làm chứng cho Chúa Giêsu. Thế là năm 1642, Anrê khăn gói lên đường với cha Đắc
Lộ về Hội An, theo học trường “Thầy giảng Hội An” do cha thành lập.
Hoàn cảnh xã hội ngày nay tạo ra một thực
tế là phần đông các gia đình đều ít con, do đó các gia đình thường ngại dâng
hiến con cái mình cho Chúa. Thế nhưng gia đình nào quảng đại với Chúa thì sẽ
cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa không bao giờ chịu thua sự quảng đại của chúng
ta. Ước gì ngay khi con cái còn nhỏ, cha mẹ đã giúp chúng cảm nghiệm được nhu
cầu lớn lao của Giáo Hội và nhân loại, cảm
nghiệm được tiếng gọi thúc bách của Chúa Cứu Thế. Cả khi các cháu bắt đầu lớn,
cũng đừng ngần ngại gợi ý các cháu dâng mình cho Chúa. Gieo được ý thức ấy vào
lòng các cháu, dù chúng không trở thành linh mục hay tu sĩ thì ít ra
chúng cũng trở nên những người có tấm
lòng, những người tốt.
“Việc
chuẩn bị hôn nhân phải được xem xét và thực hiện theo một tiến trình tuần tự và
liên tục. Thật vậy, nó gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và
chuẩn bị tức thì.
Việc chuẩn bị xa bắt đầu từ thời thơ ấu, là hướng dẫn để
con cái biết tự chủ và biết sử dụng đúng đắn các xu hướng riêng của mình, để biết
cách nhận xét và gặp gỡ những người khác phái, và những chuyện khác như thế.
Ngoài ra, còn phải có một sự đào tạo vững chắc về đời sống thiêng liêng và giáo
lý, để hiểu được rằng hôn nhân là một ơn gọi và là một sứ mạng đích thực, nhưng
vẫn không loại trừ khả năng tận hiến cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục hoặc
tu sĩ.
Việc
chuẩn bị gần sẽ dựa
trên nền tảng ấy và là một công cuộc lâu dài: Trình bày hôn nhân như một tương
quan liên vị phải được phát triển liên tục giữa người nam và người nữ, khuyến khích
các cháu đào sâu những vấn đề về tính dục hôn nhân và về việc làm cha mẹ có
trách nhiệm, với những hiểu biết cốt yếu gắn liền với các vấn đề ấy trong lãnh
vực sinh lý và y học, và đưa họ tới chỗ làm quen với những phương pháp tốt để
giáo dục con cái; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có được những yếu tố
cơ bản cho một nếp sống gia đình ổn định, như việc làm chắc chắn, đủ điều kiện
tài chánh, quản lý khôn ngoan, có khái niệm về kinh tế gia đình vv...
Việc
chuẩn bị liền trước cuộc cử hành bí tích phải
diễn ra trong những tháng cuối và nhất là trong những tuần trước lễ cưới để
mang lại một ý nghĩa mới, một nội dung mới và một hình thức mới cho việc quen
gọi là điều tra hôn phối mà giáo luật đòi buộc. Một việc chuẩn bị như thế vốn
cần thiết cho tất cả mọi trường hợp, lại càng khẩn cấp hơn cho những đôi hôn
phối còn gặp nhiều thiếu sót và khó khăn về mặt giáo lý và thực hành Kitô
giáo.” (Tông Huấn Gia Đình, số 66)
Phần
đông con cái anh chị em sẽ bước theo ơn gọi hôn nhân. Chính cuộc sống của bậc
cha mẹ phải là tấm gương giúp con cái thấy rõ hôn nhân là một con đường nên
thánh.
Bí tích
hôn nhân mời gọi đôi bạn mỗi ngày phải sống việc thánh hóa bản thân và thánh
hóa gia đình. Cũng do bí tích ấy họ có bổn phận và được ban ơn để biến đổi toàn
thể đời sống họ thành một “hy lễ thiêng liêng” liên tục. Như lời Công Đồng dạy:
“Như thế, giáo dân cung hiến cho Thiên Chúa chính thế giới này nhờ biết phụng
thờ Ngài khắp nơi bằng đời sống thánh thiện của họ” (Hiến chế Tín lý Ánh sáng Muôn dân, số 34).
Muốn con
cái nên người, cha mẹ cần theo đuổi lý tưởng nên thánh. Đừng sợ gieo cho con
cái ý tưởng nên thánh và nên thánh lớn ngay giữa đời thường. Đừng lo sợ một
cách sai lầm rằng nếu các em theo đường tâm linh là mình mất con! Thành quả lớn
nhất của giáo dục là đào tạo được con cái thành những vị thánh. Chúng ta cần
giúp con cái xác tín rằng mình được gọi sống với Thiên Chúa, giúp con cái khao
khát trở nên người con tự do, biết làm chủ bản thân và biết dùng mọi sự theo ý
Cha trên trời.
Tiếp tục suy nghĩ về giáo dục gia đình,
chúng ta cùng suy nghĩ về việc chọn sách vở cho con cái.
Trong Tiểu Sử Tự Thuật, chương 1, Thánh
nữ Têrêxa Avila viết: “Cha tôi rất thích đọc những sách đạo đức và người cũng
sắm nhiều sách bằng quốc ngữ cho con cái đọc nữa. Cùng với sự ân cần mẹ tôi dạy
chúng tôi cầu nguyện và gây cho chúng tôi lòng sùng kính đối với Đức Mẹ và các
thánh, những sách ấy bắt đầu nhen nhúm những ước muốn thánh thiện trong tôi khi
tôi mới được chừng sáu hay bảy tuổi.” Thế nhưng ở chương tiếp theo, Thánh Nữ
lại cho biết mẹ ngài thích đọc sách kiếm hiệp, khiến ngài cũng bắt chước mà đọc
say mê và vì thế mà phai lạt hết lòng đạo đức đã có trước đó.
Thánh nữ ghi lại cả hai mặt lợi hại của
việc đọc sách, để nhắn nhủ các bậc làm cha mẹ phải quan tâm tới việc đọc sách
của con cái.
Như thế là cha mẹ có trách nhiệm phải
chọn sách cho con cái. Mỗi gia đình cần có một tủ sách, cả cho người lớn và trẻ
em. Không chỉ gồm Thánh Kinh, sách kinh, sách giáo lý mà còn gồm cả những sách
bổ ích cho việc trau giồi kiến thức và giải trí.
Ngày nay, trẻ em của chúng ta đọc rất
nhiều sách vô bổ, còn những sách đáng xem thì chẳng bao giờ động đến. Điều đó
khiến một số người chống chế khi nghe nói tới một tủ sách gia đình. Thế nhưng
kinh nghiệm của Thánh Inhaxiô, vị sáng lập Dòng Tên, sẽ khích lệ chúng ta. Vị
thánh này trước kia là một hiệp sĩ, chỉ thích đọc chuyện kiếm hiệp. Đến khi bị
thương phải nằm điều trị, ông muốn đọc sách kiếm hiệp nhưng trong tủ sách bệnh
viện chỉ có sách về Gương Chúa Giêsu và về cuộc đời các thánh. Ông đã đọc cho
đỡ buồn nhưng rồi nhờ đó mà được ơn Chúa đánh động, trở nên một tín hữu nhiệt
thành, một linh mục tông đồ và một vị thánh lớn.
Thế nhưng nếu thấy cha mẹ đọc, một lúc
nào đó các em sẽ đọc.
Nên khuyến khích con em hưởng ứng hội thi
đọc sách giáo xứ.
Tủ sách gia đình cũng còn là nơi cất giữ
những CD phim ảnh và âm nhạc lành mạnh, có giá trị giáo dục cao về giáo lý cũng
như về nhân bản.
Nên nhờ các vị đặc trách về văn hoá trong
giáo xứ hoặc nhờ các giáo lý viên đến xem tủ sách và cho ý kiến. Cũng có thể
nhờ các vị mua giúp những sách khó kiếm tại địa phương.
Nói đến truyền thông xã hội là nói đến
sách vở, báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, là những phát
minh tân kỳ của kỹ thuật ngày nay, đang trở thành những lợi khí sắc bén nhất
trong việc đem tin tức, hình ảnh, quảng bá tư tưởng và lối sống đến cho mọi
người ở khắp nơi trên thế giới, gây nên những hiệu quả tốt xấu trái ngược. Công
Đồng Vaticanô II đã dùng một trong 16 văn kiện của mình để hướng dẫn Dân Chúa
về vấn đề này. Trong đó, ở số 16-18, chúng ta đọc thấy:
“Để xử dụng đúng đắn các phương tiện
truyền thông xã hội, những người xử dụng thuộc những tuổi tác và văn hóa khác
nhau cần phải được huấn luyện về lý thuyết và phần thực hành một cách thích hợp
và riêng biệt. Để mau đạt tới kết quả, lớp giáo lý cũng phải có phần trình bày
và giải thích giáo thuyết và quy luật công giáo về vấn đề này.
Thánh Công Đồng này nhắc lại cho các con
cái của Giáo Hội bổn phận phải nâng đỡ và trợ giúp các nhật báo công giáo, các
tạp chí, các tổ chức phim ảnh, các đài và các chương trình phát thanh, phát
hình công giáo nhằm mục đích chính là để phổ biến và bảo vệ sự thật, và cung
cấp nền giáo dục Kitô giáo cho xã hội loài người. Đồng thời Thánh Công Đồng
khẩn khoản mời gọi các đoàn thể và cá nhân có nhiều năng lực trong lãnh vực
kinh tế và kỹ thuật, hãy tự ý và rộng rãi dùng tài nguyên và kinh nghiệm của
mình mà nâng đỡ những phương tiện này khi chúng phục vụ nền văn hóa đích thực
và việc tông đồ.
Mọi giáo phận trên thế giới hằng năm phải
cử hành một ngày lễ để dạy dỗ các tín hữu về bổn phận của họ đối với vấn đề
này, mời gọi họ cầu nguyện nhiều theo ý chỉ này, và xin họ đóng góp cho mục
đích này: nghĩa là thành thật hy sinh cho việc phát động, nâng đỡ và cổ võ
những tổ chức và sáng kiến của Giáo Hội trong vấn đề này theo nhu cầu của thế
giới công giáo.”
Giáo huấn Công Đồng nhắc nhở giáo dân cần
phải ý thức về tầm quan trọng của truyền thông xã hội, mời gọi mọi người cổ võ
việc xuất bản báo chí lành mạnh và hữu ích, phim ảnh mỹ thuật thuần túy, giúp
phổ biến những tin tức, bình luận xác thực, xây dựng: để nâng cao tâm trí, mưu
ich cho xã hội và tôn giáo.
Công Đồng cũng nhắc nhở mọi người, nhất
là các phụ huynh, cần phải rèn luyện trí phán đoán, phân biệt điều hay, việc
dở, hướng dẫn cho các bạn trẻ biết đường lựa chọn. Ngoài việc phải giúp con cái
tránh những sách vở, báo chí và phim ảnh đồi trụy đang phổ biến khắp nơi, bậc
cha mẹ ngày nay còn cần phải quan tâm hướng dẫn con cái biết sử dụng internet cách
hữu ích. Đây là một lãnh vực phức tạp, bậc làm cha mẹ cần trao đổi với các phụ
huynh khác để có được những kinh nghiệm thực tế.
“Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy,
luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện
không ngừng… Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến phục: và Chúa cho cộng
đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42.47).
Những lời ấy đã trở nên một khuôn mẫu cho
mọi cộng đoàn Hội thánh, từ giáo phận, giáo xứ cho đến Hội thánh tại nhà là các
gia đình. Một nếp sống Hội thánh trưởng thành với 5 sự chuyên cần:
Một chuyên: chuyên cần giáo lý.
Hai chuyên: vững chí hiệp thông.
Ba chuyên: bền lòng phụng vụ.
Bốn chuyên: vui thú nguyện cầu.
Năm chuyên: cùng nhau làm chứng.
Trước hết, về giáo lý, cần giúp con em
sớm tiếp xúc với Lời Chúa. Bổn phận đó trước hết là của gia đình, như lời Đức
Giáo Hoàng dạy: “Trong nhiều hoàn cảnh ngày nay, việc dạy giáo lý ở gia đình đã
trở nên cần thiết đến mức tuyệt đối” (Tông huấn Gia đình 52đ).
Thứ hai, để xây dựng tình hiệp thông gia
đình, mọi người trong nhà cần phải quyết
tâm không để bất cứ điều gì làm cho chia lìa nhau, mau mắn giao hòa với nhau,
tha thứ cho nhau mỗi khi có điều gì xúc phạm đến nhau. Mỗi người cần cố gắng
riêng phần mình và tìm cách để tạo bầu khí chung.
Thứ ba, bền lòng phụng vụ. Mỗi tín hữu và
mỗi gia đình cần tranh thủ để tham dự đều đặn các thánh lễ Chúa nhật, và nếu
được, cả thánh lễ ngày thường. Những nơi thiếu linh mục, không có thánh lễ,
chúng ta cố gắng tham dự các buổi phụng vụ Lời Chúa và rước Mình Thánh Chúa
trong các Chúa nhật. Nhớ xưng tội thường xuyên để có thể rước lễ đều đặn. Thật
là tốt đẹp nếu cả gia đình thường xuyên cùng đi tham dự thánh lễ với nhau.
Thứ tư, vui thú nguyện cầu: Các gia đình
chúng ta ngày nay cũng cần nhớ lời Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện luôn luôn,
không được nản chí, phải tỉnh thức mà cầu nguyện (Lc 18,1; Mc 14,38). Cách
riêng là giờ kinh chung sáng tối. Để kinh nguyện thấm sâu vào đời sống và để
giờ cầu nguyện chung thêm phong phú, mỗi người trong gia đình cần phát huy một
đời sống cầu nguyện cá nhân: Thích đọc Lời Chúa riêng, suy gẫm riêng, lần hạt
riêng, tập chiêm niệm trong đời sống, tập cầu nguyện đang khi làm việc…
Thứ năm, cùng nhau làm chứng cho Chúa
Kitô. Đó là lệnh chính Chúa truyền cho các môn đệ trước khi về trời. Tiếp nối
gương các thánh tử đạo, các gia đình công giáo Việt Nam làm chứng bằng đời sống
thánh thiện, bằng công việc phục vụ tận tâm và khiêm nhường trong lối xóm,
trong các môi trường lao động và bất cứ nơi nào mình được sai đến.
Là Hội Thánh tại gia, nếp sống gia đình
công giáo phải là nếp sống 5 chuyên cần, như trong thư chung 1980, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã từng nhắn nhủ:
“Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để
cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông
đồ để làm chứng nhân cho Chúa” (số 12c).
Kinh nghiệm mục vụ cho thấy tình yêu
thương hiệp nhất của cộng đoàn là một sức hút mãnh liệt lôi cuốn người ngoài
đến với Hội Thánh. Vì thế, mọi giáo xứ, giáo họ, mọi gia đình và mọi người
trong giáo phận cần cam kết bảo vệ và phát huy sự hiệp nhất.
Một cách cụ thể, tình hiệp nhất cần bắt
đầu từ gia đình nhỏ tới gia đình lớn, rồi đến họ hàng và thông gia. Để bảo vệ
và xây dựng sự hiệp nhất, cần bắt đầu từ chính mình, theo gương Chúa Kitô, Đấng
đã hạ mình đến tận cùng để giao hòa loài người với Thiên Chúa và nối kết mọi
người với nhau. Vì ích chung, mỗi người cần biết xóa hẳn mình đi, dẹp bỏ tự ái
và sẵn lòng nhường chỗ cho người khác. Sức mạnh để xóa mình cho hiệp nhất chính
là Chúa Giêsu Thánh Thể. Mỗi lần rước lễ, ta cần nhắc lại lời cam kết xóa mình
cho hiệp nhất.
Tại gia đình, tình hiệp nhất được biểu lộ
nơi các bữa ăn và nơi giờ kinh tối. Ước gì mỗi gia đình con cái Chúa thực sự là
một góc thiên đường giữa trần gian, nhờ biết tha thứ, yêu thương, đùm bọc nhau
và biết nhắc bảo nhau sống thật tốt lành.
Tại giáo xứ, tình hiệp nhất lộ rõ nơi mọi sinh hoạt, cách riêng là nơi
thánh lễ, nhất là thánh lễ Chúa Nhật. Mọi người cần tích cực góp phần vào những
sinh hoạt ấy.
“Nơi gia
đình Nadarét, do ý
định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật nhiều năm tháng.
Bởi vậy, gia đình ấy là nguyên mẫu và là tấm gương cho mọi gia đình Kitô hữu.
Và Gia Đình ấy có một không hai trong thế giới, đã trãi qua một cuộc sống âm
thầm và lặng lẽ trong một thị trấn nhỏ Palestina; đã bị thử thách do sự nghèo
khổ, bắt bớ và lưu đầy; đã tôn vinh Thiên Chúa một cách trổi vượt và tinh
khiết, sẽ không quên cứu giúp các gia đình Kitô hữu và cả mọi gia đình trên thế
giới, để họ trung thành với các bổn phận hằng ngày của họ, để họ biết cách chịu
đựng những âu lo và xáo trộn trong cuộc sống, để họ quảng đại mở lòng ra trước
những nhu cầu của người khác, để họ vui vẻ hoàn tất chương trình Thiên Chúa đã
định cho họ.
Ước gì
thánh Giuse, là “người công chính”, là người công nhân không biết mỏi mệt, là
người bảo vệ nguyên vẹn tuyệt đối những gì đã được ủy thác, luôn luôn gìn giữ
các gia đình ấy, bênh vực họ, soi sáng cho họ!
Ước gì
Đức Trinh Nữ Maria, là Mẹ của Giáo Hội, cũng trở nên Mẹ của “Giáo Hội tại gia”!
Ước gì nhờ sự trợ giúp từ mẫu của Mẹ, mỗi gia đình Kitô hữu đều có thể thực sự
trở nên một “Giáo Hội nhỏ”, trong đó mầu nhiệm của Giáo Hội Đức Kitô được phản
ảnh và sống lại! Mẹ là Nữ Tỳ của Chúa, ước gì Mẹ là gương mẫu cho mọi gia đình
biết khiêm tốn và quảng đại đón nhận ý của Thiên Chúa! Mẹ là Người Mẹ đau khổ
dưới chân thập giá, ước gì Mẹ cũng ở đó để xoa dịu những đau khổ và lau sạch
nước mắt của những ai đang ưu phiền vì những khó khăn gia đình họ đang gặp
phải!
Và ước
gì Chúa Kitô,
là Vua vũ trụ, là Vua các gia đình, Đấng đã hiện diện ở Cana, cũng hiện diện
trong mỗi tổ ấm
Kitô hữu, để thông ban cho nó ánh sáng niềm vui, sự bình an và sức mạnh. Hôm
nay là đại lễ kính Vương quyền của Ngài, tôi cầu xin Ngài cho mọi gia đình biết
quảng đại đóng góp phần độc đáo của mình, để Vương quốc Ngài được hiển trị trên
thế giới, “Vương quốc của sự sống và sự thật, của ơn sủng và thánh thiện, của
công lý, tình yêu và hoà bình”, Vương quốc mà lịch sử đang lần bước tiến về. (Đức Gioan Phaolô II, Tông
Huấn Gia Đình, số 86)
“Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình
một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và
tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá
nhân và xã hội được dễ dàng.” (Tuyên Ngôn Giáo Dục Kitô Giáo, số 3)
Giáo dục không phải là dạy học. Người ta không
thể chia các đức tính tốt thành một giáo trình giảng huấn, mỗi năm mấy môn, mỗi
môn mấy tiết học… Trong việc giáo dục, sẽ không thể xé lẻ ra từng điểm, nhưng
phải nhào trộn tất cả thành một bầu khí có khả năng giúp mỗi người trong gia
đình triển nở và đạt tới được những điểm ấy.
Bầu khí ấy phải là một bầu khí hạnh phúc
và thánh thiện, ở đó mỗi người đều có thể yêu thương và cảm thấy mình được yêu
thương, ở đó mỗi người đều thấy mình được tín nhiệm và có thể tín nhiệm người
khác, mỗi người đều cảm thấy mình được lớn lên thật sự trong tương quan với mọi
người và với Thiên Chúa.
Không cần phải nhiều tiện nghi cũng không
cần phải sung túc mới có được bầu khí đó, nhưng cần phải có một cái nhìn rõ rệt
đầy xác tín thế nào là hạnh phúc thật. Cần phải tin tưởng vững chắc rằng hạnh
phúc chúng ta kiếm tìm trước hết phải là hạnh phúc siêu nhiên: Ở đâu có Thiên
Chúa, ở đó có hạnh phúc. Điều chênh lệch thực sự giữa tình trạng hạnh phúc và
tình trạng bất hạnh chính là ở chỗ ta có cảm nhận được có Chúa đang ngự trong
gia đình hay không.
Khi cải cách dòng Cát Minh, Thánh Nữ
Têrêxa có cao vọng biến mỗi cộng đoàn tu sĩ thành một góc thiên đường, nhờ mỗi
người đều biết sống yêu thương, khiêm nhường và từ bỏ. Ngày nay, chính Thiên
Chúa cũng đang ước mơ thực hiện điều ấy cho mỗi gia đình anh chị em, để ngay
giữa thế gian này mỗi gia đình anh chị em đã là một góc thiên đường.
Tông Huấn Gia Đình, số 22 và 24 nêu 3 ý
lớn:
1. Người phụ nữ có phẩm
giá và trách nhiệm bình đẳng với phẩm giá và trách nhiệm của người nam. Thiên
Chúa lại bày tỏ phẩm giá của người nữ cách cao cả hết sức có thể khi chính Ngài
mặc lấy xác thịt từ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a mà Giáo Hội tôn kính như Mẹ Thiên
Chúa, gọi Mẹ là E-và mới và giới thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của người nữ đã được
cứu chuộc.
2.
Đáng tiếc là hiện nay trong xã hội vẫn tồn tại một tâm thức sai lạc nhìn
con người không phải như một ngôi vị, nhưng như một đồ vật, một món hàng mua
bán, để phục vụ cho lợi thú ích kỷ và lạc dục. Nạn nhân đầu tiên của tâm thức
ấy là người phụ nữ. Tâm thức ấy gây ra những kết quả thật cay đắng, như sự
khinh rẻ người nam và người nữ, tình trạng nô lệ, việc áp bức những người yếu
đuối, sách báo phim ảnh khiêu dâm, nạn mãi dâm và mọi thứ kỳ thị
gặp phải trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp và phân phối công việc v.v...
3. Thượng Hội Đồng Gíam Mục về gia đình kêu gọi
tất cả mọi người hãy dấn thân hành động để có thể loại bỏ hẳn những kỳ thị ấy,
và để nhờ đó mà đạt tới chỗ kính trọng trọn vẹn hình ảnh Thiên Chúa đang chiếu tỏa
nơi mọi người chẳng trừ ai.
Áp dụng giáo huấn ấy vào phạm vi gia
đình, chúng ta cần biết tri ân đón nhận con cái Thiên Chúa ban, không phân biệt
giới tính. Cần dạy các cháu trai ngay từ nhỏ biết tôn trọng nữ giới và dạy con
gái ngay từ nhỏ phải biết tự trọng.
Ở đây cũng cần nói riêng về y phục. Y
phục không những để che thân và trang hoàng thể xác mà còn để giúp ta giữ nết
na trong sạch, xứng đáng con cái Chúa. Nước ta từ xưa đã có những cách ăn mặc
kín đáo, nết na, được các nước khen ngợi. Thế nhưng với làn sóng văn minh tiêu
thụ, nhiều kiểu ăn mặc lố lăng mất nết đang phá hoại nền phong hoá nước nhà, và
nó cũng còn xâm nhập cả vào nơi nghiêm trang thờ phượng. Người công giáo phải
cương quyết tránh những cách ăn mặc hở hang, những hàng vải thưa mỏng, những
kiểu may bó sát, những kiểu cách khêu gợi, lố lăng và mất nết. Người phụ nữ
công giáo cần nhớ lời dạy của thánh Phêrô: “Ước chi vẻ duyên dáng của chị em
không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa;
nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư
hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa.
Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là những người trông cậy vào Thiên Chúa, cũng
đã trang điểm như thế” (1Pr 3,3-5).
Thánh nữ Têrêxa Avila viết về bà mẹ của
ngài rằng: “Mẹ tôi cũng là một phụ nữ nhân đức, đoan trang, tiết hạnh và suốt
đời mang bệnh. Dù rất nhan sắc, người chẳng bao giờ màng đến điều ấy; và dẫu
chết lúc mới ba mươi ba tuổi, người đã trang sức như những bậc cao niên. Mẹ tôi
là một phụ nữ rất trầm tĩnh và rất thông minh. Suốt đời, người đã chịu nhiều
thử thách cam go và chết một cách thánh thiện.”
Và
một phụ nữ như thế sinh ra một người con đại thánh thì chẳng có gì đáng
ngạc nhiên.
“Bên
trong sự hiệp thông của cộng đồng hôn nhân và gia đình, người nam được mời gọi
sống sự tự hiến của mình trong vai trò là chồng và là cha.
Tình vợ
chồng đích thực giả thiết và đòi hỏi rằng người chồng phải có sự kính trọng sâu
xa đối với phẩm giá của vợ mình, như thánh Ambrôsiô đã viết: “Con không phải là
chủ của nàng nhưng là chồng nàng; nàng được trao cho con để làm vợ chứ không
phải làm nô lệ ... Hãy đáp lại những quan tâm lo lắng nàng đã
dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng”. Người chồng phải sống với vợ
mình bằng một “tình bạn trong ngôi vị thật đặc biệt”. Nếu là Kitô hữu, người
chồng còn được mời gọi phát triển một thái độ yêu thương mới mẻ, để diễn tả với
vợ mình tình bác ái tế nhị và mạnh mẽ mà Chúa Kitô đã có đối với Giáo Hội.
Tình yêu
đối với người vợ đã trở thành mẹ, và tình yêu đối với con cái là con đường tự
nhiên đưa người nam đến chỗ hiểu biết và thể hiện việc làm cha của mình. Kinh
nghiệm cho thấy, sự vắng mặt của người cha gây ra những sự thiếu quân bình tâm
lý và tinh thần, cũng như nhiều khó khăn đáng kể khác trong các tương quan gia
đình; nhưng ngược lại, cũng sẽ xảy ra như thế nếu sự hiện diện của người cha
lại có tính cách áp bức, nhất là ở những nơi còn có hiện tượng mà người ta gọi
là "đề cao đàn ông", nghĩa là khi những lợi điểm nam tính được đề cao
quá đáng làm giảm giá phụ nữ và cản trở sự phát triển các mối tương quan lành
mạnh trong gia đình.
Khi biểu
lộ tình cha của Thiên Chúa và sống lại tình cha ấy trên mặt đất này, người nam
được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành phần trong
gia đình. Để chu toàn trách vụ này, người cha cần phải quảng đại lãnh lấy trách
nhiệm đối với sự sống được thai nghén trong lòng người mẹ, cần phải chú tâm
chia sẻ cố gắng giáo dục con cái với vợ mình, công việc ấy sẽ không bao giờ làm
chia rẽ gia đình, nhưng làm cho gia đình được vững mạnh trong sự hiệp nhất và
ổn định, nên một lời chứng về đời sống Kitô hữu trưởng thành để hướng dẫn con
cái vào trong kinh nghiệm sống động về Chúa Kitô và về Giáo Hội một cách hữu
hiệu hơn.” (Tông Huấn Gia Đình, số 25)
Phẩm giá người nam là chồng và là cha
thật cao cả. Thế nhưng ngày nay, phẩm giá ấy luôn có nguy cơ bị tàn phá vì nạn
uống rượu. Tệ nạn say sưa đã tàn phá không biết bao nhiêu gia đình trên thế
giới. Tệ nạn ấy đưa đến những tội lỗi khiến Trái Tim Chúa vô cùng đau đớn. Ước
gì Anh Em là những người chồng, người cha đã được chịu phép rửa tội, luôn ý
thức về phẩm giá cao quý của mình và cương quyết giữ đúng phẩm cách người công
giáo. Anh Em hãy can đảm lên, để bảo đảm hạnh phúc cho mình và cho gia đình, để
bảo đảm sự nên người của con cái.
“Có những
nền văn hóa biểu lộ một sự kính trọng đặc biệt và một tình yêu thương lớn lao
đối với những người cao niên: thay vì bị gạt ra khỏi gia đình hoặc bị coi như
một gánh nặng vô ích, người già vẫn được hội nhập vào cuộc sống gia đình, tiếp
tục dự phần vào đó một cách tích cực và có trách nhiệm - dù vẫn phải tôn trọng
sự độc lập của gia đình mới - và nhất là thi hành một sứ mạng quý báu là trở
nên chứng nhân cho quá khứ và nguồn mạch khôn ngoan cho các người trẻ và cho
tương lai.
“Ngược
lại, có những nền văn hóa khác, nhất là do hậu quả của sự phát triển kỹ nghệ và
đô thị một cách vô trật tự, đã đưa và còn tiếp tục đưa những người cao niên vào
những hình thức sống ngoài lề không thể chấp nhận được, là nguyên nhân gây ra
nhiều đau khổ chua cay cho họ, và làm cho biết bao gia đình bị nghèo nàn đi về
mặt tinh thần.
“Hoạt
động mục vụ của Giáo Hội cần phải khuyến khích mỗi người biết khám phá và coi trọng
vai trò của những người già trong cộng đồng dân sự và Giáo Hội, và cách riêng
trong gia đình. Trong thực tế, cuộc sống của những người già giúp chúng ta thấy
rõ bậc thang các giá trị nhân bản; làm cho người ta thấy sự tiếp nối các thế hệ
và chứng tỏ cách tuyệt diệu về sự tùy thuộc lẫn nhau của Dân Thiên Chúa. Ngoài
ra, những người cao niên còn có đặc sủng vượt qua những hố phân cách giữa các
thế hệ trước khi chúng xuất hiện. Biết bao trẻ em đã gặp được sự thông cảm và
tình thương trong đôi mắt, trong những lời nói và những vuốt ve âu yếm của
những người già! Và biết bao nhiêu người già vui hưởng những lời được linh ứng
trong Kinh Thánh rằng: “Triều thiên của người già là đàn con cháu của họ” (Cn
17,6). (Tông Huấn Gia Đình, số 27)
Truyền thống Việt Nam kính trọng người
già không chỉ trong gia đình và gia tộc nhưng cả ngoài làng xóm. Những đổi thay
của xã hội đang có nguy cơ làm phai nhạt tâm tình đáng quý này. Phần đông các
gia đình vẫn còn rất hiếu kính với người già và chăm sóc chu đáo, nhưng cũng có
một số gia đình sao lãng. Chúng ta cần nhắc nhở các cháu biết kính yêu người
già trong làng xóm, nhờ đó các cháu sẽ thêm kính yêu các bậc lão thành trong
gia đình và gia tộc.
“Trước sự bất chính do tội lỗi gây ra
thường ngăn cản gia đình không thể thực sự tự thể hiện chính mình và không thể
sử dụng các quyền căn bản của mình, tất cả chúng ta phải chống lại bằng một sự
hoán cải trong tinh thần và con tim, bao gồm việc từ bỏ ích kỷ riêng mình để
bước theo Chúa Ki-tô thập giá: một sự hoán cải như thế không thể nào không gây
một ảnh hưởng hữu ích và có sức canh tân trên chính các cơ cấu xã hội.” (Tông
Huấn Gia Đình, số 9)
Để
chiến thắng tội lỗi, để không sa đi ngã lại, anh chị em cần tìm ra nguyên nhân
tại sao mình vấp phạm, những dịp nào thường khiến mình vấp phạm. Diệt được
nguyên nhân, sẽ diệt được hậu quả. Còn nuôi dưỡng nguyên nhân, sớm muộn cũng
gặt hậu quả. Nguyên nhân của tội lỗi nằm sâu hơn các dịp tội. Nguyên nhân tội
lỗi nằm ở nơi những xu hướng xấu trong lòng ta, mà chúng ta quen gọi là bảy mối
tội đầu. Kiêu ngạo, ham của, mê dâm, nóng giận, mê ăn uống, ganh ghét, lười
biếng là bảy mối tội đầu. Những mối tội đầu này rất nguy hiểm vì chúng là những
căn nguyên đưa đến các tội lỗi khác: Lún sâu vào một mối nào trong các mối tội
đầu ấy người ta đều dần dần mất hết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và mất hết tin,
cậy, mến.
Cần dám nhìn thẳng vào những xu hướng xấu
của mình, cần dám thẳng thắn nhận lỗi, cần dám tự tố cáo mình thì mới dứt khoát
được.
Muốn chiến thắng tội lỗi, phải xa lánh
các dịp tội. Còn lân la với dịp tội, trước sau gì cũng vấp ngã. Một người có
quan hệ bất chính với một ai đó thì phải tuyệt đối tránh gặp người ấy. Một
người hay bài bạc hoặc nghiện rượu, cần tránh gặp những người bạn dễ đưa mình
tới những sai phạm ấy. Để tránh những tư tưởng xấu, cần tránh những câu chuyện
thiếu đứng đắn, những sách báo và phim ảnh vô luân hoặc những gì khêu gợi. Phải
cẩn thận canh chừng đôi mắt: “Đèn của thân thể tức là mắt. Nếu mắt ngươi đơn
thuần, thì toàn thân ngươi sẽ sáng láng” (Mt 6, 22).
Muốn chiến thắng tội lỗi, đừng bào chữa
cho những tội trong quá khứ và cần biết dứt khoát với mọi tội trong hiện tại.
Những tội trong quá khứ thì đã qua rồi, lắm khi không còn đáng sợ nữa. Chính
những tội ta còn ôm ấp trong hiện tại mới đáng sợ.
Sau cùng, muốn chiến thắng tội lỗi, cần
biết tạo cho mình một môi trường tốt. Năng xem sách tốt, giao thiệp với những
người đứng đăn, chăm chỉ làm việc, siêng năng lãnh nhận các bí tích và nhất là
năng chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin mừng, tâm hồn ta sẽ luôn tươi sáng.
Sửa đổi con người
mình, quả là gánh nặng hơn mọi gánh nặng. Thế nhưng hãy vững tin đến với Trái
Tim Chúa Giêsu. Chính Ngài đã hứa: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tất cả
hãy đến với Ta, Ta sẽ cho được nghỉ nơi lại sức” (Mt 11,28). Hãy đến với Chúa
Giêsu và trút hết cho Ngài mọi gánh nặng, kể cả gánh nặng tội lỗi, để Ngài ủi
an và nâng đỡ.
“Cần phải có một sự hoán cải liên lỉ trường
kỳ. Sự hoán cải vừa đòi hỏi phải thoát ly từ bên trong khỏi mọi sự dữ và gắn bó
với sự lành toàn diện, vừa diễn ra một cách cụ thể như một chương trình luôn
đưa người ta đi xa hơn. Như thế có một tiến trình năng động được phát triển, từ
từ tiến tới trước, nhờ biết dần dần đem các ơn Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình
yêu quyết liệt và tuyệt đối của Ngài hội nhập vào trong đời sống bản thân và xã
hội của con người.” (Tông Huấn Gia Đình, số 9)
Hoán cải phải gồm 2 động tác mới trọn
vẹn: Rời bỏ đường cũ rồi phải bước theo đường mới, dứt khoát với tọi lỗi rồi
còn phải gắn bó với Chúa Kitô.
Gắn bó với Chúa Kitô trên đường mới là
tin, cậy, mến. Đó là ba nhân đức hướng thần. Những nhân đức này gọi là hướng
thần hoặc có tính Thiên Chúa, vì hai lý do, thứ nhất là vì chúng hướng tới
Thiên Chúa, thứ hai là vì chúng là ơn Thiên Chúa ban chứ không phải tự sức
người mà có được. Về những nhân đức luân lý, chúng ta có thể cùng một mẫu số
chung với anh chị em các tôn giáo khác, nhưng ba nhân đức hướng thần là gia sản
riêng của Kitô Giáo, không có ở đâu khác. Chính vì thế, chúng ta cần quan tâm
phát huy những ơn đặc biệt này của Chúa.
Tin là suy phục chủ quyền của Thiên Chúa
trên đời ta, phó thác sinh mạng và tương lai của ta cho Chúa, để cho Ngài làm
chủ và điều khiển mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của ta. Tin là mau mắn và vui
vẻ vâng nghe tiếng Chúa trong lòng ta,
là luôn đứng về tiếng Chúa trong mỗi giây phút đời ta.
Cậy là nương tựa vào Thiên Chúa mà cố
gắng hết sức ta, dù ta rất yếu đuối. Có Chúa là sức mạnh luôn ở với ta (x. Mt
28,20; Ga 16,33) và bênh vực ta (Rm 8,31), dù gặp khó khăn thử thách đến đâu, ta vẫn vững lòng không nao núng. Ta biết Chúa
thương ta và sẽ đưa ta tới bờ bến tốt đẹp nhất của đời người. Trông cậy cũng là
tin tưởng vào mọi lời Chúa hứa: Ai bỏ mọi sự vì Chúa sẽ được gấp trăm ở đời này
và được sự sống hạnh phúc ở đời sau (Mc 10,28-31; 2Tm 2,11-12).
Yêu mến Thiên Chúa là tha thiết tìm kiếm
Ngài, tìm kiếm vinh quang Ngài và ý muốn Ngài. Yêu mến Chúa là luôn hướng lòng
về Chúa, ước ao kết hợp với Chúa. Yêu mến Chúa là luôn làm đẹp lòng Chúa và
mong muốn nên giống Chúa trong mọi sự. Chúa muốn ta yêu mến Chúa hết lòng, hết
sức, hết linh hồn ta, và vì yêu mến Chúa thì cũng yêu mọi người anh em như
chính mình ta.
Cách đơn giản nhất để
thường xuyên sống ba nhân đức hướng thần là luôn nhớ Chúa đang hiện diện, sống
như thấy Chúa đang nhìn, và chu toàn bổn phận hiện tại với tình yêu mến.
Việc truyền giáo phải đặt nền trên đời
sống bác ái, như Đức Phaolô 6 đã viết trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng,
số 28: “Việc Phúc âm hóa cũng bao hàm sự rao
giảng niềm hy vọng vào các lời Chúa hứa; rao giảng tình thương yêu của Thiên
Chúa đối với chúng ta, và tình yêu thương của chúng ta đối với Thiên Chúa; rao
giảng tình thương yêu huynh đệ đối với mọi người, qua khả năng trao tặng, tha
thứ, từ bỏ và giúp đỡ anh em; phát xuất từ tình thương yêu của Thiên
Chúa, tình thương yêu này là nòng cốt của việc phúc âm hóa.”
Trong Tông huấn về Gia đình, số
44, Đức Gioan Phaolô II nêu rõ tình thương ấy trước hết phải thể hiện ở gia
đình: “Trong xã
hội chúng ta cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng lớn của lòng hiếu
khách, dưới mọi hình thức của nó hoặc chỉ đơn giản là để mở rộng cửa nhà mình.
Hơn nữa, mở rộng lòng mình trước những nhu cầu của anh chị em chúng ta, hoặc
còn đi đến chỗ dấn thân cụ thể để bảo đảm cho mỗi gia đình có được nơi ăn chốn
ở cần thiết như một môi trường tự nhiên để bảo vệ và làm cho gia đình được phát
triển. Và trên tất cả, gia đình Kitô hữu được mời gọi lắng nghe lời khuyến dụ
của thánh Tông Đồ: “Hãy ân cần cho khách trọ nhà” (Rm
12,13). Do
đó, bằng cách noi gương Đức Kitô và chia
sẻ tình bác ái của Ngài, họ còn được mời gọi thực hiện việc đón tiếp những anh
chị em đang cần đến họ: “Kẻ nào cho một người trong những kẻ bé mọn này uống
một bát nước lã mà thôi, vì danh nghĩa là môn đệ của Thầy, thì quả thật, Thầy
bảo các con, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt
10,42).
Cũng trong Tông huấn về Gia đình, ở số
47, Đức Gioan Phaolô II viết tiếp: “Như thế gia đình Kitô hữu được mời gọi làm
chứng cho mọi người thấy sự tận tâm quảng đại và vô vị lợi của mình đối với
những vấn đề xã hội, nhờ sự “chọn lựa ưu tiên” đối với những người nghèo và
những người sống bên lề xã hội. Chính vì thế, khi bước theo Chúa trong một tình
yêu thương đặc biệt đối với tất cả mọi người nghèo, gia đình Kitô hữu phải lưu
tâm cách đặc biệt đến những ai đói khát, túng thiếu, già cả, những ai bị đau
ốm, nghiện ngập, những người vô gia đình”.
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy
Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều
người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng
nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà
làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết
các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,21-23).
Những người nọ đã làm những điều tốt, đã
nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, thế nhưng lại bị Chúa xếp vào hạng làm
điều gian ác. Vì sao? Vì đó không phải là những điều Chúa Cha muốn cho họ làm.
Họ đã bỏ bê bổn phận để làm theo ý riêng.
Người ta thường có khuynh hướng xem nhẹ
việc bổn phận vì nó không đem lại cho họ sự hào hứng sôi nổi. Bổn phận có vẻ là
chuyện quá âm thầm, như một cái gì tối thiểu, tiêu cực và thụ động. Thật ra,
bổn phận chính là điểm khởi đầu cần thiết để vươn tới vô tận. Bổn phận chẳng
khác nào một nén bạc giống nhau đặt vào tay mỗi người, như cái tối thiểu ta
phải chu toàn, và nhờ tình yêu khi chu toàn bổn phận, ta sẽ vươn được tới tối
đa, khiến một nén sẽ thành hai, thành năm, thành mười (x. Lc 19,11-27). Như
thế, mọi danh phận và mọi ơn gọi đều là con đường để ta nên thánh và, hơn nữa,
nên những vị thánh lớn.
Trước bổn phận và những thử thách gặp
trong cuộc sống, người ta thường có những phản ứng khác nhau: Hoặc tránh né vì
sợ gian nan vất vả, hoặc đón nhận cách miễn cưỡng, hoặc vui vẻ đón nhận với
lòng biết ơn. Làm vì thích, làm vì sợ hình phạt, làm vì đó là điều tốt và làm
vì đó là ý Chúa, đó là những động cơ hành động. Ta cần giúp các em phân biệt
các động cơ hành động khác nhau, để dần dần các em tiến tới chỗ làm vì yêu mến
Chúa.
Như người buôn ngọc bán hết mọi thứ để
mua cho được viên ngọc quý, ta cần biết bỏ hết mọi sự để chu toàn ý Chúa qua
các bổn phận. Phải lo xong việc bổn phận chính yếu trước đã. Mau mắn từ bỏ
những điều không cần thiết để chu tòan bổn phận. Không bao giờ mải mê điều gì
đến quên việc bổn phận. Làm tròn việc bổn phận với cả tấm lòng và có tinh thần
trách nhiệm: Phần việc đã được giao, nếu không làm được, phải nhờ người khác
làm thay đến nơi đến chốn hoặc phải thưa lại với người đã giao việc.
Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nhấn mạnh
sự hiện diện của Thiên Chúa nơi việc bổn phận thường ngày: “Chúa Giêsu không
nhìn xem những việc ta làm lớn chừng nào nhưng Ngài chỉ nhìn xem ta có đặt tình
yêu vào đó hay không”.
Tập trung vào việc bổn phận và chu toàn
với lòng yêu mến, là con đường nên thánh giản dị và an toàn nhất giữa cuộc sống
hằng ngày.
Đó cũng là hướng giáo dục thực tế nhất.
Thay vì phải mệt mỏi canh chừng cho bạn trẻ khỏi sa vào cạm bẫy, nhà giáo dục
nên nhắm tới một điều đơn giản: Giúp các em quý trọng và yêu mến việc bổn phận.
“Người giáo dân phải làm thế nào để chu
toàn nhiệm vụ trần thế trong những hoàn cảnh thường xuyên của cuộc sống mà vẫn
không xa lìa sự kết hiệp với Chúa Kitô, nhưng càng thi hành công việc của mình
theo ý Thiên Chúa lại càng kết hiệp mật thiết hơn. Bằng cách ấy, người giáo dân
sẽ hăng hái và vui vẻ tiến bước trên đường thánh thiện, với sự khôn ngoan và
nhẫn nại, cố gắng thắng vượt mọi khó khăn. Từ việc trong nhà đến việc ngoài xã
hội đều không xa lìa động lực siêu nhiên của cuộc sống, theo lời Thánh Tông Đồ:
"Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và
nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha" (Cl 3,17) (Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân,
số 4).
Dạy con không gì khác hơn là tập cho con
ngay từ nhỏ đã có những thói quen tốt. Muốn vậy, chính cha mẹ phải có những
thói quen tốt, khởi đầu là những thói quen về sạch sẽ, ngăn nắp thứ tự và đúng
giờ giấc.
Mỗi vật có một chỗ, vật nào chỗ ấy. “Cái
gì lấy ở đâu, trả liền vào ở đó”. Hãy quyết tâm thực hiện trật tự trong nhà
mình rồi bạn sẽ được bình an và đem lại bình an cho người nhà. Âm thầm chăm lo
xếp đặt mỗi vật vào chỗ của nó.
Công việc cũng vậy. Cần sắp đặt cho mỗi
việc một giờ và làm đúng giờ của nó. Mỗi việc có một giờ, giờ nào việc nấy. Tập
được thói quen ấy, sẽ sống thanh thản.
Không làm ngay việc phải làm là tự khiến
mình mắc nợ. Buổi sáng không chịu làm xong, buổi chiều phải trả nợ. Không chịu
làm xong việc hôm nay là tự chuốc nợ cho hôm sau. Một học sinh học bài kỹ mỗi
ngày, đến mùa thi không bị căng thẳng.
Lắm khi, dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì
những lý do ngoài ý muốn, vẫn bị ối đọng công việc. Trong trường hợp này, vừa
khi có chút giờ rảnh, nên giải quyết ngay việc bị ối đọng, nếu cần thì nhờ hoặc
thuê người khác làm giúp cho xong.
Mỗi ngày chịu khó một chút, công việc nhà
sẽ suôn sẻ gấp bội. Với người Kitô hữu, đây là một kho tàng có sẵn trong tay để
mua sắm vinh quang lớn nhất trong cõi đời đời. Sắp xếp nhà cửa và chu toàn công
việc nhà chính là bước đầu để nên thánh giữa đời.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn
theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy,
ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi,
thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình,
nào có ích lợi gì?” (Lc 9,23-26)
Thánh Laurensô Ngôn (1840-1862) bị bắt
khi mới 22 tuổi. Người vợ trẻ yêu dấu còn đó, rồi cha mẹ đã bao năm nuôi dạy
mình nay đang cần người phụng dưỡng. Đó là nỗi ưu tư của anh trong những ngày
bị giam. Thế nhưng cũng như trong những chuyện tích của nhiều vị tuẫn đạo khác
tại Việt Nam, sự yểm trợ tinh thần của những người thân quảng đại, nhiều khi
lại là yếu tố rất quan trọng. Anh đã trốn về thăm nhà nhưng gia đình khuyến
khích anh trở lại nhà giam để trình diện. Chính thân mẫu và người vợ hiền anh
thương mến nhất cũng đến hiện diện trong giờ hành quyết để khích lệ anh… Mẩu chuyện ấy cho thấy cần làm sao để mọi
người trong gia đình cùng chung một lập trường vác thánh giá theo Chúa. Ngay
giữa đời thường, trong mọi chọn lựa lớn nhỏ, ta cần nhớ lời Chúa Giêsu: “Hãy
chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì Ta nói cho các con hay: có nhiều người
sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13,22-24)
Lên đường theo Chúa, ta cần dứt khoát với
tội lỗi, dứt khoát làm lành lánh dữ. Đứng trước một điều xấu và một điều tốt,
ta quyết bỏ điều xấu và chọn điều tốt. Thế nhưng, trước hai điều đều tốt cả, ta
sẽ chọn bên nào? Ta cần có sự bình tâm để chọn như Chúa Giêsu đã chọn. Nhắm tới
một tình yêu lớn hơn, ta sẽ dần dần tiến lên trong sự bình tâm, với ba mức độ :
Mức độ 1 là chấp nhận ý Chúa: Giữa 2 thụ
tạo (Ví dụ : làm nghề này hay nghề kia, giàu hay nghèo, sống lâu hay chết sớm,
nói hay im lặng, vinh hay nhục...), tôi không nhất thiết phải chọn cho được A
hay B. Thái độ của tôi là bên nào giúp tôi được gần Chúa hơn, bên nào giúp tôi
tôn vinh Danh Chúa hơn, thì tôi chọn bên ấy. Nói cách khác, Chúa muốn tôi chọn
bên nào, thì tôi chọn bên ấy. Tôi giữ cho mình được hoàn toàn tự do, không bị
thụ tạo chi phối, để đón nhận ý Thiên Chúa.
Mức độ 2 là yêu thích ý Chúa: Giữa hai
thụ tạo A và B, nếu tôi biết Chúa muốn B cho tôi (tức là B giúp tôi gần Chúa
hơn, làm vinh danh Chúa hơn), tôi quyết vận dụng tự do của tôi để muốn được B.
Nếu điều Chúa muốn cũng là điều tôi ưa thích, tôi sẽ đón nhận điều ưa thích như
một trách nhiệm , nếu ngược lại, tôi sẽ đón nhận gánh nặng như một điều ưa
thích.
Mức độ 3 là khao khát nên giống Chúa: Đi
xa hơn nữa, nếu cả A và B đều giúp tôi gần Chúa như nhau, tôn vinh Danh Chúa
như nhau, tức là ý Chúa ngang nhau cả đôi đàng, tôi sẽ chọn điều khiến tôi nên
giống Chúa Giêsu, Đấng đã chọn nghèo hèn, bị thua thiệt, bị sỉ nhục... Đây là
dấu hiệu của một tình yêu đích thật, tình yêu đem lại tự do như lời thánh Âu
Tinh: “Cứ yêu mến đi, rồi muốn làm gì thì làm”.
Mỗi tối, anh chị em cần nhìn lại xem mình
đã quan tâm quyết định mọi chuyện lớn nhỏ trong ngày theo hướng trên đây chưa.
anh chị em cứ thường xuyên chọn lựa như thế, con cái anh chị em sẽ noi gương và
trở thành những người luôn quả cảm bước theo Chúa giữa đời thường.
“Kinh
nguyện gia đình có những đặc tính riêng của nó. Đó là một kinh nguyện chung:
vợ chồng cùng cầu nguyện với nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện với nhau.
Sự hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa quả vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông
mà các bí tích Rửa Tội và Hôn Phối đã đem lại. Các gia đình Kitô hữu có thể áp
dụng được cho mình một cách đặc biệt những lời hứa hiện diện của Đức Giêsu:
“Quả thật, Ta bảo các con: nếu dưới đất, hai người trong các con đồng thanh xin
về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho. Vì đâu có hai, ba
người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ” (Mt
18,19-20). (Tông
Huấn Gia Đình, số 59)
Trong hạnh thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, ta
đọc thấy: Năm 20 tuổi, ông Mỹ kết hôn với cô Maria Mến, con gái Thánh Antôn
Nguyễn Đích là ông trùm trong xứ. Cuộc sống gia đình đầm ấm hạnh phúc với tám
người con đạo hạnh, khiến dân làng ai cũng mến phục kính nể. Dù đời sống gia
đình và xã hội phức tạp, ông luôn sống xứng đáng là một gia trưởng đạo đức
gương mẫu. Bà Mỹ kể lại rằng: “Gia đình tôi sống trong hoà thuận yêu thương.
Ông Micae chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng ngày. Nếu vợ con hoăc người giúp việc
bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc
kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong
năm. Mỗi lần ông kỹ lưỡng xét mình từ hai ngày trước. Mùa Chay, ông giữ chay
các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không uống rượu, không đánh bạc hay to tiếng
với ai bao giờ.”
Cũng như gia đình thánh Micae Nguyễn Huy
Mỹ, gia đình anh chị em hãy trung thành với giờ kinh sáng tối.
Giờ kinh sáng là để ca mừng Đức Kitô đã
phục sinh đã cứu chuộc ta. Xin Thiên Chúa chúc lành cho ngày sống của ta, cho
mọi việc ta sắp làm. Tâm tình của giờ kinh sáng là chúc tụng, hiến dâng và vững
tin vào tình thương Thiên Chúa luôn nâng đỡ ta trong cuộc sống.
Nếu có đi lễ sáng, mỗi người chỉ cần đọc
riêng kinh dâng ngày và một vài kinh thích đọc, hoặc thinh lặng cầu nguyện dăm
phút. Kinh dâng ngày nên đọc khi vừa tỉnh dậy hoặc khi vừa bước xuống khỏi
giường. Nếu không đi lễ sáng, cả nhà nên cầu nguyện chung. Việc đọc kinh sáng
chung thường khó hơn kinh tối, nhưng nếu cố gắng, ta vẫn có thể làm được phần
nào.
Giờ kinh tối là giờ tổng kết sau một ngày
sống và để chuẩn bị cho ngày hôm sau: ta cảm tạ những ơn Chúa ban và thống hối
mọi lỗi lầm; ta cầu nguyện cho mọi người đã gặp trong ngày và cho Hội Thánh
khắp nơi; ta xin Thiên Chúa chúc lành cho mọi việc đã làm trong ngày và cho ta
được qua một đêm bình an để sớm mai thức dậy ta lại được dâng lời ca ngợi Chúa.
Nên thu xếp cầu nguyện sớm, liền sau bữa ăn tối. Nên ăn tối đúng giờ để đọc
kinh đúng giờ.
Mùa Vọng, Giáng sinh, Mùa Chay, Phục
sinh, các lễ trọng, các tháng kính Thánh Tâm, tháng kính Đức Mẹ, kính thánh
Giu-se, kính nhớ các tín hữu đã qua đời... cần chọn những bài hát thích hợp.
Những dịp đặc biệt, như các ngày kỷ niệm
trong gia đình, nên có những giờ kinh
đặc biệt.
Trước khi bắt đầu, người xướng kinh nhắc
ý cầu nguyện của giờ kinh. Cuối giờ kinh là phân công và lời cuối ngày: Sau giờ
kinh, nên nhìn tới những công việc hôm sau và phân công, nhắc nhở. Theo kinh
nghiệm thánh Gioan Boscô, cha mẹ nên nói đôi lời tốt đẹp chừng một phút (một
câu châm ngôn, hoặc một việc xảy ra trong đời sống, kèm với cách suy nghĩ theo
Tin mừng) để mọi người đi ngủ với ý tưởng lành thánh. Lời chia sẻ luôn kết thúc
bằng: “Chúc cả nhà ngủ ngon”. Cả nhà chúc lại người chia sẻ ngủ ngon.
Kinh
nguyện gia đình có nội dung độc đáo là chính cuộc sống gia đình. Qua những
cảnh huống khác nhau, cuộc sống này được diễn giải như một ơn gọi từ Thiên Chúa
mà đến và được thực hiện như một câu trả lời hiếu thảo cho lời mời gọi của
Ngài: những vui mừng và đau khổ, những hy vọng và buồn phiền, những lần sinh
con và những ngày sinh nhật, những kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ, những chuyến
xa nhà và trở về, những chọn lựa quan trọng và quyết liệt, cái chết của những
người thân yêu ... đều là những dấu hiệu về sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa
trong cuộc sống gia đình. Những biến cố ấy cũng phải trở thành những lúc thuận
tiện cho lời tạ ơn, khẩn nguyện, cho sự tin tưởng phó thác của gia đình trong
bàn tay Cha chung trên trời. Đàng khác, phẩm giá và trách nhiệm của gia đình
Kitô hữu, xét như Giáo Hội tại gia, chỉ có thể được sống với sự trợ giúp liên
lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết
thành khẩn nguyện xin với lòng tin cậy và khiêm tốn.” (Tông Huấn Gia Đình, số 59)
Mỗi dịp đặc biệt trong gia đình có sinh
hoạt riêng của nó và giờ kinh tối cũng hoà theo đó. Cần tránh những chuyện rườm
rà. Nên lưu ý nhiều đến những gì dễ gây thêm tình gia đình, giúp mọi người biết
nghĩ đến người khác: Dọn nhà cửa sạch sẽ, trật tự, nhắc nhở cầu nguyện cho
nhau, làm bó hoa thiêng liêng tặng người được mừng lễ, vv ... Mỗi người và mỗi
gia đình nên tìm hiểu kỹ đường lối nên thánh của thánh bổn mạng để noi theo.
Đầu năm nên ghi ngay các ngày lễ gia đình
vào cuốn lịch công giáo để dễ nhớ. Một số ngày lễ đời hoặc đạo có tính gia
đình, cũng nên ghi vào. Ví dụ: ngày Phụ nữ (8/3), ngày các bà mẹ (Chúa Nhật thứ
ba tháng Năm), ngày của những người cha (Chúa Nhật thứ ba tháng Sáu), ngày của
ông bà nội ngoại (26/7) ...
Giờ kinh cũng là lúc sống mầu nhiệm các
thánh thông công, hiệp thông với những người quá cố trong gia đình và gia tộc.
Khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người công giáo không làm một sự thờ phượng bên
ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng là để nhờ đó mà thêm lòng biết ơn và kính
mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng
khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống, người công giáo cũng nhớ đến
các tổ phụ trong đức tin.
Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên
đơn sơ. Mà đã có bàn thờ thì nhớ thắp hương, đừng để hương tàn khói lạnh. Ngày
tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái
đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, chỉ cốt sao biểu
lộ được tấm lòng và giúp các cháu nhỏ học được lòng biết ơn tổ tiên và biết ơn
Thiên Chúa Tạo Hoá.
Người Việt Nam có thói quen rất tốt: mỗi
khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình
ấy bằng việc cúng lễ. Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong
gia đình chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng
chủ lễ. Người tín hữu công giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với
một cái nhìn chính xác, phù hợp với đức tin Kitô-giáo. Hình thức sơ đẳng nhất
của lễ gia tiên là mỗi lần ra khỏi nhà và mỗi lần đi đâu về, ta thắp một cây
nhang cắm lên bàn thờ và thinh lặng cầu nguyện giây lát.
Một trong những ý nghĩa lớn của Kitô giáo
là tình hiệp thông: người tín hữu được kết hiệp với Thiên Chúa và nhờ đó mà
hiệp thông với nhau, giữa những người đang sống trên trần gian cũng như giữa người
còn sống và người đã qua đời.
Trước mắt người ngoài công giáo, tình
hiệp thông này lộ rõ nơi dịp tang lễ. Nhiều người xúc động khi thấy đông đảo
tín hữu đến an ủi gia đình người quá cố, cầu nguyện trong thời gian thi hài còn
tại gia đình và ba buổi tối sau khi an táng. Người ta còn cảm kích vì sự mau
mắn giúp đỡ và chia sẻ, với tinh thần bác ái vô vụ lợi… Dù không bà con ruột
thịt, các tín hữu vẫn quan tâm chăm sóc nhau, yêu thương nhau như con một nhà.
Rồi những lúc cộng đoàn không cầu nguyện chung, vẫn có một hai người liên tục
âm thầm cầu nguyện bên người quá cố, giúp cho bầu khí thành trầm lắng, linh
thiêng, ấm cúng, đầy đức tin và đức trông cậy.
Với tinh thần hiệp thông, khi những gia
đình sống lẻ loi ở xa có người đau ốm, giáo xứ cần lưu tâm chăm sóc, và khi họ
gặp cảnh tang chế, càng cần hết sức cố gắng viếng thăm an ủi. Cách riêng, với
những gia đình neo đơn nghèo khổ, cần quan tâm giúp đỡ cả về vật chất.
Nhiều gia đình người lương khi thân nhân
chết vì tai nạn ngoài đường, rất ngại đưa về nhà. Một số giáo xứ đã tạo điều
kiện để họ có thể quàn người quá cố tại nhà tang lễ cộng đoàn với những chăm
sóc ân cần, đem lại một an ủi lớn cho gia đình nạn nhân. Đó là một cách thể
hiện mối thương người thứ bảy về phần xác: thứ bảy chôn xác kẻ chết.
Chính trong tang lễ, người ta được nghe
Tin Mừng về sự sống, hiểu ra rằng mục đích cuộc sống là để được hiệp nhất với
Thiên Chúa trong hạnh phúc đời đời, và sự chết là cuộc vượt qua cần thiết để
tiến vào sự sống đời đời ấy. Nên tìm dịp giải thích cho bà con lương dân hiểu ý
nghĩa của việc rảy nước thánh trên thi hài, trên quan tài và trên huyệt. Tất cả
là để nhắc lại rằng người quá cố đã được rửa tội, trở nên con cái Thiên Chúa và
thân xác họ đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Việc niệm hương cũng được người
Công Giáo thực hiện theo ý nghĩa ấy.
Trong
thời gian mò mẫm tìm cách giúp người Việt hiểu đúng giáo lý Đạo Chúa, các nhà
truyền giáo gặp nhiều khó khăn trong việc hội nhập văn hóa. Do đó suốt gần 200
năm, Giáo Hội không cho phép tín hữu Việt Nam thực hiện việc thờ cúng tổ tiên
theo lối cổ truyền. Việc cấm đoán đã đưa đến thành kiến “theo Đạo là bỏ ông, bỏ
bà”, khiến người ta tẩy chay Đạo Chúa. Điều ấy còn trở thành một trong những lý
do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn và chiến dịch
Văn Thân.
Giữa
thế kỷ 20, mọi sự đã thay đổi. Từ năm 1965, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã tiếp
nhận lại việc thờ cúng tổ tiên theo cung cách Việt Nam. Nhiều gia đình Công
Giáo đã lập lại bàn thờ gia tiên. Việc thắp hương cầu nguyện đã thành bình
thường và tạo được thiện cảm nơi bà con lương dân.
Tuy
nhiên, để xóa sạch hiểu lầm, người Công Giáo phải cố gắng đặc biệt trong lãnh
vực này: cả nơi sự hiếu thảo với cha mẹ còn sống lẫn sự thờ kính ông bà tổ
tiên.
Về
bàn thờ gia tiên, khi có điều kiện, tốt nhất là thực hiện gian thờ, có màn che
từ trên xuống dưới. Tuy nhiên, do cấu trúc nhà ở ngày nay khác xưa, cũng có thể
tùy nghi thực hiện với hình thức sáng sủa và giản dị, thấm nhuần màu sắc dân
tộc và Kitô giáo. Có thể đặt ngay dưới bàn thờ Chúa, nhưng cần có sự phân biệt
rõ ràng, hoặc có thể để ở gian khác. Cần nhớ, một khi đã lập bàn thờ, phải gìn
giữ sạch sẽ, tuyệt đối không để bất cứ vật dụng linh tinh nào trên bàn thờ.
Phải chăm sóc hương đèn. Hình thức sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi sớm, mỗi
tối, mỗi lần đi xa về, ta thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và thinh lặng cầu
nguyện một phút. Nếu thiếu ý thức và quan tâm thì thà đừng lập bàn thờ còn tốt
hơn là có bàn thờ mà để hương tàn, khói lạnh.
Các
ban văn hóa, truyền giáo và gia đình trong giáo xứ cần quan tâm góp ý và hướng
dẫn cho các gia đình về việc này.
Đạo
Hiếu không dừng lại ở bàn thờ gia tiên và các nghi thức lễ bái mà còn gồm những
kinh nghiệm khác có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục nhân bản, cách riêng là
giáo dục tình gia đình và gia tộc. Tình gia tộc được khẳng định qua các bản gia
phả, qua những ngày giỗ, ngày tết.
Sinh
hoạt gia tộc được duy trì nhờ từ đường và ruộng hương hoả, và cũng nhờ đó có
những dòng họ giữ được gia phả từ nhiều thế kỷ. Các gia đình công giáo, do gián
đoạn sinh hoạt từ đường hơn hai trăm năm, thường ít giữ được gia phả. Nhiều gia
tộc ngoài công giáo, dù không gián đoạn việc thờ cúng ông bà nhưng, do chiến
tranh, nay cũng bị mai một cả gia phả, từ đường và ruộng hương hoả. Từ ngày đất
nước hoà bình và thống nhất, dường như khắp nơi đều rộ lên việc tìm lại nguồn
cội, nối lại gia phả. Có cả những sách mẫu hướng dẫn làm gia phả và những sáng
kiến làm gia phả điện tử, gia phả trên mạng. Thiết tưởng các gia đình công giáo
Việt Nam cũng cần quan tâm đến việc này để có thêm một lợi khí giúp vun trồng
tinh thần đạo lý cho các thế hệ mai sau. Nếu không thể tìm lại những nguồn gốc
xa xưa thì ít là ghi lại từ những vị tổ mà trong gia đình còn biết được.
Rất
nhiều trường hợp, khi tìm về cội nguồn, ta phát hiện quan hệ gần gũi giữa những
nhánh đồng tộc Công giáo và ngoài Công giáo. Hai bên sẽ qua lại thăm viếng
nhau, cùng hiện diện trong những dịp giỗ đại tộc. Nhờ đó, sẽ sớm xoá tan được
thành kiến “theo đạo bỏ ông bỏ bà”, rồi tình thân giữa đôi bên sẽ gia tăng và
việc chia sẻ đức tin giữa những người đồng tộc sẽ gặp nhiều thuận lợi.
Sau tết Quý Tỵ 2013 vừa qua tại giáo xứ
Song Mỹ thuộc giáo phận Nha Trang, một số bạn trẻ họ Võ đã có sáng kiến xin cha
sở một thánh lễ cầu nguyện cho những người cùng họ còn sống và đã qua đời. Với
bức tâm thư trang trọng gửi đến mọi gia đình họ Võ trong giáo xứ, đã có trên
100 người đến dự lễ. Sau thánh lễ hơn 50 người đã ở lại gặp nhau tại hội trường
giáo xứ. Họ chia sẻ tâm tình thật chan hòa rồi thảo luận sôi nổi và đi đến bốn
quyết định: Thứ nhất, đề cử ra một ban liên lạc họ Võ Công giáo của giáo xứ;
thứ hai, mỗi lần có người họ Võ trên địa bàn giáo xứ qua đời, sẽ tặng một vòng
hoa phúng điếu ghi dòng chữ: "Ban Liên lạc họ Võ Công giáo giáo xứ Song Mỹ
thành kính phân ưu"; thứ ba: anh chị em đồng tộc Công giáo sẽ nhắc nhau
sống tốt hơn để khỏi phụ lòng bà con đồng tộc ngoài Công giáo; Thứ tư: Từ đây
về sau, mỗi năm tới ngày này, đều xin lễ như thế và mỗi gia đình họ Võ Công
giáo sẽ mời một gia đình họ Võ người lương đến dự thánh lễ. Có thể lắm người
được mời sẽ không đến nhưng nhiều người khác sẽ đến. Họ sẽ hiểu thế nào là gia
đình con cái Chúa, sẽ hiểu cách người Công giáo tôn kính và cầu nguyện cho ông
bà tổ tiên.
Điều nhóm anh chị em ấy đã làm, thiết
tưởng bất cứ nhóm đồng tộc nào tại mỗi giáo xứ, dù đông người hay ít người,
cũng đều có thể làm được. Sau bao năm ly loạn, khi hòa bình lập lại, đa số
người mình, lương cũng như giáo, hiện không còn gia phả, không còn từ đường, lắm
khi không còn nhớ ngày giỗ của dòng họ mình. Thế nhưng khi ta nhận biết Thiên
Chúa là Cha, Ngài đã cho lại chúng ta tất cả và còn hơn thế nhiều. Không còn
gia phả, nhưng chúng ta biết rõ mình là anh em con một Cha trên trời. Không còn
từ đường nhưng chúng ta lại có chung một nhà Chúa là từ đường của muôn dân, bởi
lẽ hai chữ từ đường trong tiếng Hán dịch sang tiếng Việt không gì khác hơn là
nhà thờ. Có thể không còn nhớ ngày giỗ của dòng họ nhưng chúng ta có ngày lễ
của những vị thánh tử đạo cùng dòng họ. Trong số các thánh tử đạo người Việt,
có 28 vị ta không rõ thuộc họ nào; còn 69 vị khác thuộc về 17 dòng họ: họ Bùi
(2), họ Đặng (1), họ Đinh (3), họ Đỗ (3), họ Đoàn (3), họ Hà (2), họ Hồ (1), họ
Hoàng/Huỳnh (1), họ Lê (7), họ Nguyễn (24), họ Phạm (5), họ Phan (3), họ Tạ
(1), họ Tống (1), họ Trần (4), họ Trương (2), họ Vũ/Võ (6).
Mỗi năm trong mái ấm từ đường của trăm họ
tại giáo xứ liên tiếp có ngày giỗ Công giáo của họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm, họ
Phan, họ Trần, vv… và các bà con đồng tộc người lương cùng đến dự. Rồi tới ngày
tế hiệp của họ, họ lại mời các đồng tộc Công giáo và cả vị thủ từ của từ đường
trăm họ là cha xứ đến dự. Dòng họ là con đường thật hồn nhiên để ta đến với anh
em và đưa anh em đến với Chúa. Ta có những cơ hội tốt nhất để giải thích cho bà
con lương dân hiểu giáo lý của Hội Thánh Công giáo về Đạo Hiếu và việc thờ cúng
Tổ Tiên để giúp họ nhận biết và thờ phượng Cội Nguồn muôn đời muôn thuở là Cha
trên trời.
Với hy vọng ấy, mỗi tín hữu hãy gặp gỡ
những người Công giáo cùng dòng họ trong giáo xứ, trao đổi và thảo luận xem sẽ
bắt đầu công việc như thế nào. Họ nào loan Tin mừng cho họ nấy: Rủ nhau sống
tốt, hẹn nhau trong một thánh lễ truyền thống hằng năm, và mời bà con đồng tộc
người lương cùng đến dự.
Dĩ nhiên việc gieo trồng không kém phần vất
vả nhưng rồi mùa gặt đến, giọng hân hoan, mặt rạng rỡ, ta sẽ ôm những bó lúa
trĩu nặng trên tay mà trở về trong tiếng hát tạ ơn vì những bà con cùng dòng họ
với mình và cả nhiều anh chị em khác đã trở nên con cái Chúa.
Then chốt của truyền giáo là hun đúc tâm
hồn truyền giáo cho Kitô hữu từ khi còn non trẻ. Hướng tới lễ Chị thánh Têrêxa,
bổn mạng các xứ truyền giáo, chúng ta cần tìm cách giúp các bạn trẻ có được tâm
tình của Chị Thánh: “Con khát khao được yêu mến Chúa và làm cho Chúa được yêu
mến”.
Trách nhiệm này trước hết thuộc về các gia đình Kitô hữu. Các gia đình vẫn được Giáo Hội
coi là những chủng
viện và đệ tử
viện đào tạo tinh thần truyền
giáo. Các gia
đình còn góp phần đặc thù cho công cuộc truyền giáo bằng cách vun trồng ơn gọi
thừa sai cho con cái mình. Sớm hôm hãy thường xuyên nhắc các cháu: “Lúa chín
đầy đồng mà thiếu thợ gặt” (Lc 10,2). Tổng quát hơn, gia đình sẽ “dạy cho con
cái ngay từ khi còn thơ ấu biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi
người” (Tông huấn Gia đình, số 54) và mau mắn quảng đại đáp lại.
Khi gây ý thức truyền giáo cho các cháu
nhỏ, ta cần tránh biến các cháu thành những người tự tôn, như thể mình là người
nắm vững chân lý. Chúng ta cần dạy các cháu khiêm nhường trước ơn Chúa và biết
tôn trọng lòng tin của người khác. Các cháu sẽ hy sinh và cố gắng sống tốt
không phải “để làm gương” nhưng trước hết là để người khác khỏi hiểu lầm đạo
Chúa, và có thể hiểu đúng thế nào là tinh thần của Đạo thánh.
Tiếp sau gia đình là các lớp giáo lý.
Chương trình giáo lý theo tuổi hiện áp dụng trong Giáo phận nhà, được biên soạn
theo hướng truyền giáo. Giáo lý viên cần khắc sâu cho các em lý tưởng nên
thánh, theo gương các vị thánh trẻ, nam giới là những thánh như: Saviô, Giuse
Túc, Koska, Phanxicô Martô; nữ giới thì như: Maria Goretti, Laura Vicưnha,
Giaxinta và chân phước Antonia Meo mới 6 tuổi. Giữa những hấp lực của xã hội
tiêu thụ, các em cần biết thốt lên như thánh Stanislas Koska: “Tôi sinh ra cho
những điều cao quý hơn.” Cần dạy cho các em biết sống chứng nhân ở trường ở lớp
với cách ăn nói dịu dàng thanh lịch, trung thực khi làm bài, mau mắn giúp đỡ
mọi người cách vô vụ lợi và biết quên mình vì ích chung.
Đời Kitô hữu xoay quanh bốn trục: tin,
nhận, giữ, cầu – tức là tín lý, bí tích, luân lý và cầu nguyện. Dịp tốt nhất để
người lương tiếp cận cả bốn chiều kích ấy là lễ cưới ở nhà thờ. Họ thường khen
nghi thức hôn phối trang trọng và giàu ý nghĩa. Vì thế, nên mời các thành viên
trong gia đình cũng như bạn hữu ngoài Công giáo tham dự thánh lễ hôn phối.
Những lúc nói chuyện trao đổi trước và sau lễ, cũng như ở câu chuyện thân mật
cởi mở trong tiệc cưới, nếu được, nên giải thích cho họ những điểm đáng chú ý
trong hôn nhân Kitô giáo. Từ đó cũng có thể đi xa hơn để giải thích những thắc
mắc về Đạo. Tuy nhiên, cần giữ đúng chừng mực và bầu khí thân tình, không biến
câu chuyện thành buổi giảng đạo và nhất là tránh đừng rơi vào chỗ tranh cãi lý
thuyết.
Điều đánh động trước mắt người ta chính
là nghi lễ. Do đó, cần nhắc nhở cô dâu chú rể đến sớm để lễ nghi được tốt đẹp
ngay từ đầu. Cũng nên tin cho vị giảng lễ biết đôi chút về thành phần những
người được mời, để ngài dễ chăm sóc cho bài giảng được súc tích, dễ hiểu và có
chất lượng.
Đặc tính “một vợ một chồng” và “bất khả
phân ly” của hôn nhân Kitô giáo cần được chứng thực bằng đời sống của các gia
đình con cái Chúa, một đời sống hạnh phúc và triển nở. Những dịp tổ chức kỷ
niệm giáp năm ngày cưới, cách riêng là 25 năm và 50 năm là những dấu chứng rất
thuyết phục. Các giáo xứ nên chú ý tổ chức cho các gia đình mừng lễ.
- Có thể tổ chức mỗi năm một lần vào lễ
Thánh Gia hay lễ hai thánh Gioakim và Anna,… dành riêng cho những đôi giáp 5,
10, 20, 25, 30, 40 và 50 năm.
- Cũng có thể chọn một ngày nhất định
hằng tháng, ví dụ như chiều Thứ Tư hay Thứ Bảy đầu tháng, cho tất cả những đôi
mừng kỷ niệm trong tháng ấy. Cách này có cái lợi là mọi gia đình đều có dịp
sống lại ơn bí tích hằng năm.
Trong cả hai trường hợp, nên nhắc các gia
đình liên hệ, cả cha mẹ và con cái dọn mình xưng tội rước lễ.
“Các gia đình Kitô hữu có sứ mạng xây dựng Giáo Hội và
Nước Chúa trong lịch sử, cho nên cần phải ngoan ngoãn tuân phục Chúa Kitô. Thật
vậy, qua hôn nhân đã được nâng lên hàng bí tích, Ngài trao cho các đôi bạn Kitô
hữu một sứ mạng tông đồ riêng biệt, đồng thời sai phái họ như những người thợ
trong vườn nho của Ngài, và cách đặc biệt, trong lãnh vực gia đình.
Việc tông đồ gia đình còn được triển nở dưới hình thức
những công tác bác ái về tinh thần cũng như vật chất đối với các gia đình khác
như: đối với những người đau ốm, già cả, tàn tật, mồ côi, góa bụa, những người
chồng, những người vợ bị bỏ rơi, những người mẹ độc thân và những người mẹ
trong tình huống khó khăn, đang bị cám dỗ loại bỏ đứa con còn trong lòng dạ
mình, v.v...” (Tông Huấn Gia Đình, số 71)
Tông Huấn Gia Đình, số 72 còn nhấn mạnh tới các
hiệp hội gia đình nhằm phục vụ các gia đình: “Cần phải nhìn nhận và coi trọng các cộng đồng Giáo Hội
khác nhau, các nhóm và rất nhiều phong trào đang dấn thân vào mục vụ gia đình
theo những cách thế khác biệt và với những danh hiệu và mức độ khác nhau, mỗi
tổ chức đều có những đặc điểm, mục tiêu, cách kết nạp và phương pháp riêng.
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã chính thức nhìn nhận sự đóng góp ích lợi của những
hiệp hội có tính cách tu đức, đào tạo hay làm việc tông đồ như thế. Vai trò của
những hiệp hội này là làm dấy lên nơi các tín hữu một ý thức bén nhạy về sự
liên đới; là tạo điều kiện thuận lợi cho một nếp sống được gợi hứng do Tin Mừng
và do đức tin của Giáo Hội; là đào tạo cho lương tâm của mọi người biết theo
giá trị Kitô giáo chứ không theo các tiêu chuẩn của ý kiến đám đông; là khuyến
khích các công cuộc bác ái đang hướng về việc giúp đỡ lẫn nhau hay hướng về
người khác với một tinh thần cởi mở, có sức làm cho các gia đình Kitô hữu trở
thành thật sự là nguồn sáng đích thực và là men lành mạnh cho các gia đình
khác.”
Tại Việt Nam, hiện nay một số hiệp hội tông đồ gia đình
có tầm vóc quốc tế đã hiện diện ở nhiều nơi. Cũng có những hiệp hội mang tầm
vóc quốc gia và những nhóm khác ở những quy mô nhỏ hơn. Điều quan trọng là các
gia đình trong cùng một giáo xứ hay một giáo họ gặp gỡ nhau để cùng ý thức và
cùng tìm kiếm một mô hình thích hợp với địa phương mình.
Tông
huấn Gia đình, số
52, viết: “Tương lai việc Phúc âm hóa tùy thuộc phần lớn nơi Hội Thánh tại gia.
Sứ mạng tông đồ ấy của gia đình bắt nguồn từ Bí tích Thánh Tẩy và qua Bí tích
Hôn phối họ đã nhận được một sức đẩy mới để truyền đạt đức tin, để thánh hóa và
biến đổi xã hội hiện tại theo ý định của Thiên Chúa.” Tông huấn cũng nhắc nhở
các gia đình có trách nhiệm làm tông đồ lẫn cho nhau.
Qua
nhiều thập niên thiếu vắng linh mục, hoàn cảnh tôn giáo của nhiều gia đình hiện
còn gặp khó khăn chưa được ổn định. Để xúc tiến việc truyền giáo đối nội, tức
là nâng cao phẩm chất Kitô giáo của các gia đình tín hữu, mỗi giáo xứ cần chú ý
củng cố tối đa cho những gia đình đã ổn định về mặt tinh thần. Cần động viên để từng gia đình tận hiến cho
trái tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cùng nhau cam kết sống đạo và truyền giáo. Ban
truyền giáo giáo xứ và ban mục vụ gia đình sẽ phối hợp để giúp những gia đình
đã ổn định trở thành chỗ dựa cho những gia đình khác sớm tiến tới ổn định. Cụ
thể là thực hiện sổ gia đình công giáo, giúp hợp thức hóa hôn phối, giúp thanh
thiếu niên và nhi đồng hoàn tất việc học giáo lý theo tuổi mình, nhắc nhở nhau
đi lễ Chúa Nhật. Cần tạo điều kiện để những gia đình có phẩm chất làm chứng
cao, có thể liên kết thành nhóm hạt nhân.
Việc
giúp các gia đình làm tông đồ lẫn cho nhau sẽ hữu hiệu hơn khi các gia đình
được liên kết thành những nhóm nhỏ liên cư liên địa. Ngoài ra còn có sự góp
phần của những phong trào tông đồ gia đình: hội các bà mẹ, legio, huynh đoàn,
nhóm chia sẻ Lời Chúa, gia đình cùng theo Chúa, gia đình Khôi Bình, vv... Đặc
biệt cần nâng đỡ những gia đình tiền phong, dấn thân đến những vùng chưa có ánh
sáng Tin Mừng và hỗ trợ những gia đình lẻ loi.
Giữa
lúc cơ cấu gia đình trên thế giới đang gặp khủng hoảng, các gia đình con cái
Chúa cần chia sẻ cho nhau kinh nghiệm xây đắp gia đình hạnh phúc, tạo thành một
môi trường mới, để nâng đỡ chính mình và để làm chứng cho Đạo Chúa.
Tháng 5 năm 1984, Đức Gioan Phaolô II viếng thăm Nam Hàn,
nhân dịp mừng kỷ niệm 200 năm lãnh nhận
Tin Mừng, và tôn phong 103 Chân phước Tử đạo Đại Hàn lên bậc Hiển Thánh; số
người Công Giáo lúc đó khoảng 1 triệu 700 ngàn. Sau chuyến viếng thăm ấy, các
Giám mục Nam hàn tung ra chiến dịch truyền giáo: "Mỗi gia đình Công Giáo
phải đưa một gia đình ngoài Công Giáo trở lại". Tháng 10 năm 1989, sau 5
năm, Đức Thánh Cha trở lại viếng thăm Nam Hàn một lần nữa nhân dịp Đại hội
Thánh Thể quốc tế được tổ chức tại Seoul,
số người Công Giáo Nam Hàn đã lên tới hai triệu rưởi. Năm 2000, số linh
mục Nam Hàn là 2.891 vị, tăng 10 lần so với năm 1962; số giám mục bản xứ là 23
vị; số người công giáo là 4 triệu 71 ngàn, được chia thành 15 giáo phận và
1.228 giáo xứ. (Theo số liệu đài Chân Lý Á Châu). Hiện nay, tỉ lệ người Công
giáo đđang chiếm hơn 11% dân số Nam Hàn. Hội Đồng Giám mục Nam Hànđđang mời gọi
mọi thành phần Dân Chúa tích cực hành động cho mục tiêu 20-20, có nghĩa là nỗ
lực cầu nguyện, sống và truyền giáo để tới năm 2020, tỉ lệ người Công giáo sẽ
lên tới 20% dân số.
Noi gương và chạy đua với anh chị em tại Nam Hàn, mỗi gia
đình Công Giáo Việt Nam cũng được mời gọi cam kết hy sinh và cầu nguyện cho
công cuộc truyền giáo.
Mỗi tuần
một lần, sau giờ đọc kinh tối sẽ dành thời giờ chia sẻ về truyền giáo, nhắc
nhau nỗ lực đổi mới đời sống, vui chịu thiệt thòi và thử thách để cầu nguyện
cho lương dân trở lại. Cũng đừng quên nhắc nhau dành dụm, góp phần lo việc
truyền giáo.
Nỗ
lực giáo dục con em. Ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Rôma ngày
27-6-2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 nói: “Điều rất đáng mong ước là khi dạy
cho con cái biết sống theo lương tâm ngay thẳng, trong sự liêm chính và sự
thật, thì mỗi gia đình công giáo trở nên trung tâm các giá trị và đức tính nhân
bản, một trường dạy đức tin và đức mến đối với Thiên Chúa. Bằng đời sống xây
nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em giáo dân
phải chứng tỏ rằng là người công giáo tốt cũng là người công dân tốt.”
Nhiều
người vẫn có nghĩ tới việc cầu nguyện cho người ngoại trở lại nhưng không kết
quả vì chỉ cầu nguyện cách hờ hững, thiếu nghiêm túc. Từ kinh nghiệm ấy, khi
tha thiết hy sinh cầu nguyện cho người khác được ơn đức tin, các gia đình Công
Giáo cần có sự chú tâm trìu mến.. Cả nhà cùng nhau hiệp ý cầu nguyện với cả tấm
lòng.
Mọi
người trong nhà sẽ trao đổi để tập trung cầu nguyện cho một gia đình. Giữa
những gia đình thân quen và đã có thiện cảm với Đạo Chúa, gia đình nào xét thấy
có nhiều triển vọng hơn, ta sẽ ưu tiên cầu nguyện cho gia đình ấy. Mỗi tối
trước khi đọc kinh, cả nhà sẽ nhắc tên gia đình ấy, kể cho nhau những thông tin
về gia đình ấy để dâng giờ kinh cầu nguyện cho họ được bình an hạnh phúc và được
ơn đức tin. Ai vắng mặt thì khi đọc kinh riêng cũng hiệp chung cùng một ý
nguyện ấy. Cũng cần nhắc nhau thêm hy sinh chay tịnh để lời nguyện thêm tha
thiết và sớm được Chúa nhậm lời. Theo gương người bạn hỏi mượn bánh (x. Lc
11,5-8) và bà góa nghèo khiếu nại (x. Lc 18,1-7), ta cần cầu nguyện cách kiên
tâm, với lòng tin tưởng trông cậy.
Cùng
với lời cầu nguyện, ta cần quan tâm hỏi han thăm viếng gia đình ấy, chia vui sẻ
buồn và gia tăng tình hiệp thông, đồng cảm. Khi họ đã muốn tiến xa hơn, ta mời
họ tham gia những sinh hoạt thích hợp trong giáo xứ: sinh hoạt hiệp thông vui
tươi, bác ái hoặc phụng vụ.
Mỗi
hạt giống đều có thể gặp đủ những hoàn cảnh thử thách khác nhau như vệ đường,
sỏi đá, nắng và gai góc. Nhờ gặp gỡ và chuyện vãn chia sẻ, ta có thể nhận ra
những thử thách đang chờ họ và chân thành giúp họ vượt qua.
Đã
chọn cầu nguyện cho gia đình nào, ta cần ưu ái chú tâm lo cho gia đình ấy. Sự
chú tâm này đòi ta phải cố gắng và hy sinh. Tuy nhiên mọi vất vả sẽ được bù đắp
trong niềm vui nhìn thấy những người anh em mình được hưởng ơn cứu rỗi, và hơn
nữa, được biết rằng những người anh em ấy đang trở thành men Tin Mừng cho những
người khác.
Một
sự kiện khá phổ biến trong những thập niên gần đây là có rất nhiều người ngoài
Công giáo đến với Mẹ Maria và nhận được ơn chữa lành phần xác, ơn hòa hợp gia
đình, và từ đó ngày càng thêm lòng kính mến Đức Mẹ. Họ thường gắn bó với các
trung tâm hành hương kính Đức Mẹ. Chúng ta cần sớm phát hiện những trường hợp
ấy và mau mắn giúp đỡ để những tâm hồn ấy và gia đình họ nhờ Mẹ Maria mà được
đến với Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế.
Vì họ
đã yêu mến Đức Mẹ, ta nên chỉ dẫn cho họ bày tỏ lòng yêu mến ấy bằng việc tôn
sùng mà Mẹ rất thích là lần hạt Mân Côi – và rồi từ các sự kiện trong bốn mùa vui,
sáng, thương và mừng của chuỗi hạt Mân Côi, ta giúp họ hiểu biết rõ hơn về mầu
nhiệm Chúa Kitô và ơn cứu chuộc của Ngài.
Về
phần mình, chúng ta cần biết noi gương Đức Mẹ để giới thiệu Chúa Kitô cho mọi
người. Noi gương Mẹ, chúng ta rắc gieo hạt giống Tin Mừng bằng cách sống thật
dễ thương với mọi người, để lại trong lòng mọi người một hình ảnh thật đẹp về
người Kitô hữu: vui tươi, hiền hòa, quảng đại, khiêm nhường và tận tâm phục vụ.
Noi
gương Đức Mẹ ở Cana, chúng ta quan tâm tới nỗi lòng và khó khăn của người khác
và giúp họ lắng nghe lời Chúa: “Hỡi
tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Có
người tưởng rằng khi loan báo Tin Mừng phải nói những chuyện cao xa. Loan báo
Tin Mừng không phải là giảng dạy thần học nhưng là chia sẻ kinh nghiệm sống sự
hiện diện của Thiên Chúa và nói chuyện với Thiên Chúa, kinh nghiệm đọc, suy
niệm và sống Lời Chúa. Một cách đơn sơ là đưa người ta đến với Đức Mẹ. Khi họ
gặp khó khăn, nên khuyến khích họ cầu nguyện với Đức Mẹ. Khi họ được ơn Đức Mẹ,
nên khuyến khích họ đáp đền bằng cách yêu mến Chúa Giêsu, con Ngài. Hiểu như
thế thì khắp nơi, mọi lúc trong mọi việc, ta đều có thể loan báo Tin Mừng. Hãy
tâm sự với Đức Mẹ và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, rồi cứ bắt đầu, và dần dần sẽ
biết cách kết hợp việc làm ăn và mọi sinh hoạt khác với việc truyền giáo thật
hồn nhiên, nhẹ nhàng.
MỤC LỤC
PHẦN I: MỐI BẬN TÂM HIỆN
NAY CỦA HỘI THÁNH VỀ GIA ĐÌNH
I. THÔNG CÁO CỦA HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ VIỆC TÔN KÍNH TỔ TIÊN
II. QUYẾT ĐỊNH VỀ LỄ
NGHI TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN
III. THƯ CHUNG 2007 CỦA
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM VỀ GIÁO DỤC KITÔ GIÁO: GIÁO DỤC HÔM NAY, XÃ HỘI VÀ
GIÁO HỘI NGÀY MAI
IV. THƯ CHUNG 2013 CỦA
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM GỬI CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA: HỘI THÁNH CÔNG GIÁO TẠI VIỆT
NAM VÀ CÔNG CUỘC TÂN PHÚC ÂM HÓA
V. THƯỢNG HỘI ĐỒNG ĐẶC
BIỆT VỀ GIA ĐÌNH
PHẦN II: MỘT SỐ CHỈ DẪN
THỰC HÀNH
I. GIA ĐÌNH GIÁO DỤC
01. Giáo dục từ trong
bào thai
02. Giáo dục trẻ sơ
sinh
03. Giáo dục tuổi vào
đời
04. Giáo dục bằng
gương sáng
05. Giáo dục theo các
giá trị chính yếu của đời người
06. Dạy con cái biết cầu
nguyện
07. Dạy con cái hướng
tới nhân đức
08. Đào tạo các nhân đức
căn bản
09. Đào tạo trí phán
đoán
10. Đào tạo đức công bằng
11. Đào tạo tinh thần
ích chung
12. Đào tạo tinh thần
kỷ luật và từ bỏ
13. Đào tạo tinh thần
phục vụ
14. Đào tạo tình bác
ái và lòng hiếu khách
15. Đào tạo sự thành
thật
16. Đào tạo sự khiêm
nhường
17. Đào tạo lòng yêu mến
Lời Chúa
18. Đào tạo tinh thần
Hội Thánh
19. Đào tạo tinh thần
phụng vụ
20. Đào tạo tinh thần
truyền giáo
21. Đào tạo tình gia
đình
22. Đào tạo tình gia tộc
23. Phát huy truyền thống
đạo hiếu
24. Tôn trọng con cái
25. Lo cho con cái học
giáo lý
26. Chăm sóc việc học
của con cái
27. Gieo mầm ơn gọi
28. Việc chuẩn bị hôn
nhân
29. Tủ sách gia đình
30. Các phương tiện
truyền thông xã hội
II. GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO
01. Gia đình là Hội
Thánh nhỏ
02. Noi gương gia đình
Nadarét
03. Một bầu khí hạnh
phúc và thánh thiện
04. Phẩm giá người phụ
nữ
05. Người nam là chồng
và là cha
06. Những người già cả
trong gia đình
07. Hưởng ứng tiếng gọi
hoán cải
08. Phát huy ba nhân đức
tin, cậy, mến
09. Gia đình sống bác
ái
10. Nên thánh trong việc
bổn phận hằng ngày
11. Sắp xếp việc nhà để
nên thánh
12. Quả cảm theo Chúa
giữa đời thường
13. Giờ kinh sáng tối
14. Giờ kinh cho những
dịp đặc biệt trong gia đình
15. Chia sẻ và hiệp
thông trong tang lễ
16. Bàn thờ gia tiên
và tình đồng tộc
17. Dưới mái từ đường
của trăm họ
III. GIA ĐÌNH TRUYỀN
GIÁO
01. Giúp bạn trẻ học
truyền giáo
02. Loan báo Tin Mừng
qua lễ hôn phối
03. Gia đình làm tông
đồ cho gia đình
04. Các gia đình liên
kết giúp nhau sống đạo
05. Gia đình hy sinh
và cầu nguyện cho truyền giáo
06. Theo dõi chăm sóc
hạt nẩy mầm
07. Qua Mẹ Maria đến với
Chúa Giêsu
TỦ SÁCH NƯỚC MẶN
NHỮNG SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN:
1. HAI CHỊ EM LƯU LẠC.
Tiểu thuyết trẻ em
Tác giả: Lm. Phêrô Lục
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2012
2. TÂM TÌNH DÂNG MẸ.
31 bài suy niệm về Mẹ Maria
Tác giả: Phaolô Huỳnh Các
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2012
3. LUÂN LÝ KITÔ GIÁO
QUA MƯỜI ĐIỀU RĂN
Trọn bộ 2 quyển
Tác giả: ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2013
4. THẦN HỌC VỀ SỰ HOÀN
THIỆN KITÔ GIÁO
Tác giả: Lm. Giuse Phạm Thanh
Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2013
5. VỀ VỚI CỘI NGUỒN
Tác giả: Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
Nhà xuất bản Phương Đông – 2013
6. LẠY TRỜI MƯA XUỐNG.
Thơ
Tác giả: Mạc Tường
Nhà xuất bản Hồng Đức – 2013
7. BƯỚC THEO THẦY
GIÊSU
Tác giả: Lm. Trăng Thập Tự
Nhà xuất bản Hồng Đức - 2013
8. CHUÔNG CHIỀU
Nhiều tác giả
Nhà xuất bản Hồng Đức – 2013
[1] Xem
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Thư chung 2013 gửi cộng đồng Dân Chúa (10.10.2013),
số 5.
[2]
Xem Thư chung 2013, số 6.
[3]
Đức
giáo hoàng Phanxicô, Lumen fidei, số
37.
[4] Nt.,
số 51.
[5] Sứ
điệp FABC X.
[6] Đức Chân
phước Gioan Phaolô II, Diễn
văn tại Đại hội XIX của CELAM,
Port-au-Prince, 1983 .
[7] HĐGMVN, Thư Chung Hậu Đại Hội
Dân Chúa 2010, số
43.
[8] Theo
tài liệu của cha Joseph Colomb trong “Le service de l' Evangile”