Bảy di ngôn cuối cùng của Chúa Giêsu (tt): Này là con bà, này là mẹ anh
Lời thứ ba của Chúa Giê-su nói từ trên Thánh Giá, theo
nhiều nhà chú giải Thánh Kinh, có ý nghĩa biểu tượng. Tuy nhiên, để hiểu được ý
nghĩa thật phong phú của lời này, xin được đi vào bối cảnh. Lời thứ ba của Chúa
Giê-su nói trên Thánh Giá nằm trong bài thương khó theo Phúc Âm của thánh
Gio-an (chương 18-19). Cụ thể hơn, sau khi Chúa Giê-su đã bị đóng đinh trên
Thánh Giá (Ga 19, 23), thì quân lính chia nhau những tấm áo của Ngài, để “ứng
nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt
thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm”. (Ga 19, 24). Trong bối
cảnh đó, Gio-an kể lại rằng, một số phụ nữ có mặt ở gần bên Thánh Giá, đặc biệt
có Mẹ Maria hiện diện. Gioan còn kể ra danh tánh của các bà: “thân mẫu
Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a
Mác-đa-la. (Ga 19,25). Ngoài các phụ nữ này ra, có một nam nhi duy
nhất là Gio-an Tông Đồ, môn đệ yêu dấu của Chúa, và cũng là tác giả của Phúc Âm
thứ IV. Khi Mẹ Maria, các phụ nữ và Gio-an hiện diện dưới chân Thánh Giá, Chúa
Giê-su đã nhìn xuống thân mẫu của Ngài cùng người môn đệ yêu dấu, và Ngài đã
nói lời thứ ba này. Trước khi suy niệm về lời thứ ba này, thiết nghĩ cũng nên
chú ý đến các phụ nữ theo chân Chúa Giê-su trên đường thương khó mà các thánh
sử nhắc tới.
Các phụ nữ trung thành đứng dưới chân Thánh Giá.
Tất cả các tác giả của bốn Phúc Âm đều kể lại theo cách
riêng của mỗi người, việc các phụ nữ hiện diện dưới chân Thánh Giá của Chúa
Giê-su. Ở Mác-cô chúng ta thấy rằng: “Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa
xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê
Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức
Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên
Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó”. (Mc 15, 40-41). Thánh Mát-thêu
cũng nhắc đến các phụ nữ tương tự như cách thức của Mác-cô. Còn Lu-ca thì nêu
vắn tắt: “Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng
như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc
ấy”. (Lc 23, 49).
Theo ĐTC. BenedictoXVI[1], ngay khi các thánh sử không kể lại gì
cách trực tiếp về tâm trạng của các phụ nữ đang hiện diện dưới chân Thánh Giá,
nhưng người ta có thể nhận ra được sự buồn rầu và đau đớn của họ về những việc
đang xảy ra đối với Chúa Giê-su.
Hơn nữa, thánh sử Gio-an đã trích dẫn lời của tiên tri
Gia-ca-ri-a ở phần cuối bài thương khó: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm
thâu” (Ga 19, 37). Cũng chính thánh Gio-an, ở trong sách Khải Huyền,
đã nhắc lại cảnh Chúa Giê-su bị đâm thâu trên Thánh Giá, nhưng ở trong viễn
cảnh Chúa Giê-su đến trong ngày quang lâm: “Kìa, Người ngự đến giữa đám
mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ
đấm ngực than khóc khi thấy Người”. (Kh 1,7).
Những người đâm thâu Chúa, và cả những phụ nữ theo Chúa từ
bấy lâu nay, cũng đều nhìn lên Đấng bị đâm thâu. Nhưng mỗi nhóm người có cái
nhìn khác nhau. Cái nhìn của khinh khi và ác nhân của những người kết án và
hành hạ Chúa, cái nhìn cảm thông và đau xót của các phụ nữ trung thành theo
chân Chúa.
Sertillanges diễn tả về các phụ nữ đứng dưới chân Thánh
Giá Chúa như sau: “Những phụ nữ vẫn đứng đó, lúc tiến lại gần, khi lui ra xa
tùy theo đám đông và binh lính cho phép. Họ theo Đức Giêsu suốt hành trình của
Ngài từ Galilêa. Lúc này Ngài cần ai đó để giúp đỡ vào giây phút cuối cùng. Sự
có mặt của họ mang tính biểu tượng. Nó báo trước tương lai và vai trò nữ giới
trong cuộc sống Giáo hội, như trong cuộc đời Đức Kitô… Các người đàn bà đạo đức
này ngay từ đầu đã tận tụy với Đức Giêsu và kiên trì cho đến giây phút cuối
cùng. Họ sẽ xức dầu thơm cho mộ Ngài, sẽ làm nhân chứng cho việc Ngài sống lại,
sẽ có vai trò trong ngày Thánh Thần hiện xuống. Họ dâng hiến cuộc đời cho công
việc cứu rỗi nhân loại, sau khi đã thờ lạy và làm vui lòng Ngôi vị Ngài. Trên
ngọn đồi Calvario họ nhận lãnh chức vụ mà sau này sẽ truyền lại cho nữ giới
suốt lịch sử Kitô giáo. Họ đang hiện diện dưới chân Thánh Giá. Như vậy họ đứng
làm hình ảnh chính thức cho nửa phần nhân loại được thánh hiến… Những trái tím
dịu dàng này (chúng ta khoan nói đến Đức Maria) thấu hiểu tốt hơn đàn ông về
tính dịu ngọt thần linh và sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu, Đấng Thiên sai và
tử đạo. Sự vĩ đại của Ngài đã chiến thắng họ. Lòng nhân lành của Ngài lôi kéo
họ đến bên cạnh Chúa. Nó làm cho họ ngất ngây. Về căn bản phụ nữ là người thích
an ủi vỗ về. Quan điểm của họ về sự sống khiến họ dễ trở nên người trợ giúp.
Bởi vì là người ban sự sống, cho nên phụ nữ ý thức rõ hơn đàn ông về tính mỏng
dòn và yếu đuối của loài người. Và quyết bảo vệ những gì họ sinh ra ở trên thế
gian này. Những linh hồn đa cảm ấy vừa là bạn hiền vừa là học trò, và trong
nghĩa nào đó là các con gái, các bà mẹ hiền dịu dưới chân khổ giá, khóc cay
đắng cho số phận của Thày mình. Họ nhìn lên Thày với chút an ủi và khích lệ. Họ
mời mọc Thày chia sẻ với họ sự yếu đuối của thân phận làm người. Quỳ lạy tuyên
xưng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ mình, kêu cầu Ngài ban ơn xuống cho
mình và con cháu. Phần thưởng của họ là được ủy thác chôn cất xác Chúa. Nhưng
chính giờ này xác Thày đã là của họ. Một chị em đã xức thuốc thơm cho thân xác
Thày trước rồi và ít lâu nữa họ sẽ vội vã đi mua dầu thơm trước khi bình minh
thứ bảy ló rạng (thứ 7 cấm đi xa), để có thể ướp xác bằng hương liệu ngọt ngào
và đặt Chúa vào chiếc giường đá lạnh lẽo”[2].
Thật vậy, các phụ nữ qua tâm tình của họ với Chúa, đã thoa
dịu phần nào cảnh thương khó của Chúa mà những người ác nhân đã gây ra. Ở đây,
chúng ta có thể đọc lại lời của tiên tri Da-ca-ri-a: “Chúng sẽ khóc
than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ
thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng” (Dcr 12, 10).
Trong bầu khí của bạo tàn, của sỉ nhục và ác nhân, vẫn có sự trung thành của
tình yêu, sự xót thương của các phụ nữ giành cho Đấng Cứu Độ. Trong tâm tình
này, chúng ta có thể thấy được điều mà tiên tri Da-ca-ri-a nói: “Ngày
ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đa-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem để tẩy trừ
tội lỗi và ô uế” (Dcr 13, 1). Tâm tình hướng nhìn lên Đấng bị thâu –
Đấng Cứu Độ, lòng thương cảm và tâm tình hiệp thông chia sẻ với Ngài sẽ đưa lại
một dòng suối thanh tẩy tội lỗi. Thật vậy, sức mạnh biến đổi của cuộc thương
khó đã bắt đầu.
Như đã nói ở trên, thánh Gio-an không chỉ kể lại sự hiện
diện của các phụ nữ, mà còn nhắc đến sự có mặt của môn đệ mà Chúa Giê-su thương
yêu, và đặc biệt nhấn mạnh đến sự hiện diện của thân mẫu Chúa Giê-su, Mẹ Maria
– người Mẹ cao quý.
Sự hiện diện của Mẹ bên Thánh Giá, cùng niềm hy vọng và
lời xin vâng.
Nếu chúng ta chiêm ngắm Mẹ Maria đứng dưới chân Thánh Giá
của Chúa Giê-su, người phụ nữ đang nhìn người con duy nhất của mình, bị những
người ác nhân kết án tử và đóng đinh trên Thánh Giá, chúng ta sẽ cảm nhận được
tâm trạng của Mẹ: run rẩy, đau xót về những gì Mẹ đã chứng kiến trên con đường
khổ nạn của con. Truyền thống Ki-tô giáo, qua việc chiêm ngắm Mẹ trong khung cảnh
đó, đã nhận thấy kinh nghiệm đau khổ tột cùng của Mẹ. Nhưng Mẹ hiện diện dưới
Thánh Giá không rũ rượi, khi thấy con mình đang chết đau đớn, nhưng mẹ “đứng”,
trong một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao
người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa – Mẹ sầu bi
đứng dưới chân Thánh Giá! Đó là bài thơ bằng tiếng La-tinh, được viết trong
thời Trung Cổ. Dưới đây là một phỏng dịch từ tiếng La-tinh:
“Mẹ đứng dưới chân thánh giá con yêu,
Tâm can nát tan Mẹ chết trăm chiều,
Gần bên Chúa trong giờ tử nạn.
Mẹ diễm phúc của Con một Cha,
Đấng tạo dựng đất trời,
Buồn thương và thảm thiết biết bao!
Đức Kitô chịu hành hạ trên cao,
Bên dưới Mẹ đứng nhìn xót xa,
Thấy Con chết anh hùng, tử đạo.
Hỡi những kẻ đi đường lơ đễnh,
Hãy trông xem Hiền Mẫu chúng ta
Đau xót nào sánh bằng của Mẹ?
Trái tim ai chịu nổi được không?
Mà chẳng hề chia sớt với Mẹ
Nỗi đau tày biển rộng trời cao?
Chỉ một mình phụng vụ thánh đủ khả năng khai thác tốt đề
tài này và có thẩm quyền phổ biến cho mọi thời đại suy ngẫm vì lợi ích các linh
hồn thánh thiện. Giáo hội yêu mến hình ảnh Mẹ Sầu Bi. Người ta có thể giải
thích bài ca Stabat Mater (Mẹ đứng kề thánh giá) là phản ánh chính Giáo hội. Nó
là bài ca về lòng mẹ hiền tan nát và khổ đau vinh quang. Giáo hội lục lọi các
lời tiên tri và hô lớn với ngôn sứ Giêrêmia lên tổ phụ mình rằng: ‘Tai
họa ngươi mắc phải lớn quá rồi, lớn tựa trùng dương ai chứa nổi?’ (Ai
ca 2, 13). Hội Thánh áp dụng lời này cho Mẹ Sầu Bi, như khi nói về Đức Giêsu,
Hội Thánh áp dụng thân phận cô gái héo hắt Sion: ‘Này tất cả những ai
qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem, có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ Đức Chúa
giáng trên tôi?’ (Ai ca 1, 12)”.[3]
Trong Phụng Vụ có lễ kính Đức Mẹ Sầu bi vào ngày 15.9, sau
lễ Suy Tôn Thánh Giá. Như thế, Giáo Hội như muốn nói rằng: “Khi Ðức Kitô
chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Chúa đứng kề bên mà
thông phần đau khổ”. (Lời nguyện Các giờ Kinh Phụng Vụ, Lễ Đức Mẹ Sầu Bi).
Thật vậy, cuộc đời của Mẹ Maria luôn kết hợp với những nỗi khổ đau của Chúa
Giê-su, con Mẹ. Có lẽ không đau khổ nào lớn hơn đau khổ của chính Đức Mẹ Thiên
Chúa, Đấng mà theo lời của Thánh Gioan, “đã đứng kề bên thập tự giá Đức Chúa
Giêsu” (Ga 19,25) trên đồi Calvê. Không ai hiểu con cho bằng người mẹ, và
cũng không ai đau khổ hơn người mẹ khi phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết
của con mình.
Cũng nên nhắc đến bài thánh ca của linh mục Kim Long Mẹ
đứng đó, lời bài hát tương hợp với bài thơ Stabat Mater dolorosa - Mẹ
sầu bi đứng dưới chân Thánh Giá, diễn tả tâm trạng đau khổ của Mẹ
Maria: “Mẹ đứng đó khi hoàng hôn tím mầu. Nhạc thương trầm buông hắt hiu. Đồi
cao u hoài loang máu đào. Con Chúa đau thương treo trên Thánh Giá. Hiến thân vì
nhân loại tội tình. Mẹ đứng đó tâm hồn tê tái sầu. Đồng công cùng con dấu yêu.
Vì thương nhân loại bao khốn cùng. Xin dẫn đưa bao tâm hồn lạc hướng về bên Mẹ,
Mẹ ơi!”
Cantalamessa diễn tả thật tuyệt vời về sự đau khổ của Mẹ
trên đường thương khó và ở dưới Thánh Giá: “Ðức Maria cũng đã uống cạn chén khổ
nạn. Có thể nói về Người như đã nói về Nữ Tử Sion, Người “đã uống chén lôi đình
từ tay Giavê, Người đã uống, đã nốc cạn ly (x. Is 51, 17). Nếu bên khổ giá Ðức
Giêsu, trên Núi Sọ, có Maria Mẹ Ngài, thì điều đó có nghĩa là trong những ngày
đó Người có mặt tại Giêrusalem, đã chứng kiến tất cả, đã tham dự vào tất cả
cuộc khổ nạn. Người đã nghe thấy tiếng la hét: ‘Không phải hắn mà là Barabas
!’; Người đã thấy Ecce homo; Người đã nhìn thấy thịt bởi thịt
mình bị đòn roi, đẫm máu, bị đội vòng gai, nửa thân trần trụi trước đám đông
dân chúng, Người đã chứng kiến tấm hình hài đó run rẩy, co giật bởi những cơn
rùng mình của cái chết. Người đã nghe tiếng búa nện và những lời lăng nhục:
‘Nếu mày là Con Thiên Chúa’. Người đã nhìn thấy những tên lính chia nhau áo
xống của Ngài, cả tấm áo trong mà chính tay Người đã dệt. Tâm tình đạo đức Kitô
giáo quả đã không lầm khi áp dụng cho Ðức Maria những lời mà Nữ Tử Sion thốt
lên tong nỗi buồn sầu đau đớn: ‘Hỡi những khách qua đường, hãy trông
xem: có đớn đau nào như nỗi đớn đau hành hạ thân tôi’ (Ac 1, 12). Nếu
Thánh Phaolô đã có thể nói: ‘Tôi mang nơi thân mình tôi những vết hằn
của Ðức Giêsu’ (Ga 6, 17), thì Ðức Maria có thể nói đến thế nào nữa?
Ðức Maria là người đầu tiên trong Kitô giáo được in thương tích vô hình, hằn
sâu trong trái tim, như sau này sẽ xảy ra nơi các thánh nam nữ”.[4]
Tuy nhiên, thật là thiếu xót, nếu chỉ dừng lại ở sự khổ
đau của Mẹ tại Thánh Giá, bởi vì từ Thánh Giá Chúa, từ chính trong khổ đau và
cái chết của Chúa luôn có tia sáng hy vọng đang âm ỉ cháy. Thật vậy, ba lần
Chúa Giê-su loan báo về cuộc thương khó Ngài phải chịu, thì trong cả ba lần sứ
điệp Phục Sinh luôn được Ngài nhắc tới. Cantalamessa nhắc nhớ: “Hình ảnh về Ðức
Maria dưới chân Thập Giá, như hình ảnh gợi hứng từ bài Stabat
Mater (Mẹ đứng đó), trong đó Ðức Maria chỉ có ‘buồn và sầu khổ’ mà
thôi, chỉ còn là Người Mẹ sầu khổ (Mère des douleurs), hình ảnh đó sẽ rất thiếu
sót, không đầy đủ vì như thế là không lý gì đến sự kiện chính Gioan trình bày
hình ảnh đó, và theo Gioan, Thập Giá còn hàm chứa giá trị vinh quang và của
chiến thắng. Trên Núi Sọ, Ðức Maria không chỉ là ‘Mẹ sầu bi’ mà còn là Người Mẹ
cậy trông, Mater spei, như một thánh thi của Giáo Hội đã cầu
khẩn Người…Thánh Phaolô khẳng định về Abraham trong thử thách: đó là ‘tuyệt
vọng mà vẫn một niềm cậy trông, ông đã tin’ (Rm 4, 18). Lời tuyên bố này áp
dụng cho Ðức Maria dưới chân Thánh Giá lại càng đúng hơn: tuyệt vọng mà vẫn một
niềm cậy trông, Mẹ đã tin. Tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông là gì nếu không
phải là ‘chẳng còn là lý do gì để hy vọng, ở trong một tình cảnh hoàn toàn bị
tước hết mọi hy vọng, xét trên bình diện nhân loại, và hoàn toàn đối nghịch với
lời hứa, nhưng không vì thế mà vơi niềm cậy trông, chỉ duy còn dựa vào lời hy
vọng mà Thiên Chúa đã phán vào thời của Người… Một lần nữa, chúng ta
hãy nhìn về Người đã biết đứng bên Thập Giá, tuyệt vọng mà vẫn một niềm
cậy trông, hãy biết năng kêu cầu Người dưới danh hiệu “Mẹ cậy trông”, và nếu
lúc này ta đang gặp thử thách, muốn thất vọng buông xuôi, thì hãy lấy lại bình
tĩnh bằng cách lập lại cho chính mình những lời này: Quả ơn nghĩa Giavê không
hết, lòng thương xót của Người không cạn, nên tôi trông cậy vào Người”.[5]
Sự hiện diện và đau khổ tột cùng của Mẹ, và niềm hy vọng
vững vàng của Mẹ tại Thánh Giá, một cách nào đó diễn tả sống động quyết tâm
sống lời xin vâng của Mẹ. Khi Mẹ nói lời xin vâng với Thiên Chúa qua sứ thần
Gabriel, thì Mẹ đã sẵn sàng đi vào con đường mà Thiên Chúa chuẩn bị cho Mẹ. Con
đường hẹp của người phụ nữ mang thai không được ngôi nhà nào đón tiếp, để có
thể sinh con trong mái ấm của cuộc đời, mà cuối cùng phải sinh con trong hang
bò lừa hôi hám và lạnh lẽo. Con đường của người Mẹ cùng với chồng là thánh
Giu-se phải đưa con mình là hài nhi Giê-su chạy trốn qua Ai-cập, thoát khỏi sự
lùng sục bắt bớ với âm mưu triệt hạ hài nhi của vị vua trần thế. Con đường xin
vâng của Mẹ là con đường tuân theo thánh ý Chúa, con đường hẹp nhiều chông gai.
Con đường đó kéo dài cho đến cuộc tử nạn của Chúa Giê-su. Ở đoạn cuối này, lời
xin vâng của Mẹ ngày xưa vẫn không thay đổi, hay có thể nói mạnh mẽ hơn nữa.
Mỗi bước chân Con của Mẹ lê bước vác Thánh Giá, đều có bước chân của Mẹ dõi
theo, đồng hành và sẻ chia. Ở tại cây Thánh Giá, nơi con Mẹ đang bị treo đau
đớn, lời xin vâng của Mẹ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thật vậy, sự hiện diện của Mẹ
bên Thánh Giá cho thấy, Mẹ quyết tâm chia sẻ trọn vẹn sứ mạng và hy lễ cứu độ
của Con Mẹ là Chúa Giê-su. Mẹ muốn tham dự vào tận đáy sâu thẳm những thống khổ
mà Chúa Giê-su chịu. Mẹ không khước từ lưỡi gươm cụ già Si-mê-on ngày xưa tiên
báo cho Mẹ: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc
2, 35b). Mẹ luôn nói lời xin vâng với Thiên Chúa, cụ thể trong chương trình
huyền nhiệm của Chúa Cha giành cho Chúa Ki-tô. Cantalamessa đã cảm được tâm
tình xin vâng của Mẹ Maria, cụ thể qua sự thinh lặng của Mẹ dưới chân Thánh
Giá: “Ngôn ngữ của Thập Giá là thinh lặng. Thinh lặng giữ hương thơm của hy tế
cho riêng Thiên Chúa mà thôi. Nó giữ cho đau khổ không bị tiêu tán, không tìm
kiếm và tìm thấy phần thưởng đền bù nơi trần thế này.
Nếu Ðức Maria có chịu cám dỗ như Ðức Giêsu đã từng chịu
trong sa mạc, thì phải là và nhất là dưới chân Thập Giá: một cơn cám dỗ vào
loại thâm hiểm nhất mà cũng là đau đớn nhất, bởi lẽ chính Ðức Giêsu lại là căn
cớ. Người đã tin vào các lời hứa, Người tin rằng nếu Ðức Giêsu cầu xin thì hẳn
Chúa Cha sẽ gởi đến cho Ngài ‘hơn mười hai cơ binh thiên thần’ (x. Mt 26, 53).
Thế mà Ðức Giêsu đã không làm gì cả. Nếu Ngài tự cứu mình khỏi Thập Giá thì
cũng là cứu Người khỏi nỗi đau đớn khủng khiếp. Thế nhưng Ðức Maria đã không
kêu: ‘Hãy xuống khỏi Thập Giá đi, Con hãy tự cứu mình mà cũng là cứu cả Mẹ nữa
!’. Người cũng không nói: ‘Con cứu bao nhiêu người khác, thế sao bây giờ không
thể tự cứu mình nữa, hở Con ?’. Dù rằng một ý nghĩ, một niềm ao ước như thế tự
nhiên phải nẩy lên trong tâm hồn người mẹ, đó là điều dễ hiểu, thế nhưng Người
thậm chí cũng không hỏi Ðức Giêsu: ‘Này Con, tại sao Con làm thế với cha mẹ ?’,
như khi xưa, lúc Người tìm được Ðức Giêsu trong Ðền Thờ (Lc 2, 48). Maria lặng
thinh dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một Người Mẹ hết tình ưng
thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra, lời của Công Ðồng Vatican II. Người
đã cùng với Ðức Giêsu cử hành lễ Vượt Qua của Ngài”.[6]
Ðức Maria hiệp nhất với hy tế của Con mình, cách nhìn đó
đã được diễn tả cách đúng mức, giản dị và trang trọng trong một bản văn Công
Ðồng Vatican II: “Như thế, Ðức Trinh Nữ cũng tiến bước trong cuộc lữ hành đức
tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi mà theo ý Thiên
Chúa, Người đã đứng ở đó. Ðức Maria đã đau đớn chịu khổ cực với Con Một của
mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết tình ưng
thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra” (Lumen gentium 58). Thật
vậy, lời xin vâng của Mẹ đã gặp lời xin vâng của Chúa Giê-su trong hành trình
sứ vụ của Ngài, ngay trong biến cố Chúa làm phép lạ đầu tiên ở Ca-na, và kết
thúc với con đường Thánh Giá.
Cana và Thánh Giá – Tiệc cưới giữa Thiên với Trần.
Trong Phúc Âm của Gio-an, Mẹ Maria chỉ xuất hiện hai lần
trong cuộc đời công khai của Chúa Giê-su: lúc khởi đầu và kết thúc sứ vụ công
khai đều có sự hiện diện của Ðức Maria. Trong hai lúc này Ðức Maria mới chỉ
được gọi là “Bà”. Thiết tưởng cũng nên nhấn mạnh, cũng là từ ngữ “Bà” này, Chúa
Giê-su dùng ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới chân Thánh Giá, để tâm tình với Mẹ
của mình.
Trước hết, khi chiêm ngắm lại biến cố Ca-na, chúng ta có
thể nhận ra Mẹ Maria là Mẹ của sự biến đổi. Thật vậy, qua Mẹ mà Chúa Giê-su con
Mẹ đã biến những lu nước thành rượu ngon, cứu vãn đôi tân lang và tân nương
thoát khỏi một hoàn cảnh tế nhị của việc hết rượu trong buổi tiệc cưới.
Một ỹ nghĩa sâu xa hơn ở tại Ca-na, là Thiên Chúa qua việc
nhập thể của Chúa Giê-su đang cùng nhân loại chúng ta mừng tiệc cưới, Thiên
Chúa muốn nối kết với nhân loại chúng ta, Ngài muốn ban cho chúng ta một hương vị
mới, hương vị của rượu ngon, hương vị của tình yêu. Thật vậy, ở Ca-na tình yêu
của Chúa được biểu lộ thật tuyệt vời: Nước thành rượu. Đó chính là sự biến đổi
của tình yêu ở Ca-na. Sự biến đổi này đã tìm thấy sự hoàn tất ở tại Thánh Giá
của Chúa Giê-su. Tình yêu của Chúa giành cho nhân loại ở tiệc cưới Ca-na, đã
tìm được sự dồi dào phong phú và hoàn tất nới Thánh Giá của Chúa Giê-su. Như
thế, cái chết của Chúa trên Thánh Giá là sự hoàn tất của tiệc cưới giữa Thiên
Chúa và nhân trần.[7]Hơn nữa, tại Thánh Giá, sự vinh hiển của
Thiên Chúa tỏ hiện ở tại Ca-na đã tìm được sự hoàn tất của nó. Và tại Thánh Giá
của Chúa, mọi sự, ngay cả sự chết, ngay cả tội lỗi của chúng ta cũng được đón
nhận vào trong tình yêu của Thiên Chúa. Vâng, không có gì nơi nhân loại có thể
vượt ra khỏi sự đụng chạm của tình yêu Thiên Chúa nơi Thánh Giá Đức Ki-tô. Cũng
thế, tất cả mọi sự tương phản của thế giới này tìm thấy được sự hiệp nhất tại
Thánh Giá của Ngài. Ở Ca-na, Mẹ Maria là cánh cửa, Chúa Giê-su qua cánh cửa đó
để bước vào thế giới. Dưới Thánh Giá, Mẹ cũng là cánh cửa, qua đó Chúa Giê-su
đi vào trong vinh quang của Cha mình.[8]
Hơn nữa, dưới Thánh Giá, người phụ nữ thành Na-gia-rét,
cũng trở thành người Mẹ của những người tin, qua tâm tình nhắn gởi của Chúa
Giê-su, Con Mẹ.
§ Thưa Bà, đó là con Bà.
Trở về lại với biến cố truyền tin, chúng ta lắng nghe sứ
thần Gáp-ri-en chào Mẹ tại Na-gia-rét: “Kính chào Bà đầy ân phúc” (Lc
1,28). Lời chào này một cách nào đó cũng soi sáng cho khung cảnh của Chúa chịu
đóng đinh trên đồi Sọ. Biến cố Truyền tin báo hiệu một khởi đầu, Thánh Giá giá
diễn tả một kết thúc. Trong cảnh Truyền tin, Mẹ Maria trao ban bản tính loài
người cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ; dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận
toàn thể nhân loại vào tâm hồn Mẹ qua lời trao gởi của Chúa Giê-su: Thưa
Bà, đó là con bà. Chúa Giê-su muốn Mẹ đón nhận Thánh Gio-an là người môn đệ
Chúa yêu thương, trở thành đứa con của Mẹ. Chúa muốn đem lại cho Gio-an một mái
ấm mới, một quê hương mới với người Mẹ luôn yêu thương chăm sóc con mình.[9] Nói
cách khác, vào lúc đầu tiên của biến cố nhập thể, thiếu nữ thành Na-gia-rét đã
trở thành Mẹ Thiên Chúa, thì trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa
Giê-su – Con Mẹ, Mẹ trở thành Mẹ của những người tin, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của nhân
loại.
Như thế, dưới chân Thánh giá, Mẹ đón nhận trực tiếp từ
Chúa Giê-su như một lời truyền tin thứ hai: “Thưa Bà, đó là con bà” (Ga
19,26). Lời truyền tin thứ nhất do Sứ thần đem đến, lần truyền tin thứ hai lại
do chính Chúa phán ra. Lời truyền tin thứ hai long trọng. Đức Giê-su, Ngôi Lời
làm người trong cung lòng Mẹ, truyền tin cho Mẹ mình, công bố vai trò Đức Maria
là Mẹ Nhân Loại, Mẹ Giáo Hội. Về điều này, Giáo Lý Hội Thánh viết rằng, Ðức
Ma-ri-a kết hợp với Chúa Ki-tô, đó là nền tảng vai trò của Mẹ đối với Hội
Thánh. Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu độ được tỏ rõ từ khi Ðức
Ma-ri-a thụ thai Chúa Ki-tô cách trinh khiết, cho đến lúc Chúa Ki-tô chết; đặc
biệt trong cuộc khổ nạn. (X.GLHTCG số 964).[10] Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (LG –
Lumen Gentium) của Công Đồng Vaticannô II, cũng nói rằng: “Ðức Trinh Nữ tiến
bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên
Thánh Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó (x. Ga 19, 25).
Ðức Ma-ri-a chịu đau khổ kinh khủng với người Con duy nhất của mình, dự phần
vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng
mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thánh Giá, Chúa Giê-su Ki-tô đã
trối Mẹ làm mẹ của môn đệ: Thưa Bà, này là con Bà (Ga 19,
26-27)” (số 58).[11]
Chúa Giê-su đã thiết lập vai trò làm Mẹ nhân loại cho
trinh nữ Maria, nữ tử Sion – Mẹ Ngài. Cantalamessa đã diễn tả như sau: “Như
thế, dưới chân Thập Giá, Ðức Maria xuất hiện như là Nữ Tử Sion, sau khi chịu
tang các con mình, đã được Thiên Chúa ban cho một dòng dõi mới, không theo xác
thịt nhưng theo Thần Khí, một dòng dõi đông hơn dòng dõi ban đầu. Ðây là điều
mà một thánh vịnh được phụng vụ áp dụng cho Ðức Maria nói lên: ‘Kìa xứ
Philitinh, thành Tyr cùng miền Ethiopi, tại đó kẻ này người nọ đã sinh ra’.
Nhưng về Sion, người ta có thể nói: ‘Người người sinh tại đó ‘. Chúa ghi vào sổ
bộ các dân: ‘Kẻ này người nọ đều sinh ra tại đó’ (Tv 87, 2tt). Ðúng vậy: tất cả
chúng ta đều sinh ra tại đó, mọi người đã sinh ra. Cả tôi, cả bạn”.[12]
Ngoài ra, Công Đồng còn nêu bật vai trò của Mẹ Maria, là
cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa, và qua đó là Mẹ thật của
các tín hữu trong bình diện ân sủng: “Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng
Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với
Con mình chết trên Thánh Giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công
trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng
nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện
ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta”. (LG. 61).[13]
Mẹ Maria, Mẹ chúng ta thật là tôi tớ khiêm hạ và sẵn sàng
vâng theo thánh ý của Chúa, như Mẹ đã nói với thiên thần Gáp-ri-en: “Vâng, tôi
đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38).
Đó là một nét trên hành trình thiêng liêng của Mẹ. Đi sâu hơn, chúng ta đọc lại
lời của Chúa Giê-su nói với Mẹ Maria: “Hỡi Bà, này là con Bà”, và với Gioan:
“Này là Mẹ con”. Theo Cantalamessa, “ở đây chúng ta khám phá thấy một khía cạnh
quan trọng trong hành trình thiêng liêng của Mẹ Thiên Chúa. Một lần nữa, ta
thấy Người như khách kiều cư lữ thứ trong thế giới này, không mái ấm, không nơi
ở thực sự là của mình trên trần gian. Người để cho Thiên Chúa ‘đặt định’ thời
gian sinh Con, khi Lời Chúa đặt Người vào trong hoàn cảnh hoàn toàn cô đơn
trước mọi người, Thiên Chúa yêu cầu Giuse đón nhận Ðức Maria: ‘Giuse, con của
Ðavít, ngươi chớ sợ cưới Maria vợ ngươi về nhà’ (Mt 1, 20). Tỉnh giấc, Giuse đã
đem Người về nhà mình. Giờ đây, lúc Con chết, một lần nữa Người lại đơn độc
trong cuộc đời. Thiên Chúa yêu cầu Gioan đem Người về nhà mình và ‘Gioan từ giờ
ấy đã lãnh lấy Bà về nhà mình’. Maria quả là người phụ nữ lênh đênh, không bám
vào đâu cả, từ đầu đến cuối, Người để cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời mình.
Ðối với chúng ta, Người như hiện thân của nghèo khó, Ðức Bà Nghèo Khó”.[14]
Đức Bà nghèo khó là Mẹ của Chúa Giê-su và của chúng ta.
Thật đẹp biết bao mẫu gương của người Mẹ có tâm hồn nghèo khó đứng dưới chân
Thánh Giá.
Ở gốc cây biết lành biết dữ, Evà đã mất chức làm mẹ loài
người.
Ở dưới chân Thánh giá, Đức Mẹ đón nhận chức vị làm Mẹ loài
người.
Là Mẹ loài người và là Mẹ Chúa Giê-su, đó là nét đẹp tuyệt
vời nơi Mẹ. Chúa Giê-su đã vẽ lên một tuyệt phẩm về chính người Mẹ của mình, và
Ngài cũng trao gởi tuyệt phẩm này cho chính môn đệ yêu dấu của Ngài, và cũng
trao gởi cho mỗi người chúng ta. Như thế, qua hành động của Chúa Giê-su, Giáo
Hội đã khám phá đôi chút về mầu nhiệm đời sống Ki-tô hữu. Người tín hữu là
thành viên của một gia đình thiêng liêng. Cũng như một đứa trẻ cần có cha có mẹ
để phát triển bình thường, thì người tín hữu cũng cần có Đức Maria và Cha trên
trời.[15]
Ngoài ra, Cantalamessa cũng giúp suy niệm thêm về sự hiệp thông
giữa Mẹ Maria và Chúa Giê-su qua lời Chúa nói với Mẹ: “Hỡi Bà, này là con Bà!,
chắc chắn Ðức Giêsu đã quay về nhìn Mẹ, đến nỗi không cần phải gọi tên của
Người. Ai có thể thấu được ánh mắt đó giữa Mẹ và Con, trong giây phút như vậy.
Mọi nỗi đau khổ của con người đều hàm chứa một chiều kích ‘riêng tư’ thân
thiết, và người ta chia sẻ đau khổ theo ‘gia đình’, giữa những người gắn bó với
nhau bằng mối dây máu mủ ruột thịt. Niềm đau khổ của Ðức Kitô và của Ðức Maria
cũng đã được chia sẻ như thế! Một niềm vui trong đau đớn tột cùng chuyển thông
giữa hai người như nước trong hai bình thông nhau. Niềm vui đến từ việc, từ
đây, các Ngài chẳng những không còn chống chọi lại nỗi đau đớn, mà ngay cả để
cho nỗi đau đó tự do xâm nhập vào tận những gì thâm sâu nhất. Sau cuộc chiến
đấu là niềm bình an. Các Ngài nên một với đau khổ và tội lỗi của toàn nhân thế.
Ðức Giêsu nên một cách trực tiếp trong tư cách là ‘hy lễ đền tạ tội lỗi của thế
gian’ (x. 1Ga 2, 2). Còn Ðức Maria thì một cách gián tiếp, qua sự kết hiệp với
Con bằng cả thân xác và tâm hồn”.[16]
Này là Mẹ của con.
Đó là lời Chúa nhắn nhủ với Gio-an, môn đệ Chúa yêu
thương. Khi đọc lời trên, chúng ta thấy rằng, trong cái nhìn đầu tiên mang tính
con người, Chúa Giê-su đã diễn tả tình yêu của mình giành cho Mẹ Maria. Chúa là
người con duy nhất của Mẹ, và sau khi Chúa chết, Mẹ sẽ sống lẻ loi một mình
trên thế giới này. Có lẽ vì lo cho người Mẹ đang chịu nhiều đau khổ và mất mát,
Chúa đã trao gởi Mẹ cho người môn đệ mà Chúa tin tưởng và thương yêu. Gio-an,
tên người môn đệ đó, giờ đây trở nên người con trai của Mẹ, và Gio-an cần phải
có trách nhiệm với Mẹ Maria.[17] Điều Chúa Giê-su làm thật là một cử
chỉ cao quý. Có lẽ Thánh Giu-se đã qua đời trước đó, nên Chúa không muốn Mẹ
mình phải sống trong cảnh goá phụ bị lệ thuộc và cô đơn, cũng như bị người đời
nguyền rủa, bởi vì trong xã hội Do-thái thời đó người phụ nữ đơn chiếc là coi
như bị nguyền rủa.
Chúa không muốn người phụ nữ quá đau đớn vì mất con, và đã
phải trải qua biết bao thống khổ khi đồng hành với con trên đường Thánh Giá,
lại phải một mình chìm trong nỗi đau khổ tột cùng, trong những tháng ngày còn
lại của bà.
Cũng thật cao quý biết bao, khi Chúa Giê-su trong hoàn
cảnh đau khổ của mình trên Thánh Giá, Ngài đã không nghĩ làm sao để Ngài có thể
đỡ đau đớn, mà Ngài lại quên mình đi, và nghĩ tới Mẹ mình, nghĩ tới người khác
đang đứng kia với một tâm hồn sầu não thảm thê. Đó là tình yêu của Chúa giành
cho Mẹ. Một tình yêu không chỉ mang sắc thái của tình cảm con người, mà còn
mang tinh thần quên mình đi, và luôn chú ý và chăm sóc người khác, người gần
nhất cũng như người xa nhất.
Thật vậy, trong chính bầu khí của khổ đau, không cần nhiều
lời, chỉ một vài lời ngắn ngủi, Chúa đã đưa lại biết bao ủi an cho Mẹ mình, đã
tháo cởi chiếc dây trói buộc khổ đau vào cuộc đời của Mẹ: Này là Mẹ của
con. Ngay trong bầu khí khổ đau này, Chúa đã tạo nên một tương quan mới cho
Mẹ mình. Trong chính bầu khí của khổ đau, một bầu khí của tình yêu đã được khơi
mào, dù rất nhỏ nhưng thật quý giá. Và với thời gian, bầu khí của tình yêu này
đã lớn dần và mạnh mẽ, lan toả đến khắp mọi nơi. Bầu khí tình yêu của Mẹ giành
cho nhân loại, giờ đây không bao giờ đóng lại với bất cứ ai. Tình Mẫu Tử này
thật cao quý, vì thế tình của mỗi người con giành cho Mẹ cũng cần phải cao quý
như vậy.
Mở rộng cánh cửa đón mời Mẹ.
Khi Chúa Giê-su trao phó cho Gio-an Mẹ của Người, Gio-an
đã phản ứng như thế nào? Đọc phần kế tiếp, ngay sau lời Chúa nói với Gio-an,
chúng ta thấy rằng: “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga
19, 27b). Trong bản văn của tiếng Hy-lạp là eis ta idia. Theo cha
A. Gruen, thì có nghĩa là vào trong nội tâm của anh, vào trong trái tim của
anh.[18] Còn
theo ĐTC. BenedictoXVI, thì có nghĩa theo mạch chữ là anh ta đón nhận Mẹ vào
trong nơi sâu kín của anh, vào cuộc sống nội tâm của anh.[19] Và theo nhà Thánh Kinh học
Schnackenburg cũng vậy. Từ ngữ eis ta idia diễn tả không gian của tâm hồn.[20] Còn
Cantalamessa thì giải thích rằng: “Câu ‘Và môn đồ đã lĩnh lấy Bà về nhà mình’ (els
tu ídin) trong nguyên bản có thể có hai nghĩa, và tất nhiên phải bảo tồn cả
hai nghĩa đó. Môn đồ đã lĩnh lấy Bà về nhà mình và môn đồ đã
nhận Bà vào số những gì mình quí giá nhất. Người ta rất ít
nghĩ đến tất cả sự phong phú của câu văn thật ngắn ngủi đó. Nó chứa đựng bên
trong một tin có tầm quan trọng lớn lao và được bảo đảm về mặt lịch sử, bởi nó
được chính người có liên quan viết ra. Ðức Maria đã sống những năm cuối đời với
Gioan. Những điều chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng thứ Tư, về Ðức Maria ở Cana
xứ Galilê và dưới chân Thập Giá, thì đã được người sống dưới cùng một mái nhà
với Ðức Maria viết ra.”.[21] Gio-an đã mở rộng cánh cửa đón mời
Mẹ Maria vào. Cánh cửa đó không chỉ là cánh cửa nhà của ông, mà là cánh cửa tâm
hồn sâu kín của ông. Như thế, Gio-an đã sống đúng điều mà Chúa Giê-su nhắn nhủ
ông.
Hơn nữa, khi Chúa nói “Đây là Mẹ của con”,
Chúa cũng muốn Gio-an hãy yêu thương Mẹ như Chúa đã yêu thương Mẹ. Qua di ngôn
này Chúa Giê-su cũng đã đặt nền tảng cho việc yêu mến Mẹ Maria trong lòng Giáo
Hội, trong lòng mỗi tín hữu. Thật vậy, người tín hữu nào đón nhận Mẹ Maria vào
nhà mình, vào tâm hồn sâu kín như ông Gio-an, sẽ không trở thành kẻ cuồng tín
hay khờ khạo, nhưng họ trở là những tín hữu với tâm hồn khiêm tốn, đơn sơ, tràn
đây hân hoan và niềm vui tôn kính và yêu thương Mẹ Maria như hiền mẫu của mình.
Công Đồng đã dạy rằng: “Phần các tín hữu hãy nhớ rằng, lòng tôn sùng chân chính
không hệ tại ở tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù
phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ
nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con
thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).[22]
Một trong những nhân đức cao quý của Mẹ là luôn thờ lạy
Thiên Chúa và luôn xin vâng theo thánh ý của Ngài. Vì thế, đi đôi với sự tôn
sùng Mẹ Maria, người tín hữu luôn ý thức thờ lạy Thiên Chúa trên hết mọi sự, và
thờ lạy Ngài là Thiên Chúa Duy Nhất. Đó chính là nét đặc trưng của người Công
Giáo: biết đón nhận Mẹ Maria, nhưng không vì thế mà lãng quên Thiên Chúa của
mình.
Khi đón nhận Mẹ Maria, người tín hữu ý thức đó là món quà
vô giá mà chính Chúa Giê-su ban tặng. Thật tuyệt vời, khi người tín hữu nhận ra
rằng: Vì yêu thương nhân loại qua đỗi, nên Cha trên trời đã tặng ban Người Con
Duy Nhất của Ngài cho nhân loại. Giờ đây, Người Con Duy Nhất yêu thương nhân
loại đến nỗi hy sinh chính bản thân mình cho nhân loại, và ban tặng thêm một
món quà cao quý là chính Mẹ của Ngài.
Cantalamessa cũng chia sẻ: “Chúng ta đặt thêm câu hỏi:
việc lãnh lấy Ðức Maria về nhà mình có ý nghĩa đối với chúng ta cụ thể như thế
nào ? Tôi thiết tưởng đây là lúc để nói về cốt lõi lành mạnh, giản dị của linh
đạo Monfort về niềm tín thác vào Ðức Maria: ‘Thực hiện mọi hành động nhờ Ðức
Maria, với Ðức Maria, trong Ðức Maria, ngõ hầu thực hiện chúng cách hoàn hảo
hơn nhờ Ðức Giêsu, với Ðức Giêsu, trong Ðức Giêsu và vì Ðức Giêsu’. ‘Cần phải
phó thác theo tinh thần của Ðức Maria để được thúc đẩy và dẫn dắt theo cách
thức Người muốn. Phải tự đặt mình trong đôi tay trinh khiết của Người, như một
dụng cụ trong tay người thợ, như chiếc đàn luýt (luth) trong tay người nhạc
công tài tình. Phải buông mình phó thác cho Người như viên đá ném vào biển cả:
điều này thực hiện cách đơn giản, trong một khoảnh khắc bằng chỉ một liếc mắt
của tâm trí, một chuyển động nhỏ của ý chí hay bằng môi miệng’…
Ðức Maria là một trong những phương thế ưu việt mà Chúa
Thánh Thần dùng để dẫn dắt các tâm hồn và dẫn đưa họ đến chỗ nên giống Ðức
Kitô, bởi lẽ Ðức Maria là thành phần của Lời Chúa, chính bản thân Người là một
lời bằng hành động (parole en action) của Thiên Chúa. Câu“ad Jesum per
Mariam”, nhờ Ðức Maria tới Ðức Giêsu, phải được hiểu theo nghĩa Chúa
Thánh Thần dùng Ðức Maria để dẫn đưa chúng ta tới Ðức Giêsu thì mới có thể chấp
nhận được. Trung gian thụ tạo (médiation crée) của Ðức Maria, giữa Ðức Giêsu và
chúng ta, sẽ tìm lại được tất cả hiệu lực của nó nếu được hiểu như là phương
tiện của trung gian bất thụ tạo (médiation incrée) là Chúa Thánh Thần”.[23]
Chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết luôn mở rộng cánh cửa
nhà mình, cánh cửa tâm hồn mình ra, để như Gio-an đón Mẹ Maria vào, dọn cho Mẹ
một chỗ xứng hợp. Có Chúa có Mẹ, thì đời sống người tín hữu sẽ không bao giờ lẻ
loi. Có Chúa, có Mẹ người tín hữu sẽ tìm thấy được an bình và hạnh phúc đích
thật. Có Chúa có Mẹ ở bên, tất cả mọi khổ đau của cuộc đời này sẽ không thể làm
cho người tín hữu đánh mất chính bản thân. Chữ cuối cùng của cuộc sống này sẽ
không phải do thần chết viết lên, mà do chính Chúa và Mẹ viết lên. Chữ đó là
chữ tình yêu trao ban sức sống và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Đón nhận tình yêu để biết sống yêu thương.
Theo cha A. Gruen[24], khi Chúa Giê-su trao phó Mẹ Maria cho
Gio-an, người môn đệ yêu dấu của Ngài, thì Chúa muốn ban tặng tình yêu của Chúa
trong Mẹ Maria cho mọi người. Người môn đệ yêu dấu của Chúa là hình ảnh biểu
trưng cho mọi người. Như thế, trách nhiệm của chúng ta là đón nhận tình yêu
Chúa vào trong nhà của chúng ta, vào trong tâm hồn chúng ta, vào trong nơi sâu
kín nhất của cuộc đời chúng ta. Khi có tình yêu trong chúng ta, chúng ta sẽ trở
thành những người có khả năng yêu thương. Chúng ta không còn phải sợ hãi nữa.
Có tình yêu, có Chúa và có Mẹ trong căn nhà cuộc đời và trong sâu thẳm của tâm
hồn chúng ta, thì nguồn sống và nguồn tình yêu đang ở trong chúng ta. Không có
gì có thể lấy mất kho tàng vô giá đó. Qua việc suy niệm di ngôn Chúa nói với Mẹ
và môn đệ yêu dấu của Ngài, chúng ta đụng tới nguồn của tình yêu đang ở trong
chiều sâu tâm hồn chúng ta.
Chúng ta cũng ý thức rằng, nguồn tình yêu đó luôn bị đe
doạ và nhấn chìm bởi những thế lực đến từ sự dữ, bởi những lo âu và đau khổ
hằng ngày, cũng như bởi những áp lực của cuộc sống. Khi suy niệm di ngôn này,
chúng ta để cho nguồn tình yêu trong sâu thẳm tâm hồn của chúng ta nổi lên, lộ
rõ lên và sống động lên. Nhờ đó, chính nguồn tình yêu này bước vào trong sự ý
thức của chúng ta, chảy sâu vào trong suy nghĩ của chúng ta, và hướng dẫn lời
nói cùng hành động của chúng ta. Hơn nữa, nếu nguồn tình yêu này thấm nhuần
những cảm giác của chúng ta, thì nó sẽ giúp chúng ta tìm được những tương quan
tốt đẹp với người khác, với bạn bè, với người than, đặc biệt giúp chúng ta đi
vào được tương quan với Chúa Giê-su, cụ thể giúp chúng ta ý thức luôn đứng bên
Thánh Giá, như ngày xưa môn đệ yêu dấu của Chúa đã làm.
§ Đứng bên cây Thánh Giá.
“Cả lần này nữa, chính Lời Chúa, một cách mặc nhiên, chỉ
cho Giáo Hội con đường của Ðức Maria, và cho chúng ta biết những gì mà mỗi tín
hữu phải thực hiện để noi gương Người. ‘Ðứng bên khổ giá Ðức Giêsu có Mẹ Ngài, và
bên cạnh Mẹ Ngài là môn đệ Ngài yêu mến’. Trình thuật này hàm chứa lời khuyến
thiện (parénèse). Ðiều xảy ra hôm đó chỉ cho thấy những gì phải diễn ra mỗi
ngày: đứng cạnh Ðức Maria, bên Thánh Giá Ðức Giêsu như người môn đệ Chúa yêu đã
làm. Câu nói này gợi ra hai bài học: trước hết, phải ‘đứng bên khổ giá’ và thứ
đến phải ‘đứng bên khổ giá của Ðức Giêsu’.
Ðứng bên khổ giá của Ðức Giêsu. Những từ đó nói cho chúng ta biết điều phải làm trước tiên
và cũng là điều quan trọng nhất, không phải là đứng bên khổ giá theo nghĩa
chung chung, mà là đứng bên khổ giá của Ðức Giêsu. Không phải chỉ
cần đứng bên khổ giá, chịu đau khổ là đủ, ngay cả chịu đựng trong câm lặng đi
nữa. Không! Nếu chỉ có như thế thì có vẻ anh hùng đấy nhưng đó chưa phải là
điều quan trọng nhất, thậm chí có khi chẳng là gì cả.Ðứng bên khổ giá của
Ðức Giêsu, đó mới là điều quyết định. Ðiều quan trọng không phải là
thập giá của chúng ta mà là Thánh Giá của Ðức Kitô. Không phải sự kiện chịu đau
khổ nhưng là lòng tin, và qua đó nhận đau khổ của Ðức Kitô làm của mình. Ðức
tin mới là điều quan trọng hàng đầu. Ðiều cao cả nhất của Ðức Maria dưới chân
Thánh Giá là lòng tin hơn là nỗi đau khổ của Người. Thánh Phaolô nói: lời của
Thánh Giá ‘là quyền năng của Thiên Chúa và là khôn ngoan của Thiên Chúa đối với
những ai được kêu gọi’. (x. 1Cr 1, 18. 24). Ngài còn nói Tin Mừng là quyền năng
của Thiên Chúa ‘đối với mọi kẻ tin’ (x. Rm 1, 16). Ðối với những ai được kêu
gọi và đối với những kẻ tin chứ không phải đối với bất cứ ai chịu đau khổ, mặc
dầu, như chúng ta sẽ thấy, những điều đó thường đi liền với nhau.
Ðứng bên khổ giá. Ðâu là dấu hiệu, là bằng chứng chúng ta thật sự tin vào Thánh
Giá của Ðức Kitô. Ðâu là dấu hiệu, là bằng chứng cho thấy ‘Lời của Thánh Giá’
không phải chỉ là một từ ngữ, một nguyên lý trừu tượng, một thần học hay một ý
thức hệ, nhưng thực sự là Thánh Giá? Dấu hiệu và bằng chứng, là vác lấy Thánh
Giá của mình và theo Ðức Giêsu (x. Mc 8, 34). Dấu hiệu là thông phần vào các
thống khổ của Ngài (Ph 3, 10; Rm 8, 17) là cùng chịu đóng đinh với Ngài (Ga 2,
20), là lấy chính những đau khổ của mình, bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi
quẫn bách Ðức Kitô phải chịu (Co 1, 24). Ðời sống người Kitô hữu phải trở
nên một hy tế sống động như hy tế của Ðức Kitô (x. Rm 12, 1). Nhưng vấn đề
không phải chỉ là nỗi đau khổ mình phải chấp nhận, phải chịu đựng, mà còn là
đau khổ chủ động, tự ý tìm kiếm: “Tôi đối xử khắc nghiệt với thân xác
tôi và bắt nó quỵ lụy phục tùng” (1Cr 9, 17).
Ðứng trước Thập Giá và cuộc Khổ Nạn của Ðức Kitô, quả thật
chúng ta thấy có hai thái độ khác biệt trong Giáo Hội: một thái độ đặc trưng
của thần học Tin Lành, đặt nền trên đức tin và đón nhận trong tâm hồn, thái độ
này dựa vào Thập Giá Ðức Kitô và không muốn biết thứ vinh quang nào khác ngoài
Thập Giá Ðức Kitô. Thái độ thứ hai đặc biệt được khai triển, ít là trong quá
khứ, trong thần học Công Giáo. Thái độ này nhấn mạnh đến việc cùng chịu đau khổ
với Ðức Kitô, thông phần cuộc khổ nạn của Ngài và, như trường hợp một số vị
thánh, sống lại cuộc khổ nạn của Ðức Kitô nơi bản thân mình.
Lời Chúa gợi cho thấy điều quan trọng không phải là lựa
chọn giữa thái độ này hay thái độ kia, nhưng là giữ cho hai thái độ đó kết hợp
với nhau và phát triển cả hai thái độ đó: thái độ tin và thái độ noi theo. Hiển
nhiên vấn đề không phải là đặt công trình của Ðức Kitô và việc làm của chúng ta
lên cùng một bình diện, nhưng là đón nhận lời Kinh Thánh, vì lời Kinh Thánh dạy
rằng đức tin và việc làm gắn liền với nhau, nếu không thì dù là đức tin, dù là
việc làm cũng ra vô ích (x. Gcb 2, 14tt).
Có thể nói, vấn đề rõ ràng liên hệ đến đức tin. Niềm tin
vào Thánh Giá Ðức Kitô phải trải qua đau khổ để trở thành đức tin chính thực.
Thư thứ nhất Phêrô nhắc lại rằng đau khổ là ‘lò luyện’ đức tin, và đức tin cần
đến đau khổ để được tinh luyện, như vàng trong lửa (x. 1P 1, 6 – 7). Nói cách
khác, thập giá của chúng ta tự nó không phải là ơn cứu độ, không phải là quyền
năng cũng chẳng phải là khôn ngoan, tự nó, thập giá chỉ thuần túy là việc làm
của con người ngay cả là sự trừng phạt. Thập giá trở nên quyền năng và khôn
ngoan của Thiên Chúa trong mức độ nó kết hợp chúng ta lại với Thánh Giá của Ðức
Kitô, và điều này phải là do quyết ý của Thiên Chúa và gắn liền với đức tin.
‘Chịu đau khổ có nghĩa là khai mở lòng cách đặc biệt để cho sức mạnh cứu độ của
Thiên Chúa, được ban cho nhân loại trong Ðức Kitô, tác động’. Ðau khổ đưa đến
sự kết hợp với Thánh Giá Ðức Kitô không phải chỉ trên bình diện trí tuệ nhưng
là kết hợp cách hiện sinh, cụ thể. Ðó là một thứ kênh đào, một con đường dẫn
tới Thánh Giá Ðức Kitô, không phải là con đường song song nhưng làm một với đức
tin”.[25]
Trong bài thánh thi về Thánh Giá vũ trụ chúng ta đọc thấy:
‘Ðối với tôi, cây gỗ này là ơn cứu độ muôn đời. Tôi được dưỡng nuôi, được no
thoả bằng cây đó. Bởi rễ của nó mà tôi đâm rễ sâu, bởi cành của nó mà tôi vươn
rộng; sương của nó làm tôi ngất say, và bởi Thần Khí của nó như làn gió tuyệt
vời mà tôi thành phong nhiêu. Dưới bóng của nó tôi dựng lều và tìm được nơi ẩn
náu khỏi nóng bức mùa hè. Nhờ hoa của nó mà tôi nở hoa, nhờ trái của nó mà tôi
thỏa thuê vui sướng, tôi mặc sức hái ăn, bởi đó là trái dành cho tôi ngay từ
thuở ban đầu. Cây gỗ đó là thức ăn cho cơn đói, nguồn suối cho cơn khát và là
trang phục cho sự trần trụi của tôi. Cây gỗ đó bảo vệ tôi khi tôi e sợ Thiên
Chúa, là chỗ dựa khi tôi lao đao, là phần thưởng khi tôi chiến đấu, là chiến
lợi phẩm khi tôi chiến thắng khải hoàn. Với tôi, cây gỗ đó là lối nhỏ, là con
đường hẹp, là chiếc thang Giacóp, là đường đi của thiên thần, trên đỉnh của nó
Chúa thực sự đã tựa vào”.[26]
§ Bài tập sống sứ điệp thứ hai Chúa Giê-su trên Thánh Giá.
– Đứng dưới cây Thánh Giá, trong thầm lặng xin Chúa củng
cố lòng tin của chúng ta vào Chúa, và với niềm tin xin Chúa giúp chúng ta đón
nhận đau khổ của Ðức Kitô làm của mình.
– Đứng dưới cây Thánh Giá như Thánh Gio-an, chúng ta nhớ
đến những đau khổ trong cuộc đời của chúng ta, xin Chúa cho chúng ta biết ý
thức tích cực đón nhận các khổ đau đó như là thập giá cuộc đời chúng ta. Chúng
ta đón nhận sự khổ đau này trong tinh thần hiệp thông với Chúa Giê-su chịu đau
khổ và chịu chết trên Thánh Giá.
– Đứng dưới cây Thánh Giá và kế bên Đức Mẹ, chúng ta lắng
nghe lại lời Chúa nói với thánh Gio-an: “Này là Mẹ con”. Chúng ta nhẩm đi nhắc
lời này trong lòng. Thật nhẹ nhàng và trong sâu thẳm của tâm hồn, chúng ta mở
vòng tay để đón nhận Mẹ là Mẹ chúng ta, và ý thức dọn một chỗ thật đẹp cho Mẹ
trong căn nhà cuộc sống của chúng ta.
Mẹ Maria và thánh Gio-an đã đứng dưới cây Thánh Giá.
Đứng gần bên Chúa, lúc Chúa chịu khổ đau. Thật đẹp biết bao hình ảnh đó. Đẹp
hơn nữa khi chúng ta chiêm ngắm và nhận ra Chúa đã hy sinh tự chọn lấy Thánh
Giá, để chịu trên đó và cứu độ chúng ta. Thật vậy, Chúa đã tựa vào cây gỗ Thánh
Giá để tuôn tràn ơn cứu độ, tuôn tràn tình yêu cho nhân loại. Hơn nữa, Ngài
luôn sống trong nguồn tình yêu này, nghĩa là trong tương quan gần gũi với Cha
trên trời. Ngài có thể tâm tình với Cha bất cứ lúc nào, trong lúc chìm sâu
trong thinh lặng cầu nguyện, khi đang tất bật lo toan sứ vụ được trao, và ngay
lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Lời tâm tình với Cha trên Thánh Giá là di
ngôn thứ tư của Chúa.
(còn tiếp)
Lm. Nguyễn Ngọc
Thế, SJ
[1] RATZINGER J.,
Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.243-244.
[2] SERTILLANGES
A.D. OP., What Jesus saw from the cross – Từ trên thập tự, Fr.
Thomas Tuý chuyển ngữ, phần 7 – Người thân yêu.
[3] SERTILLANGES
A.D. OP., What Jesus saw from the cross – Từ trên thập tự, phần 7 –
Người thân yêu.
[4] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, bản tiếng Việt do một nhóm linh
mục Đà-lạt chuyên ngữ, Chương II, phần số 5. Đứng bên khổ giá Đức Giê-su, có
Maria Mẹ Ngài. Nguồn: simonhoadalat.com.
[5] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 5. Đứng bên
khổ giá Đức Giê-su, có Maria Mẹ Ngài.
[6] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 5. Đứng bên
khổ giá Đức Giê-su, có Maria Mẹ Ngài.
[7] X. GRUEN
A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần 3: Das dritte Wort Jesu
am Kreuz – die Quelle der Liebe; và RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus
von Nazareth II, t.245.
[8] X. GRUEN
A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần 3: Das dritte Wort Jesu
am Kreuz – die Quelle der Liebe.
[9] RATZINGER J.,
Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.244.
[10] Sách Giáo
lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản tiếng Việt của Ủy Ban Giáo lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2011, số 964, t.303.
[11] Thánh Công
Đồng chung Vaticanô II, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà-lạt 1972, t.246.
[12] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 6. Hỡi bà,
này là con bà.
[13] Thánh Công
Đồng chung Vaticanô II, t.249.
[14] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 6. Hỡi bà,
này là con bà.
[15] Chú thích Ga
19,25 của HURAULT B., trong Lời Chúa cho mọi người, Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, bản dịch của
nhóm Phiên dịch các giờ kinh phụng vụ, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội 2009, t.1862.
[16] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 5. Đứng bên
khổ giá Đức Giê-su, có Maria Mẹ Ngài.
[17] RATZINGER J.,
Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.244.
[18] X. GRUEN
A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần 3: Das dritte Wort Jesu
am Kreuz – die Quelle der Liebe.
[19] X. RATZINGER
J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.244.
[20] SCHNACKENBURG
R., Das Johannesevangelium, III.Teil, Herder Verlag, Freiburg 1975,
t.325.
[21] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 6. Hỡi bà,
này là con bà.
[22] Thánh Công
Đồng chung Vaticanô II, t.249.
[23] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 6. Hỡi bà,
này là con bà.
[24] X. GRUEN
A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần 3: Das dritte Wort Jesu
am Kreuz – die Quelle der Liebe.
[25] CANTALAMESSA
R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số 5. Đứng bên
khổ giá Đức Giê-su, có Maria Mẹ Ngài.
[26] Trích bởi
CANTALAMESSA R., Maria, Tấm gương cho Giáo Hội, Chương II, phần số
5. Đứng bên khổ giá Đức Giê-su, có Maria Mẹ Ngài.