Chia sẻ của Lm. Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
LỜI MỞ ĐẦU
Cụ Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương có truyền cho tôi một câu nói
của người xưa: “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết ý là bất
nghĩa”.
Gần đây, một tín hữu được ơn theo
Chúa từ hơn 25 năm qua đã nêu lên một trường hợp, không chỉ hỏi riêng tôi mà
còn hỏi vài vị khác nữa. Tuy nhiên tôi thấy nếu chỉ trả lời từng phần, từng
mảnh, theo kiểu làm bài trắc nghiệm “đúng/sai” sẽ có nguy cơ càng lúc càng gây
ngộ nhận. Tôi quyết định dành thời giờ cho vấn đề. Đúng hay sai đều cần phải
cho biết tại sao đúng, tại sao sai. Tôi vừa viết vừa trao đổi và cuối cùng tôi
xóa bỏ những mảng rời ấy để viết lại thành một bài từ đầu tới cuối không chỉ để
giải đáp thắc mắc của một người mà còn để chia sẻ với nhiều anh chị em đồng đạo
đang có những vấn nạn tương tự, và còn hơn thế nữa, đang phải tự vấn về chính
mình và về cộng đồng Dân Chúa.
Tốt nhất, bạn nên đọc bài này cùng với quyển Kinh thánh để
thấy rõ chúng ta đang tìm ý Chúa chứ không theo ý riêng. Để tránh dài dòng,
nhiều chỗ tôi chỉ nhắc tới lời Kinh thánh qua số nguồn chứ không trích văn. Khi
trích văn, tôi ghi cả số câu để gián tiếp nhắc độc giả nhớ đó là đang trích
nguyên văn lời Kinh thánh (theo bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ), tức
là những lời chính Thiên Chúa muốn nói với chúng ta.
Một lần nữa tôi xin cám ơn người đã nêu câu hỏi và nhất là
đã kiên nhẫn với cuộc đối thoại, dù lắm lúc không dễ. Đồng thời, tôi rất mong
nhận được sự góp ý của mọi người để có thể hoàn thiện bài viết, đem lại lợi ích
cho nhiều người.
Quy
Nhơn, ngày mùng 5 Tết Mậu Tuất, 20-2-2018
Lm.
Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh
<tinmunggiesu@gmail.com>
Bài này thoạt đầu
chỉ viết riêng cho người đã chia sẻ một câu chuyện liên quan tới lòng hiếu thảo.
Thoạt đầu người này nêu mấy câu hỏi nẩy sinh từ buổi gọi hồn hội ý với người
xưa. Càng trao đổi, vấn đề càng đi xa và bản trả lời dần dần dệt thành một bài
dài chạm tới cái khó khăn mấu chốt cho cuộc sống đức tin ngày nay. Nhận ra rằng
đây có thể là những vấn đề nhiều anh chị em khác cũng đang thấy hoang mang, tôi
sắp xếp lại các ý tưởng và viết lại toàn bộ, mong giúp đỡ phần nào cho các con
cái Chúa, cách riêng là những anh chị em được ơn theo Chúa khi đã trưởng thành,
tránh được những ngộ nhận.
Ngộ nhận thứ nhất là về Thiên Chúa.
Xin bắt đầu với chuyện do một người bạn kể lại:
- Một người hàng xóm của tôi gặp thử thách nặng nề và dai
dẳng. Ông đã cầu nguyện với Chúa đủ cách cả ba năm rồi nhưng không kết quả. Ông
tuyên bố sẽ kiên trì thêm ba tháng nữa, nếu vẫn không kết quả thì nhất quyết sẽ
bỏ Chúa lên chùa. Đúng ba tháng một ngày sau, ông lên chùa cúng và lập tức cầu
được ước thấy. Cũng lập tức, ông về dẹp hết bàn thờ Chúa và dọn bàn thờ Phật
lên. Ông không tin Chúa nữa!
- Xin lỗi! Tôi xin phép sửa lại một chữ cho đúng. “Ông
không tin Chúa” chứ không phải: “Ông không tin Chúa nữa!” Bởi lẽ, ông ta chưa
hề tin Chúa đúng theo ý nghĩa của chữ “tin” trong Kinh thánh. Ông ấy chỉ mới
“tin” Chúa theo cách suy nghĩ của ông ta và theo mục đích của ông ấy. Giữa một siêu
thị thần linh do ông tưởng tượng ra, ông nghĩ vị Chúa ấy sẽ có lợi cho ông
nhất, cho nên ông rước về thờ, thay vì rước một thần linh nào khác. Ông nghĩ
rằng mình đã thờ Chúa, đã giữ luật Chúa thì Chúa có bổn phận phải đáp ứng đúng
điều ông yêu cầu. Chúa không thỏa mãn những điều kiện ông đặt ra thì xin mời
Chúa đi chỗ khác chơi. Ông không cần một thứ Chúa vô dụng…
- Cha nói đúng, ông ấy làm cứ như thể chính ông ấy mới là
Chúa, là chủ, còn các thần minh chỉ là những thuộc cấp để ông sai khiến, những
kẻ phải phục vụ ông, phải đáp ứng những nhu cầu của ông. Tuy nhiên, xin cha cho
biết tại sao Chúa lại không đáp ứng điều ông ấy cầu xin?
- Còn tại sao nữa? Tại vì Chúa muốn giúp ông ấy hiểu rằng
chính Chúa mới là Thiên Chúa. Nếu ông ấy đã thật sự tin Chúa là Đấng làm chủ
cuộc đời ông ấy thì chỉ cần thành tâm thưa với Chúa rồi kiên nhẫn đợi giờ của
Chúa. Chúa đã là Chủ thì Ngài có chương trình của Ngài trên những kẻ Ngài yêu
thương, những kẻ thuộc về Ngài…
- Thế thì cha nói sao về việc ông ấy vừa lên chùa cúng thì
lập tức cầu được ước thấy?
- Cuộc sống, hay nói đúng hơn, Chúa vẫn thường để cho mọi
sự trớ trêu như thế đấy! Nếu ông ấy cứ ở nhà nằm ngủ thì hôm ấy điều ông ấy
khao khát vẫn xảy ra y như vậy, không cần phải lên chùa. Tiếc là ông ấy tuyên
bố đầu hàng khi vẫn còn cả một phút cuối cùng để ghi bàn thắng! Chỉ cần ông ấy
kiên nhẫn thêm giây lát là giọt nước tràn ly, ông sẽ giật được giải thưởng của
cuộc đua.
- Cha đã dùng toàn chữ “nếu”. Với chữ “nếu” thì ai mà
không nhét được cả thành phố này vào lọ peniciline?
- Không đâu, mới đêm qua tôi bị những tràng ho dài và inh
ỏi của vị linh mục già phòng bên cạnh đánh thức dậy. Cụ ho và cứ ho mãi khiến
tôi cầm lòng không được. Tôi nghĩ đến lọ xi-rô ho đã dùng hết hai phần ba. Liệu
có nên đợi đến sáng sẽ mua cho cụ nguyên một lọ mới hay là vào đánh thức cụ,
mời cụ uống chỗ thuốc còn thừa của tôi? Cuối cùng, niềm kính trọng vượt thắng
sự thương hại. Hơn nữa, nếu tôi cứ gọi cụ dậy, liệu rồi cụ có cách gì để ngủ
lại được chăng?
Có điều bất ngờ là từ lúc ấy đến sáng, tôi không nghe cụ
ho tiếng nào nữa! Cụ ngủ ngon và tôi cũng yên giấc. Nếu cụ đã chiều tôi mà uống
thuốc, tôi sẽ chắc mẩm rằng nhờ chút thuốc thừa ấy mà cụ hết ho. Bạn thử nghĩ
xem, phải chăng chính là nhờ tôi tự thắng sự vọng động của mình mà ông cụ hết
ho? Có thể lắm chứ?
Tôi không ép bạn chấp nhận điều tôi nói. Tôi chỉ gợi ý để
mời bạn thử theo dõi kinh nghiệm ấy nơi cuộc sống thường ngày của bạn xem. Bạn
sẽ nhận ra xưa nay mỗi ngày vẫn không thiếu những đề thi tương tự nhưng bạn chưa
quan tâm. Giờ đây, để tâm theo dõi, bạn mới nghiệm ra rằng có một Đấng vẫn ra
đề thi cho bạn để giáo dục và đào tạo bạn. Ngài là người Chủ, là người Thầy và
cũng là người Cha đầy ưu ái đang tìm cách làm cho bạn trưởng thành. Nếu mình
thật lòng tin Ngài thì cần biết mau mắn giải những đề thi nho nhỏ ấy thật
nghiêm túc. Bạn sẽ lớn lên theo số những đề thi bạn giải đáp đúng. Bạn cũng
hiểu ra rằng mình giải đáp đúng hay không là tùy mình có thật sự hào hiệp, quảng
đại hay không…
Nếu Chúa đòi hỏi ta một điều gì đó, ta có thể hiểu ngay và
có thể dâng ngay nhưng khi Ngài đòi hỏi ta chờ đợi, ta khó mà nghĩ rằng sự chờ
đợi lâu dài cũng là một cách để tỏ lòng hào hiệp.
Trong cương vị người giáo dục, khi dạy lòng quảng đại cho
các cháu, dù chúng còn rất nhỏ, không phải hễ chúng đòi gì là ta cho ngay điều
ấy. Ta thường đợi đúng lúc mới cho và lắm khi cho nhiều hơn điều chúng xin.
Thường thì người cha thử thách và người mẹ sẽ an ủi để giúp đứa trẻ biết kiên
trì và tin cậy. Nơi Thiên Chúa cũng thế. Đang khi Chúa Cha còn thinh lặng thì
Chúa Thánh Thần ủi an, nâng đỡ: “26Thần
Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế
nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những
tiếng rên siết khôn tả. 27Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can,
biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo
đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
“14Quả
vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15Phần
anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải
sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta
được kêu lên: ‘Abba! Cha ơi!’ 16Chính Thần Khí chứng thực cho thần
trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14-16).
- Thưa cha, lúc nãy mở đầu, cha bảo câu hỏi người nọ nêu
ra có liên quan tới đạo hiếu. Bây giờ cha cho biết Thần Khí Thiên Chúa dạy
chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha. Như thế thì có nghĩa, Đạo Chúa không gì khác
hơn là chính đạo hiếu đối với Cha Cả trên trời? Phải chăng người ấy đã hỏi có
gì khác biệt hay đối kháng giữa đạo hiếu dưới đất với đạo hiếu trên trời?
- Vừa gần như thế vừa lý thú hơn nhiều. Chốc nữa bạn sẽ
rõ. Bây giờ, chúng ta trở lại với câu Kinh thánh vừa đọc. Thần Khí Thiên Chúa
tức là Chúa Thánh Thần dạy ta cùng một điều như Chúa Giêsu đã dạy, tức là dạy
ta gọi Thiên Chúa là Cha. Hơn nữa, chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống
thật sâu xa lời kinh Chúa Giêsu đã dạy:
“9Lạy
Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, 10nước
Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
11Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày. 12Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng
con. 13Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ. Amen” (x. Mt 6,9-13).
Kinh Lạy Cha tóm tắt mọi lời cầu xin của các con cái Chúa
và nêu rõ thứ tự những điều ta cần phải cầu xin. Bạn nắm được cái thứ tự ấy
chứ?
- Vâng ạ! Khi thật sự là con cái Thiên Chúa, ta cần biết
quan tâm tới Cha mình trước rồi mới tới bản thân. Trước hết, ta cầu xin cho:
* Danh Cha hiển sáng (1),
* Nước Cha hiển trị (2), và
* Ý Cha được thể hiện (3).
Sau đó ta mới nêu lên những lời tóm tắt mọi nhu cầu thể
chất và tâm linh của ta:
* Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày (4)
* và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ
chúng con (5).
* Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ (6)
* nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen (7).
- Bạn thấy đó, một thứ tự thật rõ. Trước khi thật sự có đức
tin, thường ta chỉ tập trung xin Chúa hai điều (4) và (7). Dần dần, càng nghiệm
ra tình thương và quyền năng cao cả của Thiên Chúa, ta càng thấy năm điều còn
lại vượt hẳn hai điều ấy rất xa.
Chúa Giêsu không giới hạn những điều ta có thể xin nhưng
Ngài đề ra cái ưu tiên số một: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, như
trong đoạn văn sau đó chưa tới một trang:
“25Vì
vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo
cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng
trọng hơn áo mặc sao? 26Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt,
không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại
chẳng quý giá hơn chúng sao? 27Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng,
mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? 28Còn về áo mặc
cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà
rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; 29thế mà, Thầy
bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp
bằng một bông hoa ấy. 30Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã
quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi
những kẻ kém tin! 31Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì,
uống gì, hay mặc gì đây? 32Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm.
Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. 33Trước
hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những
thứ kia, Ngài sẽ thêm cho. 34Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai:
ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,25-34).
Chính tình Cha của Thiên Chúa bảo đảm tất cả cho chúng ta,
vì tình thương ấy lớn hơn tình mẹ trần gian gấp bội. Câu này thì trích từ Cựu
ước, sách Isaia: “Có phụ
nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng
đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is
49,15). Khi đã thật sự là con cái Thiên Chúa, ta biết rằng Thiên Chúa
luôn yêu thương ta và Ngài có thừa quyền năng thực hiện cho ta mọi điều, ta
không cần phải lo lắng thái quá vô ích.
Mời bạn làm một so sánh khác, đối chiếu giữa kinh Mười
điều răn của người Công giáo và kinh Ngũ giới của người Phật tử:
Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn |
|
(1) Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi
sự. |
|
(2) Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. |
|
(3) Giữ ngày Chúa Nhật. |
|
(4) Thảo kính cha mẹ. |
|
(5) Chớ giết người. |
Giới sát sinh. |
(Điều răn thứ năm bao gồm cả cấm say rượu, tự hạ nhục phẩm giá
mình) |
Giới ẩm tửu. |
(6) Chớ làm sự dâm dục. |
Giới tà dâm. |
(7) Chớ lấy của người. |
Giới đạo tặc. |
(8) Chớ làm chứng dối. |
Giới vọng ngữ. |
(9) Chớ muốn vợ chồng người. |
Giới tà dâm. |
(10) Chớ tham của người. |
Giới đạo tặc. |
- Thưa cha, bốn dòng từ (1) đến (4), phía cột bên phải bị
trống, phải không ạ?
- Đúng, bản mười điều răn có thêm bốn điều mà ngũ giới không
có, đồng thời bốn điều ấy chiếm chỗ ưu tiên. Kinh Lạy Cha cho thấy nơi tâm
tưởng, ta cần biết nghĩ tới Thiên Chúa trước khi nghĩ tới bản thân. Kinh Mười
điều răn cũng nói tương tự về mặt hành động: Bổn phận đối với Thiên Chúa phải
ưu tiên hơn mọi bổn phận xã hội. Trong các bổn phận xã hội, bổn phận đối với
cha mẹ chiếm chỗ cao nhất, nhưng ngay cả tình cha nghĩa mẹ cũng phải nhường
bước cho sự kính thờ Thiên Chúa: “Ai yêu
cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
- Có thể tôi sắp
đoán ra câu hỏi của người nọ. Hẳn người ấy cảm thấy có sự xung đột giữa đạo hiếu
đối với Cha trên trời và đạo hiếu đối với cha mẹ trần gian?
- Câu hỏi còn lý
thú hơn thế. Bạn kiên nhẫn một chút, rồi tôi cũng nói rõ ngay thôi.
“Ai yêu
cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37). Cả hai mệnh đề trong câu nói ấy của
Chúa gợi cho ta nhớ câu chuyện thời danh của cụ Abraham, người không những được
nhận là Tổ phụ các sắc dân Israel, Ismael và Êđôm mà còn là Tổ phụ những người
tin vào Thiên Chúa, đồng thời cũng là hiện thân của mối giằng co giữa một bên
là tình cha nghĩa mẹ trần gian và một bên là lòng hiếu thảo với Thiên Chúa Tạo
Hóa là Cha chung của tất cả mọi người.
Tên gọi từ nhỏ của ông là Abram. Ông là một người chủ giàu
có với nhiều tôi trai tớ gái và bầy súc vật hàng đàn hàng lũ. Thế nhưng lòng
ông nặng trĩu vì không có lấy một mụn con nối dõi tông đường. Ông đã cầu xin Thiên
Chúa biết bao năm qua, tới lúc đã qua tuổi “cổ lai hy” vẫn chưa được Chúa nhậm
lời.
Bất thần, sau cái hôm mừng thọ 75 tuổi và vợ ông cũng đã
65, ông nghe tiếng Chúa gọi tên ông và bảo:
- 1Hãy
rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2Ta
sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi
ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành. 3Ta sẽ chúc
phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ
ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc (St 12,1-3).
Rời bỏ họ hàng, mái nhà và quê cha đất tổ để đi tới đất khách
quê người, lao vào vô định, khi bóng chiều cuộc đời đang đổ xuống càng lúc càng
nhanh, quả là điều hết sức mệt mỏi! Thế nhưng ông cảm nghiệm tận rất sâu trong
cõi lòng rằng ai yêu cha mến yêu mẹ hơn Thiên Chúa, thì không xứng với Ngài.
Thế là ông đã lên đường. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Hr 11,8). Thế nhưng cũng chính
vì đó, Thiên Chúa đã thêm cho tên ông một vần, thành Abraham, có nghĩa là người
cha của đám đông, tổ phụ của vô số các dân tộc (x. St 17,5).
Người hàng xóm của anh bạn trên kia đã chờ ba năm, còn ông
Abraham, suốt hơn hai mươi năm cứ nghe Chúa lặp đi lặp lại lời hứa con đàn cháu
đống mà lòng dạ vợ ông là bà Sara vẫn cứ son sẻ. Năm ông 99 tuổi, vợ ông cười
ngặt nghẽo khi nghe vị thiên sứ bảo rằng qua năm sau bà sẽ có con. Mà rồi đúng
thật, đúng vào tuổi 100 của ông và tuổi 90 của bà, hai vị đã sinh được một mụn
con trai và, vừa khóc vừa cười, họ đặt tên cho nó là Isaac, có nghĩa là Khả Tiếu, Buồn
Cười. Với ông Abraham, tin vào Thiên Chúa không phải là sắm cho mình một
tượng thần làm bùa hộ mệnh, nhỡ gặp chuyện gì rủi ro nguy hiểm thì bám vào cho
đỡ sợ! Tin vào Thiên Chúa không phải là thỏa hiệp với một thế lực thần linh để
khi mình có nhu cầu thì thế lực ấy sẽ đáp ứng! Tin vào Thiên Chúa có nghĩa là
đặt toàn bộ con người, cuộc sống và sinh mệnh của ta dưới quyền điều khiển của
Đấng mà ta biết là rất yêu thương ta.
Chưa hết. Câu nói trên đây của Chúa Giêsu còn một nửa nữa:
“Ai yêu con trai con gái hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy”.
Đứa bé lớn dần. Tới ngày nó đủ sức vác một bó củi lớn leo
lên núi, Thiên Chúa lại thử lòng Abraham.
1Ngài gọi ông: “Abraham!” Ông thưa: “Dạ, con
đây!” 2Ngài phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của
ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môria mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một
ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
Chao ôi! Thiên Chúa ra lệnh cho ông thiêu sống đứa con mà
chính Ngài ban tặng khi ông đã đúng một trăm tuổi và cũng chính Ngài đã bảo
rằng nó sẽ sinh ra con đàn cháu đống, như sao trời cát biển! Có điên không đây?
Thế nhưng…
3Sáng hôm sau, ông Abraham dậy sớm, thắng lừa,
đem theo hai đầy tớ và con ông là Isaac, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu,
rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. 4Sang ngày thứ ba, ông Abraham ngước mắt
lên, thấy nơi đó ở đàng xa. 5Ông Abraham bảo đầy tớ: “Các anh ở lại
đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ
phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
6Ông Abraham lấy củi dùng để đốt lễ toàn
thiêu đặt lên vai Isaac, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng
đi. 7Isaac thưa với cha là ông Abraham: “Cha!” 8Ông
Abraham đáp: “Cha đây con!” Cậu nói: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ
toàn thiêu đâu?” Ông Abraham đáp: “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ
liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
9Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng
bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống
củi. 10Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
11Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông:
“Abraham! Abraham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!” 12Ngài nói: “Đừng giơ
tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên
Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” 13Ông
Abraham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong
bụi cây. Ông Abraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho
con mình. 14Ông Abraham đặt tên cho nơi này là “Đức Chúa sẽ liệu.” Bởi
đó, bây giờ có câu: “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu”.
15Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông
Abraham một lần nữa 16và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy
chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi,
con một của ngươi, 17nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm
cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi
biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. 18Mọi dân tộc
trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì
ngươi đã vâng lời Ta”.
(St
22,1-18)
Đó không chỉ là câu chuyện cảm động về đức tin của ông
Abraham mà còn là một sự kiện mang tính tiên tri giàu ý nghĩa. Ông Abraham mang
dáng dấp của chính Đức Chúa Cha mà Tân ước sẽ mô tả là: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con Ngài thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga
3,16). Cậu Isaac tự vác lấy củi sẽ dùng để tế hiến chính mình là dấu
chỉ báo trước việc Chúa Giêsu vác thập giá đi chịu khổ hình; việc cậu đã được
đặt lên bàn tế hiến rồi lại được Thiên Chúa can thiệp cho sống, được xem là
tượng trưng cho việc Chúa Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại.
Kinh nghiệm của cụ Abraham cho thấy đức tin gắn liền với
thử thách đồng thời cũng là một minh họa giúp ta hiểu tình cha bao la và sâu
thẳm của Thiên Chúa khi Ngài để cho chúng ta đi qua những thử thách ấy. Không
riêng những anh chị em mới tin Chúa, cả những tín hữu gạo cội và những tâm hồn
thánh hiến vẫn gặp nhiều thử thách phiền muộn, được Chúa dùng để nhắc nhở và
đào tạo cho ta ngày càng thêm quảng đại.
Thử thách là để thanh tẩy tâm hồn và đào luyện
lòng quảng đại.
Trong quyển sách hướng dẫn người ta
rèn luyện về tâm linh, tựa đề là Linh
Thao, Thánh Inhaxiô có ghi lại những quy tắc ứng xử trước thử thách. Trước
hết, ta cần tỉnh táo để khỏi mất sự bén nhạy đối với ý Chúa. Ta cần đối diện
thẳng với thử thách (x. Dt 12,5-13) và tìm xem qua đó Chúa đang muốn nói gì với
ta. Cụ thể, ở mỗi trường hợp, ta đều cần tự theo dõi để hiểu qua thử thách ấy Chúa
đang nhắm tác dụng nào.
Tác dụng thứ nhất của thử thách là thanh tẩy. Cụ Abraham
được Thiên Chúa nhắm tuyển chọn làm Tổ phụ những người tin vào Ngài. Cụ là một
người mẫu mực, đức tin của cụ chẳng thể bị hề hấn gì do môi trường ngoại giáo
xung quanh. Thế nhưng con cháu cụ sau này thì khác, họ có thể bị lây nhiễm. Vì
thế trước hết, Thiên Chúa phải cách ly cụ khỏi môi trường ấy. Theo Thánh
Inhaxiô, nguyên do đầu tiên đẩy ta vào thử thách là do lỗi của bản thân ta. Chúa
để cho ta gặp sự phiền muộn, thử thách hay đêm tối nhằm cảnh cáo những lầm lỗi
hay sự thiếu quảng đại của ta và mời gọi ta hoán cải. Điển hình cho trường hợp
này là những thử thách dân Do Thái gặp trong thời các thẩm phán. Tiếp nối Thánh
Inhaxiô, Thánh Gioan Thánh Giá đã chứng minh rằng những tâm hồn chiều theo các
mê thích lệch lạc sẽ tự chuốc lấy đủ thứ tác hại gây âu lo phiền muộn. Nơi bảy
chương đầu trong tác phẩm Đêm Dày
quyển I, ngài phân tích những lệch lạc tâm linh dựa theo bảy nết xấu dẫn đầu, nhằm
giúp ta biết những nguy cơ mình có thể gặp phải để tích cực loại trừ. Muốn
thắng vượt, ta cần biết giữ sự bình tâm và hướng theo chiều đối nghịch với các
mê thích lệch lạc ấy. Thiên Chúa dùng thử thách để từng bước giúp ta được hoàn
toàn tự do, không lệ thuộc những gì tai nghe mắt thấy hay sức ép của bất cứ
giác quan nào khác, được thực sự tự do về mặt tâm linh, thoát khỏi cả mọi ràng
buộc dính bén bên trong.
- Thưa cha, việc này đâu có ăn nhập gì với việc cụ Abraham
phải rời quê cha đất tổ? Cha đã bảo môi trường ngoại giáo xung quanh chẳng ảnh
hưởng gì được tới đức tin của cụ cơ mà!
- Đúng, thế nhưng với con cháu cụ sau
này thì khác. Một ngày kia chúng có thể gọi hồn cụ dậy và hỏi: Cụ ơi, thế này
là thế nào? Xin cụ nói rõ lại xem có nên tin Chúa hay không?
- Cha muốn bảo đây là câu hỏi người nọ đã nêu ra?
- Bạn đoán đúng, thế nhưng còn lý thú hơn nữa. “Ông cụ” càng
khẳng định là rất nên thì thằng bé càng thấy hoang mang!
- Sao lại kỳ vậy?
- Thì đây, bạn đọc đoạn này ở gần đầu sách Tin mừng theo
Thánh Marcô: 11Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì sấp
mình dưới chân Ngài và kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa!” 12Nhưng
Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Ngài là ai (Mc 3,11-12).
- Ồ, đúng là trò đểu!
Bọn chúng càng la to: “Ông là Con Thiên Chúa”, thiên hạ càng lúng túng: Nếu lão
này không cùng phe với thần dữ thì tại sao chúng nó lại quảng cáo ầm ĩ lên thế
chứ?
- Rồi bạn sẽ thấy, bọn quỷ còn quỷ quái hơn thế nhiều.
- Vâng. Xin cha tiếp tục đi ạ.
- Tác dụng thứ hai của các thử thách là đào tạo tấm lòng
hào hiệp quảng đại: Thiên Chúa muốn dạy ta biết mau mắn đáp lại mọi đòi hỏi của
Ngài, không tiếc xót bất cứ điều gì. Sau khi kéo Abraham thoát khỏi môi trường
cũ, Thiên Chúa còn bắt ông chờ đợi mấy chục năm để dạy ông thực sự yêu Chúa vì
chính Chúa chứ không vì bất cứ một món quà nào, kể cả món quà ông tha thiết
nhất đời là một đứa con nối dõi. Đây cũng là lý do khiến một người công chính
như ông Gióp bỗng dưng bị thử thách trăm bề: Thiên Chúa muốn thanh minh cho
Gióp, muốn chứng tỏ cho mọi người thấy giữa trăm ngàn thử thách có vẻ rất vô
lý, người tín hữu này vẫn một lòng tin cậy Thiên Chúa, không chút chuyển lay.
Có thể nói Chúa cất ơn an ủi và cho ta trải qua kinh nghiệm bị trần trụi như
thế để dạy ta yêu mến Ngài cách vô vụ lợi.
Tác dụng thứ ba của thử thách là đào tạo tấm lòng khiêm
nhường. Thiên Chúa muốn cho ta đi qua thử thách để thoát khỏi ảo tưởng, khỏi tự
phụ, và được ơn khiêm nhường, luôn bám víu vào Chúa và chỉ cậy dựa vào một mình
Thiên Chúa mà thôi. Kinh thánh ghi rằng trong thời gian đằng đẵng đợi chờ, cụ
Abraham cũng đã có lúc yếu đuối, nghĩ đến những “phương án 2”, chẳng hạn đã dự
tính đặt người quản gia làm kẻ thừa kế, hoặc chấp nhận đi lại với nàng hầu để
kiếm một mụn con. Thế nhưng Thiên Chúa bảo những chuyện ấy vô ích, Ngài sẽ ban
cho ông một đứa con do chính người vợ là bà Sara sinh ra cho ông. Về sau trong một vị Thánh trong Tân ước
khi kể lại những thử thách riêng cũng lý giải rằng ấy là do Thiên Chúa muốn cho
ông giữ được sự khiêm nhường (x. 2Cr 12,7).
Thiên Chúa muốn cho ta được khiêm nhường tận cõi lòng, nhờ một cái nhìn mới,
nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa để luôn bước đi trong sự thật cuối cùng:
Thiên Chúa là Tất cả, còn bản thân ta và mọi sự khác đều chỉ là không gì cả.
Tác dụng thứ tư của thử thách là
đưa tới một tình yêu mãnh liệt, khao khát được chia sẻ mọi thua thiệt mà Chúa Giêsu Kitô đã hứng
chịu vì chúng ta. Cụ Abraham không những được mang dáng dấp của Chúa Cha mà còn
được chia sẻ tình cảnh bị bỏ rơi đến tận cùng của Chúa Con là Đức Giêsu Kitô
trong cuộc khổ nạn. Lệnh truyền của Thiên Chúa khiến ông chìm vào đêm đen tối
tăm mù mịt, không còn hiểu gì nữa cả, chỉ còn biết nhắm mắt vâng theo. Thiên
Chúa tạo điều kiện để ông đáp lại tình yêu Ngài cách chính xác nhất. Ngài sẽ
cứu chuộc ông và con cháu ông bằng cái giá rất đắt là máu và sinh mạng người
Con duy nhất của Ngài, thì Ngài cũng đòi ông phải mua lấy ơn cứu chuộc ấy với
một cái giá tương xứng là cái chết bằng đức tin, hoàn toàn phủ nhận lý trí tự
nhiên để buông mình vào tay Thiên Chúa, mặc cho Thiên Chúa định đoạt.
Trong Tân ước ta sẽ gặp một trường hợp khác minh họa sắc sảo cho ý nghĩa này, đó là trường hợp Đức
Mẹ Maria (Lc 2,35). Mẹ hoàn toàn vô tội, luôn yêu Chúa cách vô vụ lợi và đầy
khiêm nhường, thế nhưng Mẹ lại bị thử thách nặng nề hơn ai hết. Ấy chỉ là vì Thiên
Chúa muốn cho Mẹ được chia sẻ nỗi đau thương với Đức Kitô, con yêu dấu của Mẹ.
Kinh nghiệm của Thánh Inhaxiô trong
sách Linh Thao (số 98, 167) sẽ cung
cấp cho ta một cách cầu nguyện được gọi là bậc
khiêm nhường thứ ba, để nài xin Thiên Chúa nung đốt lòng khao khát yêu mến Chúa
Kitô nồng nàn tới mức muốn nên giống hẳn Ngài nơi tất cả những gì Ngài đã hứng chịu.
Những thử thách như thế được Kinh thánh nhìn như sự sửa
dạy (tức là giáo dục) của Thiên Chúa:
“5Con
ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. 6Vì
Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho
roi cho vọt. 7Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối
xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha
không sửa dạy? 8Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người,
thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. 9Vả
lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại
càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. 10Cha trần thế sửa dạy
chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa
dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện
của Người. 11Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ
thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được
hoa trái là bình an và công chính” (Thư gửi tín hữu Hípri 12,5-11).
Khi ghi lại lịch
sử, Kinh thánh cho thấy không riêng cụ Abraham, tất cả mọi người được Chúa gọi
đều phải được uốn nắn: được lôi ra khỏi môi
trường cũ, được rèn luyện qua thử thách, đau thương và sỉ nhục. Nơi cuộc đời
của Isaac, Giacóp và Giuse chẳng hạn. Lắm trường hợp, thử thách dường như vượt
sức chịu đựng của họ, Thiên Chúa đã an ủi bằng cách báo mộng cho họ. Riêng đối
với ông Môsê, Thiên Chúa không báo mộng nhưng Ngài trực tiếp nói chuyện với ông.
Giữa những dân tộc thờ đủ thứ thần,
Chúa dạy dân Israel chỉ tin thờ một mình Ngài mà thôi. Ngài cấm ngặt Dân Ngài
không được gọi hồn như các dân ngoại. Vị vua đầu tiên của Dân Chúa là vua Saul
cũng cấm ngặt Dân Chúa không được làm điều ấy. Có điều gì cần thỉnh ý Thiên
Chúa, nhà vua tìm đến ngôn sứ Samuel. Thế nhưng rồi sau khi vị ngôn sứ qua đời,
gặp lúc quẫn bách, vua Saul đã lỗi phạm điều mà chính ông đã cấm người khác.
Ông đi ngược lại luật Chúa mà ông đã từng bảo vệ. Ông cầu cứu với những thế lực
bí ẩn bên ngoài Thiên Chúa. Ông tìm đến một bà đồng bóng, xin bà gọi hồn ngôn
sứ Samuel. Và “ngôn sứ Samuel” xuất hiện, với dáng dấp, cung giọng đúng như ông
mong chờ và cũng nói những lời đanh thép y hệt như vị ngôn sứ ông từng gặp
trong cuộc sống.
Trong chuyện ấy, “ngôn sứ Samuel” hiện về; bà đồng bóng
nhìn thấy “ông ta” và đối thoại với “ông ta”. Bên Việt Nam mình, các “hồn” được
gọi về “nhập” vào một người nào đó đang có mặt, khiến người này biến đổi diện
mạo, cách ứng xử và ngôn ngữ giống y hệt “người xưa”..
- Thưa cha, nhưng họ cho biết những thông tin rất đáng tin
cậy, mình kiểm chứng được mà!
- Tôi đã bảo bạn rằng đã là quỷ thì nó rất quỷ quái!
“Gọi hồn” là một trò đùa của thần dữ. Các linh hồn đã
khuất do Thiên Chúa quản lý! Mấy ông thầy cúng có quyền phép gì để triệu tập
các linh hồn đã khuất về lại trần gian? Chính các thần dữ giả dạng người đã
khuất để đánh lừa chúng ta. “Lạ gì đâu!
Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2Cr 11,14).
Những loài thần thiêng, không thân xác, muốn biết chuyện
quá khứ của loài hữu hình là chuyện quá dễ. Ngay cả máy tính do con người chế
tạo đã có khả năng tìm giúp những điều ta bỏ quên, tìm những hình ảnh tương tự,
truyền tải hình ảnh nửa vòng trái đất, từ trái đất lên những hành tinh xa xôi,
cắt xén lắp ghép hình ảnh, tạo nên rô bốt… Việc ma quỷ giả dạng người xưa và
biết chuyện riêng, chuyện kín của người ta là chuyện dễ ợt… Tương kế tựu kế,
thần dữ cung cấp toàn những tin tức rất sát sự thật để cho người ta tin nó và
dấn sâu vào trò lừa đảo của nó. Rồi giữa chín điều rất thật, nó sẽ chèn vào một
điều thứ mười hoàn toàn dối trá chẳng ai ngờ. Đọc chuyện Tam Quốc Chí, ta đã thấy ông Khổng Minh gài người vào phía đối
phương để “hiến kế” và khiến đối phương bị lừa. Kẻ nội thù đề nghị toàn những
điều hết sức hay, mãi đến lúc đại bại người ta mới biết rằng mình bị gài bẫy! Thần
dữ cũng hành động y hệt như thế và còn siêu đẳng hơn thế nhiều!
- Thưa cha? Làm sao kiểm chứng điều cha nói?
- Bạn không tin rằng thần dữ đang lèo lái những vụ lên
đồng sao? Bạn hãy thử dẫn vào đó một em bé ngoan hiền, đã lãnh bí tích Thánh
tẩy của Giáo hội Công giáo, ngực đeo ảnh thánh giá nhỏ, rồi xem thử vụ lên đồng
có thực hiện nổi hay không? Tại sao vụ lên đồng thất bại? Bởi vì chính Chúa
Giêsu đang ở nơi em bé ngoan hiền ấy khiến thần dữ không dám bén mảng tới.
Tôi nêu chi tiết em bé ngoan hiền nhằm cho thấy việc trung
thành với ơn bí tích Rửa tội rất quan trọng. Nếu một tín hữu đã tự châm chước
để nhượng bộ cho con người cũ cách này hay cách khác, đức tin của họ không vững
nữa. Khi chính họ đã chiều theo sự xui khiến của thần dữ thì nó không còn sợ gì
họ nữa.
Chúng ta cần luôn đứng vững trước những thử thách lớn và
nhỏ, cũng như trước mọi cám dỗ lớn và nhỏ. Những gì xảy ra cho Chúa Giêsu trong
hoang địa giúp ta hiểu rằng thần dữ rất kiên nhẫn. Đối với những người ngay
lành đầy thiện chí, nó không mong gì có thể xúi giục họ làm điều xấu ngay nhưng
nó nhất quyết không bỏ cuộc. Nó chấp nhận đi những đường vòng thật dài.
1Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào
hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. 2Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm
ngày, và sau đó, Ngài thấy đói. 3Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Ngài và
nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!”
4Nhưng Ngài đáp: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm
bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.”
5Sau đó, quỷ đem Ngài đến thành thánh, và đặt
Ngài trên nóc đền thờ, 6rồi nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên
Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho
thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào
đá.”
7Đức Giêsu đáp: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng:
Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”
8Quỷ lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao,
và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước
ấy, 9và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp
mình bái lạy tôi.” 10Đức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi! Vì đã
có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải
thờ phượng một mình Ngài mà thôi.”
11Thế rồi quỷ bỏ Ngài mà đi, và có các thiên
sứ tiến đến hầu hạ Ngài.
Một tên quỷ mới ra
nghề có lẽ đã đưa tới gà quay, rượu bia, thuốc lá và đủ thứ mồi tham, sân, si linh tinh… nhưng tên quỷ
già có nhiệm vụ cám dỗ Đấng Cứu Thế thì khác. Với một kinh nghiệm dài bằng lịch
sử loài người, nó chỉ dùng một lá bài hai mặt sấp ngửa rất đơn giản: Bên khó,
bên dễ, ông chọn bên nào?
Đức Giêsu bắt đầu công cuộc cứu chuộc
nhân loại nhằm lúc quân đội Rôma đang đè bẹp dân tộc Ngài, đâu đâu cũng âm ỉ
sẵn sàng hưởng ứng khởi nghĩa chống thực dân. Tên quỷ dựa ngay vào đó để lôi
kéo Đức Giêsu ra khỏi công cuộc giải phóng về mặt tâm linh mà nó vừa căm thù
vừa khiếp sợ.
Nó khôn khéo hiến kế giúp Ngài “làm tròn sứ mạng” theo
cách của nó. Thông điệp của cám dỗ đầu tiên là: “Nếu Ngài muốn cứu nhân độ thế,
thì cứ cho họ ăn no mặc ấm, Ngài cứ làm cho kinh tế phồn thịnh thì ai mà chẳng
theo Ngài!” Thu phục dân chúng bằng cách ấy có vẻ dễ thật, vừa mau vừa được
nhiều người! Nhưng có phải như vậy là đưa người ta về với Chúa hay chỉ làm
người ta ươn lười, chạy theo thỏa mãn vật chất? Thay vì giúp người ta tin yêu
Thiên Chúa, cách hành động này dạy người ta “lấy cái bụng làm Thiên Chúa” (Ph
3,19). Lúc đó chỉ có vật chất có quyền sai bảo họ, chứ Thiên Chúa không có
quyền gì trên họ, chỉ cần một lời không vừa ý họ cũng đủ để họ làm reo thách đố
(xem Ga 6,30 và 42). Tương tự như thế, cám dỗ thứ hai nhằm gợi ý cho Đức Giêsu
chinh phục thiên hạ bằng phép lạ. Đối với Ngài, can thiệp vào các định luật
thiên nhiên là chuyện dễ như trở bàn tay, nhưng thuyết phục thiên hạ bằng cách
ấy chỉ là trói buộc họ bằng sự hiếu kỳ. Trên đường rao giảng, khi cứu chữa cho người
câm được nói, người điếc được nghe, người mù được thấy, người què và bại liệt
được bước đi vững vàng, Ngài muốn ngụ ý rằng, cũng tương tự như thế, Ngài sẽ
làm cho mọi người được sáng mắt, thính tai, lợi khẩu và tự chủ về mặt tâm linh.
Trong lần chữa một người bại liệt tại Capharnaum, Ngài chất vấn những kẻ đang
dò xét Ngài:
- Trong
hai điều: một là bảo: “Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: “Đứng dậy mà đi”,
điều nào dễ hơn? (Mt 9,5)
Cám dỗ thứ ba là cứu thế bằng con đường chính trị và quân
sự: Nắm được quyền lực chính trị sẽ khống chế mọi người cách thật dễ dàng, tuy
nhiên như thế có gì là giải thoát chăng hay chỉ thêm áp bức trói buộc? Và đáng
sợ nhất là trước hết chính bản thân người rêu rao giải thoát phải nô lệ cho
thần dữ: “Tôi sẽ cho ông tất cả
những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9).
Hẳn bạn thấy rõ tính chất đểu cáng lừa gạt nơi những điều
tốt do Satan đề nghị. Những thứ ấy sẽ biến công cuộc Thiên Chúa thành công cuộc
của trần gian, hay chính xác hơn, công cuộc của thần dữ!
Ngay từ đầu lịch sử, thần dữ đã cám dỗ loài người bằng con
đường dễ dãi: chỉ cần đừng bận tâm tới lệnh truyền của Thiên Chúa, cứ muốn gì
làm nấy, là đương nhiên ngang hàng với Thiên Chúa, chứ có gì phải rắc rối lắm
chuyện? Hậu quả trước mắt của sự không vâng lời Thiên Chúa là loài người rơi
tòm xuống vực thẳm của tham, sân, si,
vực thẳm của khổ đau, tội lỗi và chết chóc.
Để khắc phục những hậu quả ấy của tội lỗi, Con Thiên Chúa
làm người quyết hành động ngược hẳn lại: khước từ mọi dễ dãi và tự hạ mình vâng
phục, vâng phục đến chết trên thập giá (x. Pl 2,6-8). Chính vì thế, khi khởi
đầu sứ vụ, Ngài đã tìm vào sa mạc sống cô tịch bốn mươi đêm ngày để lắng nghe
và đón nhận ý Chúa Cha.
Trong Cựu ước, ông Môsê rồi ông
Giôsuê đã mời gọi Dân Chúa chọn đường lành, tránh đường dữ, chọn đường sống,
đừng chọn đường chết. Các vị sáng lập tôn giáo đều mời gọi như thế cả. Chỉ
riêng Đức Giêsu cũng nói thế nhưng bằng một cách diễn tả khác: hãy chọn đường
khó, đừng chọn đường dễ. “13Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường
thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. 14Còn
cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy (Mt
7,13-14). Phía dễ dãi của cửa rộng và đường thênh
thang là phía dẫn tới diệt vong, còn phía phải phấn đấu của cửa hẹp và đường
chật sẽ dẫn tới sự sống đời đời.
Sau đó mấy câu, Chúa sẽ cho biết rõ
con đường ấy chính là vâng theo ý của Chúa Cha: 21Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy
Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22Trong ngày ấy,
nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng
từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa
mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ:
Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!
(Mt 7,21-23).
Nói tiên tri, trừ quỷ và làm phép lạ, toàn là những điều
tốt. Thế nhưng cần phải lưu ý: Nếu đúng là ý Chúa bảo làm như thế, người thực
hiện sẽ được thưởng, còn nếu chỉ làm theo ý riêng, thì sẽ bị luận tội. Chiều
theo ý riêng bao giờ cũng dễ. Ý riêng là cửa rộng và đường thênh thang cho ta
mặc tình buông thả. Còn vâng theo ý Chúa bao giờ cũng khó, đòi phải từ bỏ bản
thân, đúng là bên của cửa hẹp và đường chật.
Sự đối kháng đang nói đây vừa đưa tới những hy vọng rất
bất ngờ vừa cảnh báo để ta khỏi rơi vào những nguy cơ khủng khiếp. Người ta có
thể đạt tới chỗ vâng phục Thiên Chúa cách sâu thẳm nơi một điều hết sức nhỏ,
chẳng hạn một tư tưởng vụt qua trong trí, mà ngược lại, người ta cũng có thể đi
tới chỗ cực kỳ phản loạn nơi một điều hết sức nhỏ như thế. Bất cứ ai, tại bất
cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, nơi bất cứ điều nhỏ nhặt nào cũng đều có thể
bay vút lên cực cao hoặc rơi xuống cực thấp. Đối diện với âm mưu lừa gạt của
thần dữ, đây là điều vô cùng đáng sợ, nhưng ngược lại, nhìn lên lòng thương xót
của Thiên Chúa là Cha, đây lại là điều để ta có quyền hy vọng đến vô biên. Lắm
kẻ khôn ba năm dại một giờ mà cũng lắm người được ơn hoán cải vào phút chót như
người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa:
39Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng
nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả
chúng tôi với!” 40Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một
hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41Chúng ta
chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm
điều gì trái!” 42Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi
ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43Và Người nói với anh ta:
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc
23,39-43).
Chỉ trong giây lát, kẻ bao nhiêu năm làm điều phi pháp
bỗng chốc được Chúa hứa ban phúc thiên đàng. Thần dữ sẽ dựa vào đó để rỉ tai
nhiều người: “Vậy thì lo gì, cứ ăn chơi thả cửa, tới phút chót quay lại vẫn
kịp, có sao đâu!” Cũng không ít người quên mất rằng phút chót của mình có thể
là đêm nay mà cũng có thể chỉ trong vòng 5 phút nữa!
Ngược với luận điệu của Satan, Chúa Thánh Thần đã soi sáng
cho chị thánh Têrêxa một cách nên thánh giản dị là vui nhận mọi điều bất ngờ
trái ý lớn nhỏ như quà tặng của Chúa với một lòng phó thác lớn lao và yêu mến
nồng nàn. Cách hành sử của Thiên Chúa đã mở ra cơ hội đồng đều cho tất cả mọi
người, không phân biệt. Trước mắt người đời, có kẻ sang người hèn, còn trước
mắt Thiên Chúa, mỗi người đều được ban đủ ơn cần thiết để phấn đấu trong hoàn
cảnh của mình. Thiên Chúa gửi thử thách ngần nào, Ngài cũng ban đủ ơn ngần ấy.
Ngài không thử thách ai quá sức, cũng không đòi hỏi ai quá sức. Dù là trí thức,
nông dân, công nhân hay doanh gia, dù trẻ hay già, bé hay lớn, có gia đình hay
độc thân, người đời hoặc tu sĩ, mỗi người đều có cuộc chiến đấu riêng. Từ việc
học của người sinh viên, việc giáo dục gia đình của bậc cha mẹ hay việc xây
dựng hạnh phúc của các đôi vợ chồng, việc lớn cũng như việc nhỏ, việc nào cũng
có bên rộng, bên hẹp, mỗi trường hợp đều đặt người ta trước cái chọn lựa giữa
dễ dãi và nghiêm túc, giữa buông thả và cố gắng, giữa phía kéo xuống thấp hay
phía đưa lên cao…
Giáo huấn của Chúa Giêsu được Thánh sử Matthêu trình bày
tổng hợp nơi Bài Giảng Trên Núi, một bài diễn văn kéo dài ba chương 5, 6 và 7 trong
tác phẩm của ngài. Chúa mở đầu thông điệp của Ngài bằng một câu trái ngược 180o
so với cái nhìn của người đời: “Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).
Giữa đám đông thính giả đang lắng nghe, Chúa Giêsu muốn
đặc biệt ngỏ lời với những người có tâm hồn nghèo khó. Đây là những người không
lấy tiền của vật chất làm mục đích cuộc sống, không tích lũy chỉ để có thật
nhiều tiền bạc, cũng không cây dựa vào tiền bạc hoặc thế lực trần gian nào
nhưng chỉ nương tựa vào Thiên Chúa.
Trên kia Chúa nêu rõ cái đối nghịch giữa hai nẻo đường:
rộng và hẹp.
Ở đây Chúa cho thấy sự đối kháng giữa hai đích điểm (đúng
hơn phải nói là hai cứu cánh, hay hai cùng đích, tức là hai mục đích cuối cùng)
trái ngược nhau: Thiên Chúa và Tiền của vật chất. Một bên là tin tưởng vào
Thiên Chúa, phó thác bản thân và cuộc đời cho Thiên Chúa định đoạt, nhờ đó được
bình an hạnh phúc trong Ngài. Một bên là tin vào mãnh lực của đồng tiền, lúc
nào cũng lo nghĩ về tiền bạc của cải, đến độ bị lệ thuộc vào nó, để cho nó làm
chủ và sai khiến, rồi vì thế mà mất bình an. Một bên là cái nhìn theo hướng của
Chúa, một bên là cái nhìn phàm tục, hai nẻo đường cách biệt. Ai dại? Ai khôn?
19“Anh em đừng tích trữ cho
mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy
đi. 20Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối
mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. 21Vì kho
tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó… 24“Không ai có thể làm tôi
hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà
khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của
được. (Mt 6,19-21.24).
Đối trọng của Thiên Chúa là Tiền của chứ không phải điều
gì khác. Cùng một cái nhìn như thế, trong sách Linh thao, Thánh Inhaxiô cũng nhấn mạnh rằng lòng ham mê của cải là
đầu mối của mọi hư hỏng. Với bài suy niệm “Hai màu cờ” (Sđd, số 136-148), thánh
nhân đặt nổi sự trái ngược giữa hai đường
lối: “Satan thúc giục mọi người ham muốn tiền của, rồi từ tham lam dẫn đến ham
danh vọng và dẫn đến kiêu ngạo, cuối cùng từ kiêu ngạo dẫn đến các tội lỗi
khác… Còn Chúa Giêsu thì lôi cuốn con người theo tinh thần khó nghèo siêu nhiên
và tự nhiên, rồi đưa họ đến chỗ ao ước nên giống Ngài, khao khát được chịu sỉ
nhục và khinh dể như Ngài, nhờ đó họ được khiêm nhường thật trong lòng và tiến
đến mọi nhân đức”.
Trong bài Các mối phúc, mối phúc về tinh thần nghèo đi đầu, dẫn theo các mối
phúc khác: hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, thương người, có
tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì sống công chính, bị sỉ
vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa vì Chúa (Mt 5,1-12). Nơi những đoạn tiếp
sau của Bài Giảng Trên Núi, ta còn gặp những nhân đức khác: tha thứ cho kẻ làm
hại ta, yêu thương kẻ thù ghét ta, trong sạch trong tư tưởng, công bằng, tôn
trọng danh dự người khác, hiểu tốt cho người khác, không xét đoán…
Dẫn đầu sự lệch lạc là lòng ham mê của cải. Tiến hay lùi,
thành hay bại trên đường tâm linh tùy nơi thái độ của mỗi người đối với tiền
bạc, của cải. Muốn thoát khỏi những áp lực do tiền bạc và của cải, chúng ta cần
luôn sống phó thác trong tình thương an bài của Cha trên trời (x. Mt 6,25-34).
Người đời không sao hiểu được, có thể coi đó là một chọn
lựa điên rồ. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô cho thấy
ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, người đời đã coi đó là một sự điên rồ nhưng các
tín hữu lại coi là một vinh dự:
“18Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một
sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những
người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. 19Vì có lời
chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự
thông thái của người thông thái. 21Thế gian đã không dùng sự khôn
ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của
Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người
tin. 22Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn
người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, 23thì chúng tôi lại rao giảng một
Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận,
và dân ngoại cho là điên rồ. 24Nhưng đối với những ai được Thiên
Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và
sự khôn ngoan của Thiên Chúa. 25Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn
hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh
mẽ của loài người” (1Cr 1,18-25).
Chúng ta cần tỉnh táo, như trong chuyện mười cô trinh nữ:
1“Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện
mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2Trong mười cô đó, thì có năm
cô dại và năm cô khôn. 3Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang
dầu theo. 4Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu
theo. 5Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. 6Nửa
đêm, có tiếng la lên: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” 7Bấy giờ tất cả
các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. 8Các cô dại nói với
các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt
mất rồi!” 9Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị
đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” 10Đang lúc các cô đi mua,
thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới.
Rồi người ta đóng cửa lại. 11Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến
gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” 12Nhưng Người
đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” 13Vậy
anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. (Mt 25,1-10)
Qua câu chuyện mười nén bạc, Chúa còn dạy ta đừng tự hài
lòng với cái tối thiểu, nhưng cần biết cố gắng ngay từ bây giờ để về sau sẽ
nhận được vinh quang lớn nhất Chúa đã muốn dành cho ta:
11Đức Giêsu lại kể thêm một dụ ngôn: 12“Có một người
quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. 13Ông
gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói
với họ: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến…”
15”Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền
gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao
nhiêu. 16Người thứ nhất đến trình: 'Thưa ngài, nén bạc của ngài đã
sinh lợi được mười nén.' 17Ông bảo người ấy: 'Khá lắm, hỡi đầy tớ
tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị
mười thành.' 18Người thứ hai đến trình: 'Thưa ngài, nén bạc của ngài
đã làm lợi được năm nén.' 19Ông cũng bảo người ấy: 'Anh cũng vậy,
anh hãy cai trị năm thành.'
20Rồi người thứ ba đến trình: 'Thưa ngài, nén bạc của ngài đây,
tôi đã bọc khăn giữ kỹ. 21Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt,
đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.' 22Ông nói: 'Hỡi đầy tớ tồi
tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi
cái không gửi, gặt cái không gieo. 23Thế sao anh không gửi bạc của
tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời
chứ!' 24Rồi ông bảo những người đứng đó: 'Lấy lại nén bạc nó giữ mà
đưa cho người đã có mười nén.' 25 Họ thưa ông: 'Thưa ngài, anh ấy có
mười nén rồi!' 26-'Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ
được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi. '
(Lc
19,12-3.15-26)
Nén bạc trong câu chuyện trên được
hiểu là những ơn và những tài năng Thiên Chúa ban. Người thứ ba không chịu phát
huy ơn Chúa thường là vì mải chạy theo những xu hướng xấu trong cuộc sống: Tiền của vật chất - hưởng thụ thỏa mãn xác thịt - và quyền
lực danh vọng. Các xu hướng xấu tập trung vào ba điều: ham lợi, ham danh, ham
thú vui. Cả ba điều này vừa dẫn tới: tham,
sân, si vừa đưa đẩy lẫn nhau: Sự ham
mê tiền của và chiếm hữu dẫn tới tham lam, ích kỷ, chiếm đoạt rồi từ đó dẫn
tới ham lời khen, danh vọng và quyền lực
(danh vọng dẫn tới gian manh, giả trá, kiêu ngạo), rồi sau nữa là mọi thứ ham mê vui thú (xác thịt dẫn tới ganh
ghét, bạo hành). “Thật
thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng
ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé”
(1Tm 6,10)
16Chúa còn kể dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ
kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ bụng rằng: 'Mình phải
làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!' 18Rồi ông ta tự bảo:
'Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích
trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng:
hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ
ăn uống vui chơi cho đã!' 20Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: 'Đồ ngốc! Nội
đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về
tay ai?' 21Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu
trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Lc 12,16-21)
Lắm người dù không như ông phú hộ, chỉ biết có tiền, nhưng
vẫn quá bận tâm đến tiền bạc cho nên không đạt được điều mình ước mơ, như
chuyện người thanh niên giàu có:
17Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người
chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm
gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” 18Đức Giêsu đáp: “Sao anh
nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.
19Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm
cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20Anh
ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21Đức
Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Ngài bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu
có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một
kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22Nghe lời đó, anh ta sa
sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Khi đến với Chúa, lòng anh chứa chất bao ước vọng sáng
tươi, chân trời mở ra thật bao la rực rỡ. Thế nhưng rồi bỗng chốc, trời đất âm
u, chân trời mù mịt, mọi hy vọng tiêu tan, anh buồn bã bỏ đi không lời giã
biệt, chỉ vì một lý do giản dị: anh không đủ can đảm vất bỏ của cải vật chất.
23Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói
với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”
24Nghe Ngài nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Ngài lại tiếp: “Các con
ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! 25Con lạc đà chui
qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”
Người ngoại giáo Trung Hoa và Việt Nam từ xưa đã truyền
lại cho nhau một thông điệp khá lạ về tiền của, vừa thực tế vừa đầy minh triết.
Tiền của đáng trân trọng, ta cần đón nhận với lòng biết ơn, nhưng đồng thời
tiền của lại chỉ là đầy tớ trong nhà, ta cần biết coi thường, xem nhẹ. Người ta
diễn tả triết lý sống ấy bằng hình tượng thần tài ở xó nhà: Người ta ưu ái đơm
cúng chuối, nhang nhưng bao giờ cũng chỉ đặt ở xó nhà, sát mặt đất, dưới chân
những người đi qua đi lại. Thế mà dần dần quỷ dữ đã khiến người ta quên mất
thông điệp ấy và hành sử ngược lại, đi đến chỗ kính cẩn khấn vái cầu ơn cầu
phúc trước biểu tượng ấy.
Kiên nhẫn đi những đường vòng thật xa, từ chỗ xúi giục
người ta chạy đua cúng tế mâm cao cỗ đầy, dần dần thần dữ dẫn người ta tới chỗ
tự hào, tự phụ, khoe khoang và giả đạo đức. Nó lôi kéo người ta rời xa lương
tâm ngay thẳng và tấm lòng trong sạch ban đầu để dần dần hùa theo những điều
trái ngược với lương tâm. Đáng sợ nhất là nó dẫn người ta đến chỗ chỉ còn tin
cậy vào tiền của vật chất. Để rồi, tiền của tha hồ làm cho lòng người ly tán.
Biết bao người đã xuống cấp chỉ vì tiền bạc, biết bao gia đình tan vỡ, bao dòng
họ bị phân hóa cũng vì tiền bạc, rồi nhìn xa hơn, tiền bạc vật chất đang giật
dây những tranh chấp quyền lực cho đến cả những cuộc chiến giữa các quốc gia…
Cả nơi các tổ chức tôn giáo cũng xảy ra những điều đáng tiếc và ngay cả trong
lòng Giáo hội Công giáo, cũng không hiếm những trường hợp tiền bạc đã biến công
cuộc của Thiên Chúa thành công cuộc nhân loại!
Từng chút nhỏ một, thần dữ kiên trì tập tành cho người ta
mê tiền bạc, dành ưu tiên cho tiền bạc và tự hào vì tiền bạc. Rồi buồn thay!
nhiều người không vướng chân vì cái tượng thần tài ở lối đi nhưng lại đặt bản
thu nhỏ của nó trên ngai tòa lòng mình!
Mỗi người đều có quyền và bổn phận lo cho sự sống của bản
thân và gia đình, thêm vào đó còn phải làm tròn những trách nhiệm khác do Chúa
trao phó. Việc kiếm tiền để chu toàn những nghĩa vụ ấy là điều chính đáng và
đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa ban cho mỗi người đủ ơn để chu toàn tất cả. Thế nhưng
thần dữ tìm cách làm cho người ta không tin tưởng nơi Thiên Chúa. Nó gieo vào
lòng người nỗi âu lo, sợ thiếu hụt vật chất, từ đó dẫn tới chỗ hối hả lo sao
tìm kiếm và tích lũy cho được thật nhiều tiền của trong thời gian ngắn nhất. Sự
ham mê của cải dẫn tới chỗ luồn lách, xoay xở, dần dần thiếu ngay thẳng, mất
công bằng và mất cả phẩm giá.
Cả hàng ngũ các tông đồ của Chúa vẫn
có thể mắc phải cám dỗ ấy. Thoạt đầu họ chỉ tìm tiền bạc như phương tiện để làm
điều tốt, những công cuộc từ thiện, những cơ sở thờ tự. Thần dữ hối thúc họ làm
vượt quá mức cần thiết và làm thật nhanh, tự tạo nên áp lực buộc mình phải phải
kiếm tiền bằng mọi giá, thế là từng bước, tiền bạc dần dần chiếm chỗ ưu tiên,
trở thành mục tiêu số một của cuộc sống lúc nào không hay. Thần dữ chiến thắng
bằng một cuộc chinh phục mềm và thấm chậm. Cuối cùng, khi đã có tiền của, người
ta chỉ còn tin vào tiền của, không còn thật sự tin vào Thiên Chúa nữa.
Nhìn kỹ, ta sẽ thấy nhân loại đang bị phân hóa theo hai
cùng đích trái ngược: Thiên Chúa Tình Yêu hay vật chất tiền của; con người đứng
trước hai chọn lựa: nhân nghĩa hay tiền tài.
Con hư tại mẹ tại
cha,
Cháu hư thì cũng
tại bà, tại ông.
Khi thấy âu lo cho con cháu về mặt đạo lý, các phụ huynh
thường nhớ lại lời ấy của người xưa và băn khoăn tự hỏi mình chịu trách nhiệm
tới mức nào. Đối diện với thực trạng của tín hữu, các Giám mục và Linh mục cũng
băn khoăn tự hỏi như thế.
Hơn cả điều đã nói ở những trang đầu, bài chia sẻ này dần
dần vượt xa khỏi việc giải đáp thắc mắc của một tín hữu đang trăn trở và những
vấn nạn tương tự, để trở thành lời chất vấn cho chính các linh mục mà trước hết
là bản thân tôi, trong sứ vụ Chúa đã trao phó.
Cuối năm 2000, tôi được gặp Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận tại Rôma. Vị Tổng Giám mục bảo tôi hãy về nói với anh em linh mục
tích cực chuẩn bị để Dân Chúa có thể đứng vững được trước trào lưu vật chất
tiêu thụ. Theo ngài, đây là cuộc thử thách đáng sợ gấp bội so với những kiểu
bách hại cổ điển. Gần 20 năm đã trôi qua, tôi chưa biết làm cách nào để chuyển
được lời nhắn ấy đến anh em tôi trên mọi miền đất nước thì giờ đây lời cảnh báo
của ngài đã thành hiện thực.
Khó thay, nào ai có thể cho được điều mình không có? Để
dạy được cho con em biết sống vị tha chính cha mẹ cần phải biết quên lợi riêng
nhắm ích chung, biết tôn trọng quyền lợi người khác. Muốn truyền thụ đức tin
cho con cái, chính cha mẹ cần có đức tin vững mạnh. Giữa một xã hội chạy theo
lợi nhuận, muốn cho giáo dân thấm nhuần tinh thần Tin mừng, người mục tử phải
hết sức xác tín vào mối phúc nghèo khó. Liệu chừng niềm xác tín này vẫn còn
nguyên, không lay chuyển, hay đã bị cuộc sống xói mòn một góc tư, một nửa, hoặc
cả đến hai phần ba? Các chủng sinh có được đào tạo để say sưa với từng lời của
bài giảng trên núi, của mối phúc cho người nghèo? Nếu chính người rao giảng
không còn xác tín vào những Lời đanh thép của Chúa, thì việc rủ rê người khác
theo Đạo chỉ là chuyện thuyết phục họ dùng một pho tượng này thay cho một pho
tượng khác. Mỗi người cần tự hỏi mình còn thực sự tin Chúa, tức là thực sự để
cho Chúa dẫn dắt mọi chi tiết đời mình được mấy phần trăm? Mà nếu đã bị suy
suyển, làm sao để khôi phục?
Sau những ngày Tết vừa qua, mạng xã hội lại sốt lên với
cảnh hỗn độn dẵm đạp lên nhau để cướp lộc tại các trung tâm lễ hội. Đem đối
chiếu hình ảnh dòng người trong các nhà thờ nơi thánh lễ mùng một Tết, nghiêm
trang tuần tự lên nhận câu Lời Chúa làm “lộc thánh” đầu năm, ta vừa thấy cái
khác biệt sâu xa giữa sự bình an của lòng tin vào tình thương của Thiên Chúa và
sự bất an lo sợ của mê tín (Xem FB Nguyễn Thị Bích Ngà - Mê tín: Trạng thái tâm lý bất an,
tuyệt vọng?), vừa thấy an ủi vì chất men Tin mừng nơi cộng đồng Dân Chúa khá
đáng kể và thật đẹp.
Dù vậy, thế đối kháng giữa Tiền của và Thiên Chúa mà Chúa
Giêsu đã nêu ra ở Mt 6,24 vẫn là điều cộng đồng Công giáo Việt Nam hiện nay cần
tự kiểm điểm trong run sợ. Giữa Thiên Chúa và Tiền của, nhiều người đang lấp
lửng bắt cá hai tay để sớm tự biến mình thành những kẻ hâm hẩm nửa vời đáng bị
Chúa mửa ra (x. Kh 3,16). Như Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh nói trong
lời chúc Tết xuân Mậu Tuất 2018, “lối sống duy vật và hưởng thụ hiện nay đang
tước đoạt, đe doạ hoặc xói mòn nhiều giá trị truyền thống của gia đình Việt
Nam”. Càng ngày, số phụ huynh trẻ chiều theo não trạng duy vật thực hành càng
chiếm đa số. Họ dễ dàng cho con cái bỏ học giáo lý và bỏ cả lễ Chúa nhật để
dành thời giờ ưu tiên cho việc học thêm. Các sinh hoạt đoàn thể Công giáo và
việc phục vụ cộng đoàn ngày càng vắng bóng các bạn trẻ. Học là để có khả năng
kiếm tiền. Tâm trí người ta hướng hết vào số tiền sẽ có được trong hiện tại
hoặc trong tương lai. Người ta dành cho Tiền của vật chất điều lẽ ra phải được
và chỉ được phép dành cho Thiên Chúa: “hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự”. Các
linh mục chỉ còn quản lý một danh sách những người mà Chúa đã than trách: “8Dân này
tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15,8).
Do việc dạy giáo lý sơ sài, thiếu nhấn mạnh các thực hành
đức tin, đức cậy và đức mến, cho nên số lượng người Công giáo chiều theo mê
tín, chạy theo phong thủy, xem ngày giờ, bói toán ngày càng gia tăng, một thực
tế mà dường như lắm mục tử không dám đối diện. Có lẽ đây là một đề tài rất đáng
cho sinh viên các học viện thần học tập trung nghiên cứu.
Mặc dù số người tham dự các lễ lớn vẫn còn đông đảo, phải
chăng lời cảnh báo của Chúa vẫn cứ văng vẳng bên tai ta: “Nhưng
khi Con Người ngự đến, liệu Ngài còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc
18,8). Phải chăng hiện tình Dân Chúa có phần giống như dân Giuđa trong
giai đoạn trước khi nước mất nhà tan, mà ngôn sứ Giêrêmia lớn tiếng nhắc nhở: “4Đừng ỷ
vào lời giả dối sau đây: “Đền Thờ của Đức Chúa! Đền Thờ của Đức Chúa! Đã có Đền
Thờ của Đức Chúa!”(Gr 7,4).”
Chẳng phải riêng tại Việt Nam ta mà trên khắp thế giới. Để
cải thiện tình trạng này, Đức Thánh Cha Phanxicô đang hô hào, động viên chúng
ta tiếp bước con đường nghèo khó của Đức Kitô. Mỗi người Công giáo cần nghe
được lời than thở của ngôn sứ Êlia đang dội lại nơi tâm tư của vị Giáo hoàng
hôm nay: “Lòng nhiệt thành đối với
Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước
với Chúa, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Chúa. Chỉ còn sót
lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con” (1V 19,14). Mỗi chúng ta cần
phải quyết tâm đứng vào hàng ngũ bảy nghìn người không chịu uốn gối trước thần
Baal (x. 1V 19,18). Nếu thấy còn có điều gì ngại ngùng, ta hãy lắng nghe lời
Chúa phán ở nơi khác: “Đối với
loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì
đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,27).
Trong thực tế, hiện nay có một số tín hiệu khá hứa hẹn,
nếu được quan tâm chăm sóc có thể sẽ kéo theo sự lan tỏa tinh thần nghèo khó
trên mọi nẻo đường đất nước:
- Rất nhiều dòng tu rất đa dạng đua nhau tìm ơn gọi và lập
cơ sở tại Việt Nam.
- Các nhóm “cư sĩ” ngày càng đông: dòng ba Đa Minh, dòng
ba Cát Minh, Phan Sinh tại thế, Mến Thánh Giá tại thế,… là những người quyết
sống triệt để ba lời khuyên Tin mừng ngay giữa bậc sống giáo dân.
- Ba vị Giáo hoàng của 40 năm qua là ba khuôn mặt “tu hội
đời” vĩ đại, tiêu biểu cho những linh mục giáo phận sống triệt để linh hạnh của
một dòng tu: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không chỉ là tác giả luận văn Tiến
sĩ thần học về Thánh Gioan Thánh Giá mà còn thực sự là một nhà truyền giáo đầy
tinh thần chiêm niệm Cát Minh, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là một ẩn sĩ Biển
Đức ngay giữa lòng đời, Đức Thánh Cha Phanxicô hiện nay vừa là một tu sĩ Dòng
Tên vừa thực sự là một khuôn mẫu của người Phan Sinh tại thế, cận vệ của bà
chúa Nghèo …
- Trên cấp độ toàn cầu, thêm vào danh sách Thánh gia của
Thánh Giuse và Đức Mẹ, đã có hai đôi vợ chồng hiển thánh nữa là ông bà Luigi
Beltrame Quattrocchi (1880-1951) và Maria Corsini (1884-1965) với ông
bà Louis (1823-1894) và Zélie Martin (1831-1877), song thân Chị thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu. Tại Việt Nam, Thánh Anrê Kim Thông (với hai người con sống đồi thánh
hiến: một linh mục và một nữ tu) có thể là gợi hứng về một linh hạnh cho các
“ông bà cố”, Thánh Án Khảm và các vị hiển thánh khác trong gia tộc Phạm Trọng
là gợi hứng về một con đường nên thánh cho các dòng họ và gia tộc…
Cần có những thành viên thánh hiến tại thế thuộc các tu
hội đời cũng như các “dòng ba” đào sâu nghiên cứu, sống và viết về con đường
mình đang đi để kinh nghiệm sống này có thể chuyển dần từ số lượng sang chiều
sâu… mở đường cho nhiều tầng lớp những người độc thân, những người lập gia đình
và cả các linh mục triều đem tinh thần Tin mừng đảm nhận các giá trị trần thế
của các hoàn cảnh khác nhau, các ngành nghề và những môi trường phục vụ khác
nhau, để biến tất cả thành những nẻo đường nên thánh và nên những vị thánh lớn.
Cuối cùng, Thiên
Chúa vẫn chiến thắng, nhưng bản thân ta và gia đình ta có để mình bị lôi cuốn
theo vật chất, bị uốn nắn theo đó để rồi bị trào lưu ấy giết chết không thương
xót chăng? Nỗi lo về tiền của có khiến năng lực bị cạn kiệt, không còn tấm
lòng, sức lực và thời giờ để làm những việc phải làm? Hay ngược lại, ta đang
can đảm chọn Thiên Chúa Tình Yêu làm cùng đích, can đảm đứng vững trong quyết
chọn sống tinh thần nghèo để được Thiên Chúa giáo dục đào tạo qua gian nan thử
thách và rồi cuối cùng sẽ tồn tại mãi với Ngài trong hạnh phúc vô biên?
Có những gia đình đã nhiều đời tin Chúa nhưng, do thiếu sự
dứt khoát, đã dần dần để mình bị cuốn theo cơn lốc vật chất, rơi từ cảnh êm đềm
hòa hợp xuống nguy cơ ghét ghen ly tán. May thay, đức tin vào Thiên Chúa, dù đã
bị xói mòn mỏi mệt, vẫn còn âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn, vẫn còn một số ít thành
viên quyết không nản lòng bỏ cuộc, nhỏ nhẹ an ủi động viên nhau, dần dần bình
an đã trở lại.
Kinh nghiệm của họ nhắc nhở cả bạn và tôi, dù khó khăn tới
đâu, cần quyết luôn quả cảm từ trong điều nhỏ, từ những ý nghĩ và lời nói khoan
dung đến chỗ dành sự quan tâm và chút thời giờ cho những người mình thương mến.
Đừng để nặng bên tiền, nhẹ bên hiếu.
9Đức
Giêsu còn nói: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ
truyền thống của các ông. 10Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Ngươi hãy
thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11Còn
các ông, các ông lại bảo: “Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có
để giúp cha mẹ đều là “co-ban” nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” rồi, 12và
các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. 13Thế là
các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên
Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7,9-13).
Trong bản Mười điều răn được ấn định hơn mười hai thế kỷ
trước Chúa giáng sinh, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ được đặt lên hàng đầu
trong số các quan hệ giữa người với người (x. Xh 20,12; Đnl 5,16; Ep 6,1-2). Lương
tâm nhân loại suốt bao thời đại đâu đâu cũng coi trọng tình hiếu thảo, không
chỉ với Cha mẹ mà cả với Ông bà, Tổ tiên. Trong cảnh sống nông nghiệp, ai cũng
dễ hài lòng với cái ít mình đang có, người ta dễ cảm thấy an vui và hạnh phúc
khi ông bà và cha mẹ đã cao niên cùng sống trong một mái nhà. Thế nhưng khi xã
hội chuyển sang cảnh sống công nghiệp, bon chen vội vã, người ta trở nên âu lo,
ngày càng khép lại với những nhu cầu bị khuếch đại của cá nhân và của gia đình
nhỏ, việc chăm sóc cha mẹ già dần dần bị xem là gánh nặng, phiền toái. Tại phương
Tây, rất nhiều bậc cha mẹ bị bỏ rơi và quên lãng trong những nhà dưỡng lão. Tại
Việt Nam, nói chung tuổi già vẫn còn được kính trọng, nhưng con số những bậc
cha mẹ già phải ngậm đắng nuốt cay cũng đang ngày một gia tăng thấy rõ. Đây là
lúc mỗi người trong chúng ta cần nhìn lại vấn đề.
Trong sách giáo khoa lớp Giáo lý Căn bản tại Giáo phận Qui Nhơn, về điều răn hiếu thảo ta
đọc thấy những câu hỏi đáp:
- Điều răn thứ tư dạy ta
những gì?
- Điều
răn thứ tư dạy ta phải thảo kính cha mẹ, sống đúng bổn phận mình trong gia
đình, trong Hội Thánh và ngoài xã hội.
- Vì sao ta phải thảo
kính cha mẹ?
- Ta
phải thảo kính cha mẹ, vì cha mẹ có công sinh thành, dưỡng dục ta, và thay
quyền Chúa để săn sóc phần hồn phần xác cho ta.
- Để tỏ lòng thảo kính
cha mẹ, ta phải làm những gì?
- Ta
phải làm những việc này:
+ Một
là phải tôn kính, biết ơn/ và vâng lời cha mẹ trong những điều chính đáng;
+ Hai
là khi cha mẹ còn sống, phải lo cho các ngài về phần xác cũng như phần hồn;
+ Ba là
khi cha mẹ qua đời, phải lo việc an táng, cầu nguyện và xin lễ cho các ngài.
Thật lòng yêu mến cha mẹ, ta muốn cho cha mẹ được điều tốt
nhất, “khi cha mẹ còn sống, phải
lo cho các ngài về phần xác cũng như phần
hồn”. Về phần xác, khi cha mẹ gặp khó khăn, thiếu
thốn…, ta có bổn phận phải giúp đỡ. Đặc biệt khi cha mẹ về già, đau yếu không
làm được việc gì, ta phải tận tình chăm sóc cơm nước, thuốc thang,... Về phần
hồn, ta cần giúp cha mẹ hoàn tất cuộc đời cách tốt lành theo ý Thiên Chúa Tạo
Hóa để được về sum họp với Ngài là Nguồn cội đời đời.
Cụ thể, ta nên mời linh mục cho cha mẹ gặp lúc còn tỉnh
táo để các ngài giãi bày những gì còn uẩn khúc trong lòng, lãnh bí tích Giải tội,
được trợ lực nhờ bí tích Xức dầu và rước Thánh thể Chúa hầu ra đi trong bình
an.
Ở đây tôi cũng xin chia sẻ một điều thiết thực khá bất ngờ
với nhiều bạn ngoài Kitô giáo. Các bạn có thể thấy lúng túng khi vào cuối đời,
cha mẹ tỏ ra tha thiết muốn tin nhận
Chúa và gia nhập Hội thánh. Các bạn thấy khó xử: một bên là nguyện vọng cuối cùng
của cha mẹ, một bên là hoàn cảnh cụ thể của con cháu còn ở lại sau khi các cụ
ra đi. Để thỏa mãn cả hai, các bạn có thể gặp linh mục xin giúp cho cha mẹ được
lãnh bí tích Rửa tội trong âm thầm. Đây là hành vi báo hiếu hết sức thiết thực,
qua đó, các bạn có thể đền đáp vượt cả công ơn trời bể của cha mẹ, bởi vì các
bạn đang tạo điều kiện để cha mẹ được sinh ra trong cuộc sống mới của người làm
con cái Thiên Chúa để được sống với Chúa trong hạnh phúc đời đời. Đó mới là
hạnh phúc đích thật, hạnh phúc lớn nhất và tồn tại muôn đời. Thử hỏi còn có
cách báo hiếu nào hơn là lo cho cha mẹ được hưởng ơn cứu rỗi đời đời? Cha mẹ
các bạn sẽ đi trước để mở đường cho các bạn tiến theo. Nếu chỉ vì sự nghiệp hay
lợi lộc trần gian mà ngăn cản cha mẹ về với Chúa thì sẽ là sự bất hiếu lớn nhất
trên đời, bởi vì như Kinh thánh có nói: “Được lợi cả thế gian mà mất phần hạnh
phúc đời đời thì nào được ích gì? (x. Mt
16,17). Do đó, nếu chính bạn đã thấy tầm quan trọng của vấn đề, bạn cần mạnh
dạn trao đổi với cha mẹ để các vị tự quyết chọn lấy định mệnh đời đời của mình
lúc các vị còn minh mẫn sáng suốt. Đó chính là lòng hiếu thảo đích thật nhất và
ý nghĩa nhất.
Sống hiếu thảo thiết thực nhất cũng
còn là sống tốt như cha mẹ mong chờ, làm vui lòng cha mẹ, thực tình giúp đỡ các
ngài khi các ngài còn sống. Đừng vô tình họa lại câu ca dao chua chát:
Sống thì cơm chẳng
cho ăn,
Chết thì xôi thịt,
làm văn tế ruồi!
Khi cha mẹ qua đời, lòng hiếu thảo đòi ta phải lo an táng
tử tế, năng cầu nguyện cho các ngài, cách riêng là bằng việc xin linh mục dâng
lễ. Anh chị em cần biết tương nhượng, bỏ qua tất cả để yêu thương đùm bọc lẫn
nhau. Ta cũng có thể cúng lễ gia tiên theo truyền thống dân tộc. Đồng thời,
vững tin vào lòng Chúa thương xót, ta cũng có thể xin cha mẹ cầu nguyện cho
trước mặt Chúa.
Không tránh khỏi chuyện có những
người tỏ ra hào phóng trong việc làng, việc họ và việc thờ cúng Tổ tiên vì ham
danh hoặc vụ lợi, chỉ nhằm cầu ơn cầu phúc, tức là với một ý hướng không ngay
lành trong sáng. Những điều chúng tôi nói đây không nhắm tới những người ấy nhưng
nhằm chia sẻ kinh nghiệm với những người làm điều tốt hoàn toàn vì ý hướng ngay
lành nhưng vô tình để cho mình bị thần dữ lừa gạt. Họ tôn kính Tổ tiên chỉ vì
một lòng hiếu thảo chân chính, không chút vụ lợi, đơn giản là nhớ cha mẹ bao
năm vất vả gây dựng cho mình, nay chỉ mong cúng tiến dâng lên một chút gì để
bày tỏ tấc lòng. Đối với những người tốt lành này, thần dữ không mong đánh gục
họ bằng những điều xấu nhưng nó không bỏ cuộc. Nó kiên nhẫn đi vòng thật xa
bằng cách dẫn dụ người ta lạc vào những điều tốt giả hiệu (ta có thể gọi là những
“cám dỗ làm điều tốt”). Nó tạo ra dư luận về những “ma đói”, “ma khát” cần phải
được đơm cúng. Nó cũng tạo ra hình ảnh về một cảnh “siêu thoát”, “tiêu diêu
miền cực lạc” chẳng khác gì mấy với khuôn khổ xã hội trần gian. Nó khiến người
ta quên mất mục đích thật của đời người.
Có rất nhiều người không biết mục đích thật của đời người,
không nắm chắc sẽ có gì ở đời sau, chỉ luôn theo lương tâm ngay thẳng và tấm
lòng trong sạch mà chọn con đường khiêm nhường, đạo đức và hy sinh vì họ thấy
đó là điều tốt đẹp. Sự chọn lựa hồn nhiên ấy đủ khiến cuộc sống của họ ở đời
này được đơm bông kết trái và đời sau sẽ được ân thưởng mà không ngờ (x. Mt
25,31-40). Nhiều người khác sống theo nguyên lý nhân quả: “ở hiền sẽ gặp lành”.
Còn các Kitô hữu thì sống theo nguyên lý mục đích, tức là
nhằm đạt tới điều Thiên Chúa đã hứa là cho họ được mãi mãi hạnh phúc trong
Thiên Chúa: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người
này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên
một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga
17,20-21). Theo giáo lý mạc khải, mục đích thật của đời người không phải là
một cái gì nhưng chính là Đấng Cội nguồn và cũng là Đích điểm của tất cả.
Dù ý thức mục đích đời người hay chăng, một khi đến bến
đến bờ, cả ba nhóm người ấy đều được đưa vào “hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho họ ngay từ thuở tạo thiên lập địa”
(Mt 25,34). Vương quốc ấy không phải là một quốc gia trần thế nhưng chính
là cõi lòng của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa yêu thương con người, tạo dựng nên
con người để họ được sống với Ngài trong yêu thương. Bao lâu còn ở trần gian,
người ta được gặp gỡ Thiên Chúa trong đức tin, đức trông cậy và đức yêu mến.
Khi hoàn tất cuộc đời trần gian và hoàn toàn được thanh tẩy khỏi lòng ham mê
trần tục, người ta được gặp gỡ Thiên Chúa mặt giáp mặt (1Cr 13,12) và được hiệp
nhất với Ngài trong hạnh phúc đời đời.
“Thiên đàng” và “đời sau” không phải là được “cái gì”
nhưng là được hiệp nhất với Đấng mình yêu mến. Chính sự hiệp nhất yêu thương
với Thiên Chúa trong cõi đời đời định hướng cho cuộc sống ở đời này: Yêu Chúa
hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự.
Thần dữ ghen tức với hạnh phúc ấy của con người, cho nên
nó tìm cách đảo lộn lòng người, xúi giục con người dành hết tấm huyết cho Tiền
của vật chất thay vì dành cho Thiên Chúa. Nó khiến nhiều bậc cha mẹ thương con
cách lệch lạc, chỉ biết lo chuẩn bị cho con cái được bảo đảm về cuộc sống vật
chất mà quên mất sự sống siêu nhiên, chỉ nhắm tới cái tương lai ngắn ngủi trên
đời mà quên mất cuộc sống đời đời. Ta cần nhớ lại gương ông Abraham: Ông yêu
thương Isaac và thực hiện cho con điều Thiên Chúa muốn chứ không phải điều ông
muốn.
Và như đã nói trên, thần dữ kiên trì
không biết mệt. Thoạt đầu nó tạo cho người ta nỗi băn khoăn lo lắng không biết
bố mẹ, gia tiên mọi người ra sao... nó thôi thúc người ta phải biết cho được
những bí ẩn về thân nhân đã khuất. Nó vẽ ra những cách “giao lưu” với cõi âm
thật nhanh gọn, chỉ cần mấy cây nhang là
đủ gọi “hồn người chết” về để hỏi xem mình có thể làm gì cho “các vị”. Một cách
“giải quyết” vấn đề rất cụ thể và có thể kiểm tra bằng tai nghe mắt thấy! Người
ta chấp nhận làm điều ấy dù không rõ nó đúng hay sai, không rõ mình đang tin
vào ai, quên rằng như thế là chấp nhận mê tín, tự đặt mình dưới quyền điều
khiển của thần dữ.
Nếu người làm như thế là một tín hữu
Công giáo, họ đã liều lĩnh đi ngược với luật Chúa. Theo giáo lý Công giáo, tấc
lòng tưởng nhớ gia tiên và quan tâm tới hạnh phúc đời đời của các vị là một đòi
hỏi của đạo hiếu. Thế nhưng ta cần biết thực hiện sự quan tâm ấy theo cách Chúa
chờ đợi chứ không phải theo cách người đời nghĩ ra. Ta cần biết giao phó mọi
người đã khuất cho Thiên Chúa, tín thác vào lòng thương xót của Ngài. Có thể
các vị đã về đến bến bờ là sự hợp nhất toàn vẹn với Thiên Chúa (thiên đàng)
hoặc đang cần được thanh luyện (đang ở “luyện ngục”, đúng hơn, phải dịch là
“luyện trạm”, như thể trạm dừng chân “kiểm tra sức khỏe” của những di dân sắp
được nhập cư). Với các vị đang ở giai đoạn thanh luyện, điều chúng ta cần làm
là nhân danh Chúa Giêsu Kitô mà cầu
nguyện cho họ. Những linh hồn đang cần thanh luyện khao khát nhận được sự
trợ giúp tinh thần ấy của chúng ta, chứ không phải đói hay khát thứ gì khác.
Lời nguyện tốt nhất là lòng yêu mến Chúa, chứng tỏ bằng những hy sinh và cố
gắng để sống tốt như Chúa muốn; những hành vi từ thiện, việc “xin lễ” cũng chỉ
có ý nghĩa và chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng là diễn tả của lòng yêu mến Chúa.
Một Kitô hữu mà lại chạy theo mê tín
thì chỉ là do yếu đức tin hoặc đức tin còn lệch lạc. Thiên Chúa đã tỏ mình qua
lịch sử và trong Kinh thánh là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra không có
Thiên Chúa nào khác. Nhiều khi, do học giáo lý sơ sài, người tín hữu mới chưa
gột sạch cách suy nghĩ đa thần phổ biến trong dân gian về “cõi trên”, với một
hệ thống thần linh gồm từ Ngọc Hoàng Thượng Đế cho tới Thiên lôi, Diêm vương,
Hà bá, rồi đủ thứ Mẫu, Cậu, Bà cô, Ông mãnh, Ông Ba mươi, Ông cọp, Cá ông vv…
Thiên Chúa được Giáo hội Công giáo
tuyên xưng trong kinh Tin kính hoàn toàn không có chút gì như thế nhưng là “Cha
toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Mọi loài mọi
vật ta nghe thấy được hoặc không nghe thấy
được đều do Thiên Chúa tạo dựng nên và ở dưới quyền Ngài. Những hữu thể mà ta
gọi là ma quỷ hay thần dữ cũng chỉ là những thiên thần do Thiên Chúa dựng nên
nhưng đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa, cho nên bị trừng phạt phải xa cách
Thiên Chúa đời đời. Những thần dữ ấy luôn ghen tức với hạnh phúc của các con
cái Thiên Chúa, chúng tìm mọi cách lừa gạt để người ta rơi vào lầm lạc, đánh
mất hạnh phúc ấy.
Muốn hiểu âm mưu ấy của ma quỷ, ta
chỉ cần đọc lại sự phản phúc của vua Giêrôbôam. Ông này đã được Chúa chọn để
trao trách nhiệm cai quản mười chi tộc Dân Chúa. Thế nhưng lập tức ông đã biến
sứ mạng thành một công cuộc riêng. Ông tự tạo ra một tôn giáo để củng cố quyền
lực riêng của mình:
26Vua
Giêrôbôam nghĩ bụng rằng: “Rồi vương quốc lại trở về nhà Đa-vít mất thôi ! 27Nếu
dân này cứ lên tế lễ tại Đền Thờ Đức Chúa ở Giêrusalem, thì lòng họ lại quay về
với chủ mình là Rơ-kháp-am vua Giuđa, và họ sẽ giết ta để trở về với Rôbôam vua
Giuđa.” 28Sau khi quyết định, vua làm hai con bò mộng bằng vàng, rồi
nói với dân: “Các ngươi lên Giêrusalem như thế là đủ rồi ! Này, Israel, Thiên
Chúa của ngươi đây, Đấng đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 29Vua đặt
một tượng ở Bêthel, còn tượng kia ở Đan. 30Đó là nguyên cớ gây ra tội,
vì dân đi tới mãi tận Đan để thờ một trong hai tượng đó. 31Vua thiết
lập những nơi cao và đặt các tư tế lấy từ đám thường dân, không thuộc hàng con
cháu Lêvi. 32Vua Giêrôbôam còn lập một lễ vào ngày mười lăm tháng
tám, giống như lễ vẫn mừng ở Giuđa, và vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm như thế
tại Bêthel mà dâng lễ tế cho các con bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở Bết Ên
các tư tế để phục vụ tại các nơi cao mà vua đã thiết lập. 33Vua tiến
lên bàn thờ đã lập ở Bêthel, vào ngày mười lăm tháng tám, tháng vua chọn theo sở
thích; vua lập nên một ngày lễ cho con cái Israel và lên bàn thờ đốt hương (1V
12,26-33).
33Sau sự việc này, vua Giêrôbôam cũng không
chịu bỏ đường lối xấu xa của mình, nhưng vẫn cứ đặt những người dân thường làm
tư tế tại các nơi cao. Ưa ai thì ông phong làm tư tế tại các nơi cao. 34Sự
việc này là nguyên cớ cho nhà Giêrôbôam phạm tội, rồi bị sụp đổ và tiêu ma khỏi
mặt đất (1V 13,33-34).
Thiên Chúa của Kinh thánh đã và đang
làm chủ lịch sử và làm chủ cuộc đời mỗi người. Một khi đã nhận biết Thiên Chúa
là Đấng duy nhất và tối cao, người tín hữu tuyệt đối đặt niềm tin tưởng vào
Ngài, phó thác tất cả nơi Ngài. Họ không còn lo âu sợ hãi bất cứ điều gì, bởi
đã biết rõ mình có Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng và giàu lòng thương xót,
luôn quan tâm chăm sóc, chở che. Họ không còn khao khát điều gì ngoài Thiên
Chúa là nguồn hạnh phúc vô cùng vô tận.
Phải nhận rằng ngày nay tại Việt Nam,
lắm người mang danh là Công giáo nhưng chưa hiểu đúng về đức tin. Trên lý
thuyết, họ đã theo Chúa nhưng trong tâm thức, họ vẫn còn ôm theo cái não trạng
đa thần và vụ lợi, xem Thiên Chúa chẳng khác nào một thần linh giữa bao thần
linh khác, có trổi vượt hơn các thần khác phần nào nhưng nói chung thì cũng là
thần linh na ná như nhau… Thế rồi khi gặp chuyện gì khó khăn, ốm đau, bệnh tật
hoặc làm ăn thất bại thì họ cũng chạy tìm khấn vái khắp nơi. Họ quên rằng Thiên
Chúa là Đấng Tuyệt đối, mọi thụ tạo khác được phong thần đều chỉ là những ngẫu
tượng, hoàn toàn vô nghĩa trước nhan Ngài.
Thiên Chúa (A) đã tạo dựng nên thiên
thần (B) và con người (C) và muôn loài muôn vật (D), thế rồi những thiên thần
phản loạn (Đ) đã xúi giục con người dựa trên các thụ tạo (B, C và D) nghĩ ra
những tà thần (E) và dạy họ thờ tà thần thay cho Thiên Chúa, tức là đem sản
phẩm (E) của sản phẩm (C và Đ) thay thế cho Đấng Tạo Hóa (A).
Cả cái ý tưởng “vô thần” vĩ đại cũng
chỉ là một tà thần, là một sản phẩm hạng bét của con người, như có viết trong
sách Thánh vịnh: “Kẻ ngu si tự nhủ: “Làm chi có Chúa Trời !” (Tv 13,1). Thế
nhưng, như người ta vẫn nói: “Văn mình thì hay”, hễ điều gì mình nghĩ ra được
thì đều tự cho là hay nhất, tốt nhất thiên hạ, cứ bảo vệ đến cùng, không chịu
buông bỏ. Thách đố lớn nhất của con người là làm sao ra khỏi được cái chủ quan
của mình. Chỉ những ai sẵn lòng chìm vào thinh lặng để nghe tiếng nói nội tâm,
mới hiểu được điều Chúa nói trong Kinh thánh: “8Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của
các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. 9Trời
cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và
tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9.
Khi cung cấp những câu trả lời được
cho là từ cõi âm, thần dữ lừa dối để đổi trắng thay đen, nhằm đẩy những kẻ tò
mò vào những quan niệm sai lạc liên quan tới Thiên Chúa. Thiên Chúa tự Ngài là
Mục Đích cuối cùng mọi loài phải nhắm đến. Thần dữ tìm cách thay vào đó một
“Thiên Chúa phương tiện” có chức năng phục vụ mọi nhu cầu của con người. Nó
củng cố nơi kẻ tò mò quan niệm về một Thiên Chúa nằm trong quyền sai khiến của
con người, một Thiên Chúa đáp ứng đúng những điều bản thân họ đang cần, để họ
mê mẩn vào đó và sao nhãng việc thờ phượng Thiên Chúa đích thật là cội nguồn và
đích điểm của mọi loài, là chủ lịch sử và chủ cuộc đời mỗi người.
Ngày xưa, đa số
người dân không có điều kiện đi học. Mỗi khi gặp việc hệ trọng, họ thường tìm
hỏi ý những người học nhiều hiểu rộng. Những người có điều kiện học hành, sẽ
vận dụng kiến thức của mình để vừa giúp đời vừa mưu sinh. Ai thành đạt thì làm
quan. Ai không đậu đạt làm quan thì về dạy học (nho) hoặc làm thầy thuốc (y),
những người ít tài giỏi hơn thì coi phong thủy, địa lý (lý) và kém hơn nữa thì bói toán, coi ngày
giờ, số mệnh (số).
Các thầy địa lý
và và bói toán ấy tạo thế giá cho ý kiến của mình bằng những lý luận dựa trên
kinh Dịch.
Bên cạnh luồng
tư vấn nhờ các thầy địa lý và và bói toán, dân gian tự đúc kết kinh nghiệm bằng
kho tàng ca dao tục ngữ phong phú, thâm thúy và ý nhị, dạy người ta tự cân nhắc
để “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Ngày nay, nghệ thuật ứng xử dân gian lại
được gói gọn trong kinh nghiệm ba bước “xem xét làm”. Người học sinh ngay từ
nhỏ được tập quen ứng xử trong những chuyện nhỏ theo ba bước xem xét làm thì về
sau trong việc lớn sẽ quan sát đúng, nhận định đúng và hành động đúng, thu xếp
công việc đúng hoàn cảnh khách quan, chẳng cần phải nhờ ai coi ngày, coi giờ.
Là những tín hữu
của Chúa, ngoài lý trí và lương tâm, chúng ta còn được ân sủng của Chúa Thánh
Thần soi dẫn. Nguồn ánh sáng chính xác này luôn gần gũi bên ta. Bắt đầu một
ngày mới, ta tạ ơn Chúa Thánh Thần và xin Ngài soi sáng hướng dẫn. Nhiều lần
trong ngày, trước mỗi khi học bài, trao đổi thảo luận hay làm bất cứ việc gì
khác, ta nên dừng lại vài giây phút, hướng lòng lên cầu nguyện xin ơn Chúa
Thánh Thần.
Bắt đầu bằng
việc xin ơn Chúa Thánh Thần như thế có nghĩa là “xin cho ý Cha được thể hiện”,
chúng ta muốn tìm ý Thiên Chúa thay vì ý riêng, vì tin rằng Thiên Chúa yêu
thương chúng ta và đang muốn ban cho chúng ta điều tốt cao quý gấp bội điều tốt
ta có thể nghĩ ra cho mình: “Thiên Chúa có thể dùng quyền năng đang hoạt động
nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” (Ep
3,20). Nói
khác đi, ta quyết làm theo ý Chúa, không đòi Chúa làm theo ý ta. Từ nơi quyết
chọn căn bản ấy, ba bước xem xét làm của ta sẽ có nét riêng của người Kitô hữu:
- Xem
không chỉ là nắm bắt các thông tin và sự kiện nhưng còn là lắng nghe điều Chúa
nói với ta.
- Xét là
cân nhắc theo các tiêu chí của Tin mừng, không theo sự khôn ngoan thế gian
nhưng theo sự khôn ngoan thập giá: nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh, hướng
tới mục đích lâu dài của đời người.
- Làm
là hành động với tinh thần hy sinh hào hiệp, bỏ mình vì Chúa và vì ích chung
của mọi người, tức là với tinh thần của đức tin và lòng mến, dựa trên ơn Chúa.
- Nhìn
lại: Người đời, do dựa trên ý riêng, sức
riêng và thiện chí giới hạn, hoặc thành công hay thất bại, đưa tới tự hào hoặc
thất vọng.
è Chiêm ngắm: Với người Kitô hữu,
cả ba bước xem, xét và làm đều dựa trên ba nhân đức hướng thần tin, cậy và mến;
đồng thời cũng có thể nói: xem trong đức tin, xét theo đức cậy và làm với đức mến.
Một cách cụ thể,
mỗi tối trước khi ngủ, ta nên đọc đoạn Lời Chúa của thánh lễ hôm sau, đọc chậm,
suy nghĩ rồi đối thoại với Chúa. Những câu Kinh thánh ấy được ghi sẵn theo
lịch, từ nhiều chục năm qua, mỗi ngày không biết bao nhiêu triệu người đang đọc
cùng những câu ấy, có vẻ hoàn toàn tình cờ, không ăn nhập gì với cuộc sống thực
tế hiện tại của từng người. Thế nhưng, lạ thay, ở đó lại có sẵn ánh sáng chính
xác đang cần thiết cho mỗi một người. Bạn hãy thử và sẽ thấy rằng quả thật
Thiên Chúa đang ở với ta và đang nói với mỗi người chúng ta.
Bạn sẽ thấy
chẳng cần gì phải hỏi thầy tướng số, cũng chẳng cần gì phải hỏi ý gia tiên.
Khi người thân
vừa mất, do nhớ thương, ta dễ nằm mơ thấy họ và có thể gặp trường hợp quen gọi
là “báo mộng”. Khi những giấc mơ này thành hiếm hoi, lắm người ao ước tiếp tục
được “giao lưu” với người thân nên tìm cách gọi hồn. Có thể là họ không nhằm
cầu xin gì cả, chỉ gọi để hỏi xem tổ tiên dạy gì; đứng trước các quyết định
lớn, họ mong hỏi ý gia tiên. Ông bà cha mẹ đã hy sinh cuộc đời cho con cháu cho
nên, trước những điều hệ trọng, con cháu muốn lắng nghe tiền nhân thử xem mình
phải làm gì tốt cho gia tộc và cho các thế hệ sau.
Với những người chưa được giáo lý mạc
khải của Chúa soi sáng, suy nghĩ và hành động như thế lắm khi thật cần thiết,
vì không biết phải làm cách nào khác hơn. Nhiều người đã tin Chúa mà chưa hiểu
rõ giáo lý cũng làm như thế và khi được toại nguyện thì nghĩ đó là do ơn Chúa
và thấy lòng thêm phấn khởi thờ kính Chúa. Những trường hợp ấy chẳng những
không có gì đáng trách, ngược lại, còn đáng trân trọng vì người ta đã hành động
đúng theo lương tâm ngay thẳng và tấm lòng trong sạch.
Điều đáng nói là người ta không ngờ
rằng thần dữ đang thổi phồng tầm quan trọng của một trạm nghỉ chân để người ta an
tâm dừng lại, nó thổi phồng một đời Tổ để người ta quên Đấng là nguồn cội của
mọi nguồn cội (x. Ep 3,14-15).
Thế nên một khi đã được đức tin soi
sáng, ta cần xác tín rằng Thiên Chúa muốn nói thẳng với ta chứ không qua trung
gian gia tiên hay nhà ngoại cảm nào cả. Chính Chúa Thánh Thần có cách soi đường
chỉ lối, tận trong cõi lòng, chỉ cần tin cậy Ngài thật lòng là ta sẽ nhận được
ánh sáng. Đừng để bị thần dữ đánh lừa, nó hối thúc ta khiến ta nôn nóng, muốn
có ngay đáp số đang mong ước và đẩy ta tin theo những cách mách bảo khác, tức
là tin vào thụ tạo, thay vì tin vào tình thương yêu chăm sóc của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, lòng thành của
những gia đình bán nhà bán cửa để chỉ mong tìm được hài cốt thân nhân là thiêng
liêng lắm. Vì tấm lòng thành ấy mà họ đi nhờ các nhà ngoại cảm thì các linh mục
cảm thương và tôn trọng, không dám cản ngăn. Thế nhưng lòng thành ấy không thể
là lý do để Giáo hội phải bảo rằng việc gọi hồn hoặc nhờ tới các nhà ngoại cảm
là chuyện đúng với giáo lý đạo Chúa.
Tôi xin được nói rõ hơn đôi chút về
giáo lý này.
Từ xa xưa, người Việt đã từng nghĩ
tới thực tại sau cùng với bốn yếu tố khá trùng hợp với Kitô giáo là: chết, phán
xét, thiên đàng và hỏa ngục. Tuy nhiên, nơi cả bốn yếu tố ấy, mạc khải Kitô
giáo có cái nhìn hết sức khác biệt:
- Chết: không chỉ là về với Tổ tiên
nhưng trên hết là về với Thiên Chúa Tạo Hóa là Nguồn cội đời đời
- Phán xét: Việc này xảy đến cho từng
người liền sau khi chết, không không phải do một “viên quan” nào đó đứng ra lo
nhưng là chính Thiên Chúa Tối Cao Hằng Hữu đích thân phán xét.
- Thiên đàng: là tình trạng không chỉ
dành cho “những người hoàn
toàn trong sạch, hoàn toàn được thấm nhuần bởi Thiên Chúa, và do đó, hoàn toàn
cởi mở cho tha nhân” (Thông điệp Spe salvi, số 45) mà còn dành cả cho những người
“sự dơ bẩn lấn át sự trong sạch, nhưng vẫn tiếp tục khát khao sự thuần khiết”
và được sự gặp gỡ Đấng Phán xét “cải biến và giải thoát, khiến cho trở nên con
người chính thật của mình” (Sđd, số 46). Thiên đàng không chỉ là “nhà Trời”
nhưng là tinh trạng được hiệp nhất với Thiên Chúa trong hạnh phúc đời đời.
- Hỏa ngục: là tình trạng dành cho “những con người mà mọi thứ trong đời
họ đều là dối trá,.. những con người đã sống cho thù hận và đè bẹp mọi thứ tình
yêu trong lòng họ… những con người mà
nơi họ mọi sự đã hết thuốc chữa và sự tàn lụi điều thiện trong họ không thể nào
đảo ngược lại…” (Thông điệp Spe salvi, số 45). Hỏa ngục không chỉ là một sự
trừng phạt (“ngục lửa”) mà trước hết là phải xa cách Thiên Chúa hằng sống và
đầy yêu thương.
- Luyện ngục: dành cho những trường
hợp cần đến một giai đoạn trung chuyển từ phán xét tới thiên đàng, một trạm
dừng chân để thanh luyện cho thật xứng đáng hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên
Chúa. Đó là tình trạng mà “cái
nhìn của Chúa, sự va chạm của trái tim Ngài chữa lành chúng ta qua một một biến
cải chắc chắn là đau đớn “như đi qua lửa”. Tuy nhiên đó là một sự đau đớn được
chúc lành, trong đó quyền lực cực thánh của tình yêu Ngài xuyên thấu chúng ta
như một ngọn lửa, giúp chúng ta trở nên hoàn toàn là chính mình và nhờ đó hoàn
toàn thuộc về Chúa… Chúng ta không thể đo lường “thời gian” của sự thiêu đốt biến
cải này bằng những đơn vị đo lường thời gian của trần thế” (Sđd, số 47).
Ngoài ra còn có những yếu tố hoàn
toàn mới so với cái nhìn của những người Việt thờ cúng Ông bà Tổ tiên:
- Ngày kết thúc lịch sử, thể xác mọi
người sẽ chỗi dậy để cùng chịu phán xét chung.
- Đây là cuộc xét xử công khai dành
cho tất cả, trước mặt hết thảy mọi người. Chính Chúa Giêsu phác họa viễn cảnh
ấy như sau:
31“Khi Con Người đến trong vinh quang của
Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Ngài sẽ ngự lên ngai vinh hiển của
Ngài. 32Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ
tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33Ngài sẽ
cho chiên đứng bên phải Ngài, còn dê ở bên trái. 34Bấy giờ Đức Vua sẽ
phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến
thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
35Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta
là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36Ta trần truồng, các ngươi đã
cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi
han.” 37Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có
bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38có
bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc?
39Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han
đâu?” 40Đức Vua sẽ đáp lại rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các
ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” 41Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người
ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời
đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42Vì xưa Ta
đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43Ta
là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không
cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” 44Bấy
giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy
Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà
không phục vụ Chúa đâu?” 45Bấy giờ Ngài sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo
thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người
bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” 46Thế
là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng
sự sống muôn đời.”
(Mt 25,31-46)
Ngày ấy không phải chỉ mọi hóa đơn đỏ, mọi công thức thực
phẩm độc hại, mọi lời khai báo man trá đều bị phơi trần trước mặt mọi người mà
cả đến những ý nghĩ mưu mô thầm kín cũng chẳng còn giấu được ai nữa. Cuối cùng
tất cả tâm địa, tất cả đời sống của mỗi chúng ta đều phơi bày trước mặt Thiên
Chúa và mọi người. Không còn gì để khiếu nại, để lấp liếm; mọi sự đều rõ hơn
giấy trắng mực đen.
Đó là ngày không ai thoát được, kể cả những người theo
thuyết duy vật và luân hồi. Đó là lúc biểu lộ thực trạng, lúc mà trật tự thực
sự sẽ được lập lại, mọi sự được đặt vào đúng thứ tự. Có những người trước kia
ai cũng khen là đạo đức, bây giờ bị vạch mặt. Có những người từng hét ra lửa,
bây giờ run lẩy bẩy. Có những người bị đời khinh chê phỉ nhổ, bây giờ được
ngưỡng mộ. Lắm kẻ vô danh bây giờ được đề cao, ca tụng. Đây là giờ của sự thật.
Trong cuộc sống, người ta bị che đi vì nhiều cái vỏ, bây giờ mọi cái vỏ đều bị
đập bể, tất cả lộ nguyên hình, người nào vào chỗ nấy (x. Mt
21,31-32).
Tuy nhiên Đấng Thẩm phán chẳng bận tâm tới gì tới những
tiểu tiết mà nhiều người đang tò mò muốn biết. Mọi thành tích lớn lao trước mặt
người đời đều vô nghĩa trước mặt Ngài. Chúa chỉ nêu cao một tiêu chí mang tính
quyết định: tình yêu thương. Cái tiêu chí bất ngờ ấy khiến một nửa nhân loại
khóc òa trong an ủi và một nửa thét lên kinh hoàng tuyệt vọng.
Kết quả phán xét riêng của từng người được giữ kín cho tới
ngày cuối cùng, là quyền của Thiên Chúa, không ai biết được tình trạng thưởng
hay phạt của người đã khuất trước ngày Thiên Chúa bày tỏ. Do đó ta cần tin
tưởng phó thác mọi người đã khuất cho tình thương của Thiên Chúa, không được
phép và cũng không thể nào gọi hồn người xưa về lại trần gian để thỏa mãn những
tò mò hoặc những âu lo vô ích của ta.
“Việc
cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc
Tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin ơn giải thoát cho những
người đang cần được thanh luyện, quen gọi là cầu hồn. Đối với những người mới
qua đời, ta nên nhấn mạnh tới việc cầu hồn, còn đối với những người đã qua đời
lâu năm, ta có thể chú trọng hơn tới việc dâng lời cảm tạ Chúa nhân từ đã thứ
tha và giải thoát. Ngoại trừ những trường hợp được thẩm quyền Hội thánh tuyên
thánh (phong thánh), ta không thể chủ quan khẳng định người này hay người nọ đã
được hoàn tất thời kỳ thanh luyện rồi hay chưa. Bởi lẽ chúng ta đang sống trong
một thế giới lệ thuộc không gian và thời gian, còn tiền nhân đã khuất đang
thuộc về một thế giới vượt ngoài không gian và thời gian, do đó lấy ý niệm
“rồi” và “chưa” theo cách ta quen suy nghĩ ở đời này đem áp dụng cho thế giới
đời sau không khỏi có phần khập khiễng. Nói đến đời sau là ta đang chạm đến
những mầu nhiệm vượt khỏi mọi ý niệm cân đo đong đếm. Cũng nên nhớ rằng ngay cả
những người tốt lành đã chết mà chưa chịu phép thánh tẩy, ta vẫn có thể tin
rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đã có cách cứu vớt họ trong Chúa Kitô
và nhờ Chúa Kitô, “vì Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).
Cũng
đừng quên rằng ta có thể cầu nguyện với những bậc Tổ tiên đang được hưởng hạnh
phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta.
Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã về với Chúa, họ
còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu hơn.”
Đó là một đoạn trích từ quyển Kinh Nguyện Gia Đình và Gia Lễ Công Giáo (trong Tủ sách Nước Mặn
của Giáo phận Qui Nhơn, Nhà Xuất bản Hồng Đức 2018, mục nói về ngày giỗ, trang
337).
Thưa bạn, khởi từ mấy câu hỏi đơn giản, câu chuyện của chúng
ta đã lan man vừa đi vừa tránh những ngộ nhận đáng tiếc để khỏi bị thần dữ đánh
lừa. Một số ngộ nhận ấy là do nhiều người hiểu chưa đúng huấn thị của Giáo hội
Công giáo chấp thuận cho các tín hữu Á Đông được tôn kính Ông bà Tổ tiên theo
tập tục văn hóa và đạo lý dân tộc. Do thiếu một quyển chỉ nam hướng dẫn cụ thể,
nhiều người tưởng rằng mọi tục lệ của cha ông xưa giờ đây đều trở thành được
phép, không có gì phân biệt. Bạn đọc nào muốn nắm vững cách thực hành hiện nay
của người Công giáo, xin mời trực tiếp đọc quyển Kinh Nguyện Gia Đình và Gia Lễ
Công Giáo.
Quyển sách này đã được Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa cho
imprimatur và Tòa Giám mục Nha Trang ấn hành lần đầu vào năm 1997. Qua hai mươi
năm, với sự giúp đỡ của Giáo quyền và các chuyên viên, chúng tôi đã chỉnh sửa
lại toàn bộ. Nay, được Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, trong tư cách là Chủ tịch Ủy
ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, viết lời giới thiệu,
và Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc cho imprimatur mới, chúng tôi vừa cho in
lại.
Quyển sách có thể là một điểm gặp gỡ lý thú cho người
lương và người giáo. Những chỗ giống nhau và khác nhau trong thực hành sẽ giúp
ta dễ đối chiếu đức tin của người Kitô hữu với những tin tưởng của nhiều giới
đồng bào xung quanh, và có thể nhờ đó mà thấy thêm ánh sáng cho những vấn đề
chúng ta trao đổi.
Quyển sách sẽ cung cấp những chỉ dẫn rõ ràng chính xác cho
từng dịp cúng gia tiên, ngày tang, ngày giỗ. Ở mục 13 tiếp đây, chúng tôi xin
trích nguyên văn phần hướng dẫn tổng quát trong quyển này về việc tôn kính Tổ
tiên để bạn đọc có một cái nhìn chung. Ai quan tâm muốn biết rõ hơn, xin tìm
đọc các phần khác trong quyển sách.
Trước
khi đề cập huấn thị của Tòa thánh chấp thuận cho các Kitô hữu Á Đông bày tỏ
lòng tôn kính Tổ tiên theo hình thức cổ truyền, xin được nói qua về truyền
thống này trong văn hóa Việt Nam.
A. VÀI NÉT VỀ TRUYỀN
THỐNG TÔN KÍNH TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
* Bàn thờ gia tiên, gian thờ, từ
đường
Tùy hoàn cảnh từng gia đình và gia tộc, nơi
dành để tưởng nhớ gia tiên có thể là một bàn thờ, một gian thờ hay một từ
đường. Từ đường diễn nôm ra là nhà thờ. Tuy nhiên, tại nhiều nơi có phân biệt,
tiếng “từ đường” được dùng để chỉ nhà vị trưởng tộc có gian thờ, còn tiếng “nhà
thờ” được dùng để chỉ một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ phụng tổ tiên, không
có ai ở. Trên bàn thờ có thần chủ (bài vị), ghi tên, tuổi, chức danh các vị tổ
đã khuất. Ngày nay, nhiều nơi thay các bài vị bằng di ảnh người đã khuất.
Gia phả là quyển sách ghi nhớ các thành viên
trong gia tộc. Ngày xưa, gia phả viết bằng chữ Nôm, chỉ ghi tên những người đã
khuất, theo từng nhánh, qua từng thế hệ. Gia phả được coi như báu vật thiêng
liêng, cất trong hộp sơn son thếp vàng, để trên bàn thờ gia tiên. Hàng năm vào
buổi chiều trước ngày giỗ chung, người ta “thỉnh” gia phả xuống và ghi thêm tên
tuổi những người mới chết trong năm qua với ngày kỵ giỗ theo âm lịch. Ngày nay,
gia phả viết bằng chữ Quốc ngữ, có thể ghi tên cả những thế hệ con cháu còn
sống, với đầy đủ hình ảnh, tiểu sử, cả các cháu nhỏ, và in sao thành nhiều bản
phân phối đến các tiểu gia đình trong gia tộc.
Người xưa bảo: “Ngũ đại mai thần chủ”, nghĩa
là hễ đến năm đời thì đem chôn bài vị của cao tổ đi mà nhấc lần các vị tằng tổ khảo
lên bậc trên rồi đem vị tổ mới qua đời của thế hệ tiếp theo đặt vào vị trí thứ
tư.
Như vậy là chỉ làm giỗ có 4 đời (cao, tằng,
tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ. Từ bậc “Cao” trở lên
được gọi chung là tiên tổ thì không làm giỗ riêng nữa mà nhập chung vào kỳ xuân
tế (tế hiệp hay xuân thủ), hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thủy tổ.
Ngày giỗ là lễ kỷ niệm
ngày qua đời của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Ngày xưa người ta tính theo âm lịch,
ngày nay nhiều gia đình tính theo dương lịch cho dễ nhớ. Ngày giỗ cũng còn gọi
là ngày “kỵ”.
Ngày giỗ, ngoài việc thăm phần mộ, sẽ tùy gia
cảnh và tùy vị trí người đã khuất mà làm giỗ. Đây là dịp gặp mặt người thân
trong gia đình và dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc
người sống nhằm giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống,
nên mới gọi là ăn giỗ, là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian
sum họp, trò chuyện tâm tình. Ngày nay, nếp sống khác xưa, việc giỗ nơi nào
cũng chỉ cốt giữ lại những điều chính yếu, không theo sát từng chi tiết ngày
xưa. Ở đây xin ghi lại những nét lớn để mỗi gia đình hay gia tộc tùy nghi chọn
những chi tiết hợp với hoàn cảnh của mình.
Do thương nhớ người đã khuất, có những gia
đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm, coi như
người thân còn sống trong gia đình. Khi đã nguôi thương nhớ thì chỉ làm như vậy
trong những ngày kỷ niệm. Từ đó ta hiểu việc bày biện thức ăn trong ngày tưởng
nhớ không phải vì nhu cầu của người chết nhưng là của người sống. Người sống
muốn dùng những dấu hiệu cụ thể để bày tỏ tình thân thương như thể người đã
khuất nay lại đang hiện diện trong gia đình.
Theo hướng ấy, ngay từ
chiều hôm trước ngày giỗ, con cháu đã sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên bàn thờ
gia tiên, gọi là “lễ tiên thường” (nghĩa là nếm trước), như thể gia tiên đã về
với con cháu. Còn trong chính ngày giỗ, người ta cúng vào buổi sáng, lúc gần
trưa.
Tuy
nhiên, không nhất thiết phải đông người hoặc phải có bữa ăn mới là làm giỗ. Sự
tưởng nhớ là chính. Khi thiếu điều kiện thì dù chỉ có một mình, chỉ một bó hoa,
một nải chuối hoặc thậm chí chỉ một cây nhang hay không có gì cả, chỉ yên lặng
tưởng nhớ với cả tấm lòng thành cũng đã đầy ắp ý nghĩa rồi.
Khi cúng thì chủ gia đình bày đồ lễ cùng với
hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, sẽ đốt đèn
(đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, khấn, và cúng trước rồi những
người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Khi cúng thì phải chắp tay
đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan
đến tên người quá cố, ngày tháng năm, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những
người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyện, v.v… Riêng tên người quá cố
ta phải khấn thật nhỏ. Sau khi khấn rồi, tùy theo địa vị của người cúng và
người quá cố mà vái hay lạy.
Về nghi thức, truyền thống xưa được diễn tả
qua bốn động từ: cúng, lạy, khấn và vái. Cả bốn động từ này đều có ý nghĩa
trong sáng, ta cần biết rõ để khỏi lúng túng hoặc hiểu lầm. Trong bài viết đáng
tin cậy tựa đề “Nguyên tắc cúng, khấn, vái và lạy” đăng ở dactrung.net và được
một số trang khác lấy lại, tác giả Khải Chính Phạm Kim Thư giải thích bốn động
từ này, có thể lược tóm như sau:
a. Cúng
Cúng là dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn và khẩn
nguyện. Dịp giỗ, Tết, gia chủ bày hoa quả, nước, rượu, cỗ bàn, chén bát, đũa,
muỗng lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn, đốt nến, khấn, vái, hay lạy
để tỏ lòng hiếu kính và cầu phước lành. Thường thì khi cúng gia tiên người ta
dùng thức ăn của bữa cơm (cúng mặn) nhưng ngày nay nhiều nơi chuyển sang thức
ăn khô gọn nhẹ với bánh trái (cúng chay). Hình thức cúng đơn giản nhất thắp
nhang (hương), khấn, lạy và vái.
b. Khấn
Khấn là cầu khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng,
tức là khẽ nêu lên những chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi
cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được
coi là cách chào kính cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy.
c. Vái
Vái (hay bái) thường được thực hiện ở thế
đứng, chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và
khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc
cúi xuống khi ngẩng lên. Vái dùng để tỏ lòng kính trọng hoặc lễ nghi lịch sự,
dành cho bạn bè và người quen.
d. Lạy
Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân
thành với tất cả tâm hồn và thể xác trong nghi lễ dành cho Trời hoặc những
người trực tiếp liên quan đến sự sống của ta như vua, cha mẹ hay thầy dạy.
Người ta cũng có thể lạy ân nhân đã cứu mạng.
Có hai thế lạy: Thế lạy của đàn ông và thế lạy
của đàn bà.... Thế lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất
khó lạy. Hiện nay chỉ có một số vị cao niên khăn đóng áo dài còn áp dụng thế
lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ, còn phần đông, người ta có thói
quen chỉ đứng vái mà thôi.
Những ghi nhận trên đây của tác giả Phạm Kim
Thư cho thấy với người Việt ngày nay, cử chỉ sụp lạy không còn quan trọng như
xưa.
Người Tàu chỉ lạy ba lạy hay vái ba vái trong
mọi trường hợp. Chỉ riêng người Việt mới phân biệt số lần lạy và vái với ý
nghĩa như sau:
- Khi phúng điếu, nếu ta là vai dưới của người
quá cố thì ta lạy, nếu là vai trên của người quá cố thì ta chỉ vái.
- Khi chưa chôn thì người quá cố được coi như
còn sống, nên chỉ áp dụng hai lạy hoặc hai vái (tựa như khi cha mẹ còn sống, cô
dâu hoặc chú rể lạy cha mẹ hai lạy). Khi người quá cố được chôn rồi, thì dùng
bốn lạy hoặc bốn vái.
Trong lễ giỗ, cũng dùng bốn lạy và bốn vái.
Những con số hai và bốn chỉ là theo thói quen, được một số người giải nghĩa
theo nguyên lý âm dương.
Nếu vái thêm sau khi đã lạy, người ta thường
vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này là sự chào kính, không có ý nghĩa nào khác.
Năm 1939, ngày 8-12, với
huấn thị “Plane compertum est”, Tòa thánh chấp thuận cho các tín hữu Công giáo
Trung Hoa được tôn kính Ông bà Tổ tiên theo tập tục văn hóa và đạo lý dân tộc.
Huấn thị này ngắn gọn, chỉ hơn hai trang. Lời
mở đầu ghi nhận rằng theo thời gian, các phong tục và ý tưởng đã có những biến
đổi, chỉ còn mang ý nghĩa dân sự, với ý nghĩa lịch sự trong các tương quan xã
hội, để tỏ lòng tôn kính tổ tiên, yêu mến tổ quốc. Tiếp đó là 4 số ghi chỉ thị.
Số 1-3 nói về những nghi lễ công cộng đối với
Đức Khổng Tử: Những tín hữu là nhân viên nhà trường và học sinh khi phải tham
dự, sẽ thi hành cách thụ động với ý tưởng duy nhất là để tôn kính theo nghi lễ
hoàn toàn dân sự; nếu thấy cần thì sẽ tuyên bố rõ ý hướng ấy để tránh hiểu lầm.
Số 4 liên quan đến việc tôn kính Tổ tiên: “Tất
cả những cử chỉ cúi đầu và những biểu lộ tôn kính khác có tính cách xã hội
trước những người quá cố hay hình ảnh và bài vị mang tên họ, đều phải coi là
được phép và xứng hợp”.
Huấn thị không nhằm phục hồi nguyên trạng
những chuyện đời xưa cũng không xác định các hình thức nhưng chỉ nêu lên những
nguyên tắc về tinh thần.
Năm 1964, huấn thị này
được áp dụng cho tín hữu Việt Nam.
C. NGƯỜI CÔNG GIÁO TƯỞNG NHỚ GIA TIÊN
Lễ gia
tiên là một cách thể hiện tình hiệp thông với những người đã ra đi trước chúng
ta. Hằng ngày người Công giáo tưởng nhớ gia tiên tại nhà mình khi thắp hương
trên bàn thờ Ông Bà và tại nhà thờ khi dâng thánh lễ. Việc tưởng nhớ này được
đặc biệt nhấn mạnh vào ngày thứ Hai hằng tuần, vào ngày mùng 2 Tết Nguyên đán,
ngày mùng 2 tháng Mười một dương lịch và suốt tháng Mười một này.
Thiên
Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của
kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống (Mt 22,32). Bên kia cái chết, những
bậc tiền nhân nào đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên
Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông
công. Do đó, khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người Công giáo không làm một sự thờ
phượng ở ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để nhờ đó mà thêm
lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất
(Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống, người công giáo
cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.
Người
Việt Nam có thói quen rất tốt: Mỗi khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng
nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình ấy bằng việc cúng lễ. Người tín hữu công giáo
Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nhìn chính xác, phù hợp
với đức tin Kitô giáo.
Mỗi gia
đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đã có bàn thờ thì nhớ thắp hương,
đừng để hương tàn khói lạnh. Ngày tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt
ngày. Những thời khắc quan trọng, nên thắp nến sáng trọn buổi.
Về hình thức, chỉ cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp
các cháu nhỏ học được lòng biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hóa.
D. TRƯỚC THỤ TẠO, TA CHỈ VÁI KÍNH CHỨ
KHÔNG SỤP LẠY
Hầu hết các tài liệu trên mạng internet đều tán đồng ghi
nhận của tác giả Phạm Kim Thư (dactrung.net): “Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên
còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông,
người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.”
Ghi
nhận ấy cho thấy trong cái nhìn của người Việt ngoài Kitô giáo, việc sụp lạy
chỉ là một cách bày tỏ sự tôn kính dành cho thụ tạo (cha mẹ, ông bà, tổ tiên)
chứ không có nghĩa là bày tỏ sự tùng phục của thụ tạo trước Thiên Chúa Tạo Hóa.
Tuy
nhiên, thần học Kitô giáo dùng hai từ khác nhau để diễn tả hai thái độ nội tâm
khác nhau: “Thờ lạy” là thái độ thần phục của thụ tạo đối với Tạo Hóa, còn “tôn
kính” là thái độ khắc ghi niềm yêu kính tận đáy lòng đối với những người trên
trước.
Cử chỉ
sụp lạy diễn tả một sự tôn kính với cả tâm hồn, nó gợi nhớ đến lệnh truyền: yêu
mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” (Mc 12,30), và
có thể phần nào diễn tả thái độ “thờ lạy” nói trên. Trong thực tế, việc sụp lạy
này chỉ được thể hiện trong giờ nguyện ngắm riêng, còn trong việc cầu nguyện
chung thì không dùng đến. Dù vậy người Kitô hữu chúng ta muốn dành riêng cử chỉ
này cho Thiên Chúa Tạo Hóa và khoác cho nó ý nghĩa một sự phó thác tất cả và
thuận phục hoàn toàn. Theo hướng ấy, trong nghi lễ gia tiên cũng như trước quan
tài hay di ảnh người quá cố, các Kitô hữu thường chỉ vái kính chứ không sụp
lạy.
Về số
lần, người Công giáo có thể vái bốn vái theo tập tục dân gian, mà cũng có thể
vái ba vái trong tâm tình hướng lên Thiên Chúa Ba Ngôi để cảm tạ hoặc cầu
nguyện cho người đã khuất.
Đ. NGƯỜI KITÔ HỮU PHÂN BIỆT “THỜ” VÀ
“KÍNH”
Trong
các ngôn ngữ phương Tây, thần học Kitô giáo dùng một động từ diễn tả thái độ
thần phục tuyệt đối trước Thiên Chúa Tối Cao, đem chuyển sang tiếng Việt có thể
dịch là “thờ lạy”. Động từ “thờ” (λατρία,
latria, worship, adorer) được dành riêng cho Thiên Chúa Ba Ngôi, còn “kính” (δόλια,, dulia, venerate, vénérer) được dành cho các
thánh; tuy nhiên, “biệt kính” (ηυπερδύλια, hyperdulia,
specially venerate, vénérer spécialement) được dành cho Mẹ Maria.
Trong
tiếng Việt, chữ “thờ” vừa dùng để diễn tả thái độ đối với thần linh, vừa dùng
để diễn tả tâm tình kính trọng chân thành và bền bỉ đối với người trên mà mình
tôn quý: thờ vua, thờ chồng, thờ cha kính mẹ. Từ điển Đại Nam quốc âm tự vị
định nghĩa “thờ là kính trọng, tôn trọng, hết lòng cung kính hoặc lập bàn riêng
mà tôn kính”. Như thế, tự nó, chữ “thờ” trong tiếng Việt không tương đương với “(λατρία, latria” trong tiếng Hy Lạp, “adorare” trong
tiếng Latin, “adorer” trong tiếng Pháp hoặc “worship” trong tiếng Anh. Thế
nhưng vì chữ “thờ” lột tả được sự tôn kính “hết lòng” dành cho một vị mà mình
coi là không thể thay thế được, ngay từ rất sớm, người Kitô hữu Việt Nam đã
dành riêng chữ “thờ” (và những từ kép của nó: thờ phượng, thờ lạy, kính thờ,
tôn thờ) để diễn tả sự thần phục tuyệt đối dành cho Thiên Chúa, còn đối với mọi
thụ tạo khác thì các Kitô hữu dùng từ “tôn kính” hoặc “tôn sùng”. Nói cách
khác, đang khi người ngoài vẫn dùng chữ “thờ” theo ý nghĩa cũ, các Kitô hữu mặc
cho chữ ấy một ý nghĩa mới, dành riêng để diễn tả tâm tình hiếu thảo ta phải có
đối với Thiên Chúa. Trong quyển này, chữ “thờ” và chữ “kính” được dùng với ý
nghĩa phân biệt như thế.
Lịch sử
mỗi dân tộc, mỗi gia tộc, mỗi gia đình và mỗi người đều diễn tiến trong tình
thương quan phòng của Thiên Chúa, từ Thiên Chúa mà đến rồi lại về với Thiên
Chúa. Khi chưa nhận biết Thiên Chúa, người ta không biết cuối cùng mọi sự đi về
đâu, cho nên hễ có việc thì lo nhờ người tìm giờ tốt, tránh giờ xấu, tính đến
tương quan gắn kết thì sợ không hợp tuổi... Người Kitô hữu không chút bận tâm
tới những chuyện ấy vì vững tin rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, mọi sự đều
là quà tặng được Cha ban để giúp ta đạt tới hạnh phúc đời đời. Khi tổ chức công
việc gia đình, ta không coi ngày giờ, chỉ liệu sao thuận tiện cho những người
trong cuộc là được. Các nghi thức cầu nguyện trước hết nhằm tạ ơn Thiên Chúa,
bày tỏ niềm tín thác và xin Ngài ban phúc.
Tránh
những chi tiết trái đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý.
F. Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA TÔN KÍNH ÔNG BÀ
TỔ TIÊN
Một vài
ý nghĩa thần học để giúp ta hiểu lý do ta tôn kính Ông Bà Tổ Tiên:
1. Tôn
kính Ông Bà Tổ Tiên chính là thực thi giới răn thứ tư: Thảo kính cha mẹ khi còn
sống cũng như khi đã qua đời.
2. Tôn
kính Ông Bà Tổ Tiên cũng chính là biểu lộ niềm tin “các thánh thông công”, tức
là sự hiệp thông giữa các tín hữu còn sống và các tín hữu đã qua đời.
3.
Chính Chúa Giêsu đã nêu gương cho mọi người trong bổn phận làm con với lòng
hiếu thảo và vâng phục với cha mẹ trần gian - Đức Maria và Thánh Giuse, cha
nuôi (Lc 2,51) – và với Chúa Cha (Ga 4,34; 5,30; Mt 26,39; Pl 2,8; Hr 5,8).
4. Qua việc Tôn kính Ông Bà Tổ Tiên, người tín hữu thực
thi chức tư tế cộng đồng của mình (khác với chức tư tế thừa tác của các chức
sắc trong Giáo hội). Gia trưởng, con cả, người mẹ hay bất cứ ai trong gia đình
đều có thể thắp nhang sớm hôm tưởng nhớ và cầu nguyện cho tiền nhân. Đó chính
là thực thi chức tư tế cộng đồng của mình.
5.
Người Công giáo vẫn luôn tôn kính Ông Bà Tổ Tiên nhưng đã gián đoạn truyền
thống văn hóa dân tộc trong việc tôn kính này suốt hơn hai thế kỷ, khiến nhiều
người tưởng rằng theo Đạo là bỏ Ông bỏ Bà. Nay, việc đón nhận lại các truyền
thống đã giải tỏa sự hiểu lầm ấy, người Công giáo cần thực hiện cách nghiêm túc
và đúng với đức tin để giúp bà con ngoài Công giáo nhận biết tình Cha của Thiên
Chúa Tạo Hóa và sống hiếu thảo với Ngài.
22. VỮNG TIN VÀO TÌNH THƯƠNG CHÚA VÀ
LOẠI TRỪ MÊ TÍN
Trong
các hoạt động cá nhân, gia đình và gia tộc, người tín hữu cần sáng suốt để
tránh xa những mê tín tệ hại. Cứ sống đúng theo lương tâm và lý trí, mọi sự sẽ
diễn tiến tốt đẹp trong tình thương của Thiên Chúa. Luôn bình tĩnh cân nhắc để
biết chọn lựa hợp tình, hợp lý, không nghe theo sự bày vẽ của thầy bùa, thầy
cúng.
Hồi
thập niên 1930, cuộc vận động cải cách văn hóa xã hội của các nhà văn nhà báo,
đã gần như thanh toán được phần lớn nạn mê tín. Tiếc thay, hoàn cảnh chiến
tranh nhiều năm rồi não trạng chạy theo vật chất lợi nhuận đã khiến tâm thức
nhiều người quay lại với đủ thứ mê tín đáng thương.
Nguồn
gốc của mê tín là do thiếu hiểu biết và do cầu lợi, sợ bị thua thiệt. Người
Kitô hữu biết mình tin vào ai (x. 2Tm 1,12) và biết lời Chúa dạy: “Không ai có
thể làm tôi hai chủ... Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền
Của được” (Mt 6,24). Cần xác tín điều ấy, mới có thể diệt sạch mọi mê tín khỏi
lòng mình cũng như khỏi cuộc sống gia đình và xã hội.
Cần tập cho các cháu nhỏ biết tự mình cân nhắc nhận định,
biết phân biệt điều chính với điều phụ, việc trước với việc sau để làm mọi việc
đúng lúc, đúng thời, hợp tình, hợp cảnh. Nên tính ngày giỗ theo dương lịch để
các cháu nhỏ dễ nhớ. Đó cũng là những cách giúp các cháu thoát khỏi chuyện coi
phương hướng ngày giờ nhảm nhí.
Lễ gia
tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ lễ. Nếu vị này
vắng mặt thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.
Việc
trưng bày hoa quả quà bánh lên bàn thờ để tưởng nhớ người đã khuất là điều nên
làm, còn việc bày biện các thức ăn khác thì nên tránh để khỏi gây hiểu lầm đáng
tiếc. Cần nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: Đức tin Công giáo dạy rằng người quá cố
không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ lòng biết ơn kính
nhớ mà thôi.
Những chỉ dẫn trên đây nhắc nhở chúng ta cần tỉnh táo sáng
suốt, tránh những thực hành mang ý nghĩa ngược với giáo lý Đạo Chúa. Thủ thuật
của quỷ dữ là vận dụng điều tốt giả để phá hỏng điều tốt thật. Muốn thoát khỏi
cám dỗ chạy theo những điều tốt giả, ta cần dứt khoát từ nơi những điều rất
nhỏ. Trước mọi cám dỗ, ta cần tha thiết xin Chúa ban ơn để quyết hướng theo
chiều ngược lại. Ta cần quyết tâm bước đi trong sự thật: nghĩ thật, nói thật và
hành động chân thật; dù có vì thế mà bị thua thiệt mọi bề vẫn không nao núng.
Nhìn cơn lũ ập xuống khắp hành tinh, cuốn trôi mọi thứ, ta
tự hỏi mấy ai sẽ đứng vững với chọn lựa ban đầu? Ta nhớ lại tiếng thở dài Chúa
đã thốt ra sau khi kể câu chuyện bà góa nghèo bị áp bức bất công nhiều năm đằng
đẵng:
“1Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ
ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2Người
nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà
cũng chẳng coi ai ra gì. 3Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này
đã nhiều lần đến thưa với ông: 'Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.'
4Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ
bụng: 'Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5nhưng
mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta
nhức đầu nhức óc.'”
6Rồi Chúa nói: “Anh em
nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 7Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại
không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người
sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người
sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy
lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,1-8).
Bà góa ấy đã kiên trì và cuối cùng đã được hưởng công lý
và bình an thế nào thì giờ đây cũng thế, “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ
được cứu thoát” (Mt 10,22). Hội thánh và mỗi linh hồn tín hữu cũng được mời gọi
phải bền chí như bà. Liệu chừng mỗi chúng ta có thể bền chí như thế hay chăng?
Thưa có, hãy bám lấy Chúa thì Ngài sẽ làm cho chúng ta có thể (x. Mc 10,17-27)
Chúa cảnh báo chúng ta bằng tiếng thở dài trên kia vì Ngài
muốn làm cho ta có thể. Thiên Chúa là Cha để cho mỗi chúng ta và cả nhân loại
lâm vào tình huống gay go cực độ hiện nay nhằm đãi cát tìm vàng. Ngài cho các
mãnh lực trần gian được quyền thao túng là để sàng lọc ra những anh hùng của
Tin mừng, những người dù luôn đối diện với những sức hút hết sức mãnh liệt của
vật chất vẫn luôn vững vàng không lay chuyển. Chính Chúa Kitô dẫn đầu chúng ta
đi qua cuộc thanh tẩy luyện lọc kinh hoàng ấy để thánh hóa những kẻ Ngài tuyển
chọn và tự sắm lấy cho Ngài “một
Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tì ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết
điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,26-27).
Theo hướng ấy, tin vào tình thương và quyền năng của Thiên
Chúa, ta hãy nhìn thẳng vào cuộc chiến đấu đang mở ra trước mắt, không âu lo
nhưng thanh thản như một bông sen bập bềnh:
Trong
đầm gì đẹp bằng sen,
Lá
xanh, bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị
vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn
mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thật tình cờ, ca dao Việt Nam đặt nổi lên trước mắt ta ba
màu của cánh sen, minh họa sít sao cho cả ba
nhân đức căn bản (khiêm nhường, thanh thoát, yêu thương), ba lời khuyên Tin mừng (vâng phục, nghèo
khó và khiết tịnh) rồi ba nhân đức hướng
thần (tin, cậy, mến). Thân phận người tín hữu ngày nay không chỉ như chiên
giữa sói (x. Mt 10,16) mà còn như sen giữa lầy. Chúng ta được mời gọi hướng mắt
lên các bộ ba nhân đức ấy để vượt thắng cái hôi tanh của tam độc: tham, sân, si.
Trên các trang tin gần đây, chúng ta đọc thấy những người
giàu bậc nhất trên thế giới đang có cảm hứng dành hầu hết cơ nghiệp cho những
công cuộc từ thiện. Ngay trên địa bàn giáo phận và giáo xứ quanh ta, nhiều khi
ta chợt khám phá ra có những người hảo tâm vừa đóng góp rất nhiều vừa âm thầm
phục vụ trong những việc bé nhỏ. Con đường nên thánh thời văn minh tiêu thụ là
con đường của cánh sen giữa lầy. Nơi Nho giáo, đó là con đường của các vị
“trung ẩn tại thị” (tiểu ẩn tại lâm,
trung ẩn tại thị, đại ẩn tại triều trung: người ẩn sĩ cỡ nhỏ ẩn mình nơi rừng
sâu, người ẩn sĩ bậc trung ẩn mình giữa chợ đời, người ẩn sĩ siêu đẳng ẩn mình
ngay giữa chốn quyền cao chức trọng), nơi Phật giáo, đó là con đường của
các cư sĩ. Còn nơi cộng đồng Công giáo ngày nay, ta gặp thấy nhan nhản những hình
thức tận hiến giữa đời muôn màu muôn vẻ, những người đang dấn thân đảm nhận các
giá trị trần thế để hướng hết về Thiên Chúa, và nhắc cho nhân thế nhớ rằng mọi
sự trên cõi đời này đều là phương tiện giúp con người đạt tới mục đích cuối
cùng và duy nhất của muôn loài muôn vật là chính Thiên Chúa chí thánh và hằng
sống. Lời nhắc nhở ấy sẽ giúp ta trong mỗi tình huống phải bỏ điều gì và chọn
điều gì. Đây là con đường sống thanh thoát như Chúa dạy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23; x. Mt 7,13-14). Vác thập giá hằng
ngày là vui nhận những hy sinh cần thiết, biết tiết độ, làm chủ chính mình
trong mọi sự để được tự do thuộc về Thiên Chúa.
Trong nghi thức gia nhập Kitô giáo có
một đoạn đối thoại hết sức quyết liệt: từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin.
Chủ sự: Anh chị em thân mến, cùng với người dự tòng chúng ta
tuyên xưng đức tin của bí tích Thánh tẩy mà tất cả chúng ta đã lãnh nhận.
Chủ sự: Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị
em có từ bỏ tội lỗi không?
Mọi người: Thưa từ bỏ
Chủ sự: Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, anh chị em có từ bỏ những
quyến rũ bất chính không?
Mọi người: Thưa từ bỏ.
Chủ sự: Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, anh chị em có từ bỏ những
quyến rũ bất chính không?
Mọi người: Thưa từ bỏ.
Chủ sự: Anh chị em có từ bỏ ma quỷ là kẻ gây ra và cầm đầu
tội lỗi không?
Mọi người: Thưa từ bỏ.
Chủ sự: Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng,
Đấng tạo thành trời đất không?
Mọi người: Thưa tin.
Chủ sự: Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên
Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng,
đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha không?
Mọi người: Thưa tin.
Chủ sự: Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội
Thánh công giáo, tin các thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác sống lại
và sự sống vĩnh cửu không?
Mọi người: Thưa tin.
Chỉ sau khi các tín hữu mới đã long trọng tuyên bố từ bỏ tà thần
và tuyên xưng đức tin như thế, chủ sự đổ nước cho họ. Đáng tiếc là nhiều khi
người ta đã làm quá máy móc. Tôi hy vọng sau khi đọc bài viết này, cả những
người đã lãnh bí tích Thánh tẩy từ tấm bé và những người mới lãnh nhận khi đã
trưởng thành, chúng ta đều dành mươi phút nghiền ngẫm những câu đối thoại ấy và
tự lặp lại lời tuyên xưng của bản thân mình trước nhan Chúa cách thật ý thức.
Vâng, chỉ tin suông thôi không đủ, cần phải tin vào Thiên Chúa
như Ngài muốn ta tin:
“6Con
phải kính trọng cha; tôi tớ kính trọng chủ. Vậy nếu Ta là cha, thì đâu là lòng
kính trọng Ta? Và nếu Ta là chủ, thì đâu là niềm kính sợ Ta?” (Ml 1,6).
Dịp Tết vừa qua, có một gia tộc
quyết định hằng năm sẽ tu tảo phần mộ vào ngày 23 tháng Chạp. Cuối năm nay họ
mới cử hành lần đầu nhưng mọi người trong gia tộc đều hiểu rằng hằng năm ngày
hôm ấy sẽ là ngày hẹn chung của dòng họ. Dù chưa cử hành nhưng ngày 23 đã trở
thành ngày hội của gia tộc.
Đã 30 năm rồi, tại sao lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam vẫn chưa là một lễ hội của mọi người? Lý do thật dễ hiểu:
Chẳng ai biết lễ Các Thánh Tử Đạo năm nay sẽ nhằm ngày nào! Đã 30 năm rồi, chưa
năm nào lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng trọng thể đúng vào chính ngày lễ
của các ngài, 24-11, kể cả khi ngày ấy trùng vào Chúa nhật. Chúa nhật cuối năm
phụng vụ là để mừng lễ Chúa Kitô Vua, cho nên Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam buộc
lòng phải cử hành sớm đi một tuần, vào Chúa Nhật 33 Quanh Năm.
Đang khi đó, thông điệp của phụng vụ Lời Chúa
ngày Chúa nhật 33 Quanh Năm đặc biệt quan trọng. Mỗi năm 365 ngày có riêng một
ngày để nói về sự cùng tận của lịch sử nhân loại. Cả ba năm A, B và C Lời Chúa
của ngày này luôn tập trung vào chủ đề ngày cánh chung.
Từ 30 năm qua người Công giáo Việt Nam không
còn được nghe và suy ngẫm về điều ấy, đang khi văn minh vật chất ra rả 24/24
giờ dạy họ bám lấy hạnh phúc đời này như sẽ chẳng bao giờ phải chết. Cần nhớ
rằng những lý do đưa đến việc ban hành huấn thị Ex quo singulari năm 1742 rất
nghiêm túc, không dừng lại nơi chuyện thắp nhang hay không thắp nhang nhưng
chạm đến những sự thật về cánh chung học và cứu chuộc học.
Đã 30 năm qua, giáo dân Việt
Nam không còn được nghe giảng về cánh chung. Nếu chúng ta cứ tiếp tục đánh mất
cơ hội nói về cánh chung, sự mất mát trong đời sống tâm hồn của tín hữu thật khó
lường được!
Oái oăm làm sao, chính việc cử hành đức tin
của tiền nhân lại khiến đức tin của con cháu bị bốc hơi!
Tại sao cứ phải mừng vào Chúa
nhật? Tại sao không cương quyết mừng trọng thể vào 24-11 hằng năm ?
Thật ra, chính vì được chuyển sang Chúa nhật,
ngày trọng thể mừng các Thánh Tử vì đạo không thể nào rơi vào một ngày nhất
định để mà nhớ, do đó sẽ không bao giờ trở thành một lễ trọng mang tính quần
chúng được.
Cần lưu ý, người Việt không bao
giờ thay đổi ngày giỗ. Ai gặp trở ngại thì khỏi phải về dự, việc cử hành sẽ
không vì bất cứ lý do gì mà xê dịch, dù chỉ một nhúm người bằng nắm tay vẫn
nhất định cử hành đúng ngày. Tại các tỉnh miền Trung, bất cứ chùa Bà, chùa Ông
hay chùa Hang nào, bất cứ lăng Cô, miếu Cậu nào cũng đều có ngày lễ truyền
thống tự phát rất rình rang, nhờ một điều là họ cử hành vào một ngày cố định,
không bao giờ thay đổi. Người ta không đợi nghỉ lễ Chúa nhật mới cử hành. Đã là
một lễ truyền thống thì bất cứ nhằm ngày nào trong tuần nó vẫn giữ tầm quan
trọng không điều gì giành lấn được, dù có ai đến dự hay không, nó vẫn cứ tiến
hành, ai có lòng quan tâm đến thì phải nhớ lấy ngày ấy mà trẩy hội. Thiết tưởng
chúng ta cũng thế, sự kiện chuyển sang Chúa nhật tự nó không phải là một tôn vinh
nhưng là một sự hạ giá các Thánh Tử vì đạo. Nó cho thấy ngày lễ của các ngài
không bằng một lễ cưới, không đủ sức để khiến người dân nghỉ việc mà trẩy hội.
Nếu muốn bà con người lương cũng biết đến lễ hội các Thánh Tử vì đạo, ta cần cử
hành cố định vào 24-11. Nếu 24-11 nhằm Chúa nhật, ta sẽ cử hành vào ngày Thứ
Bảy, 23-11 (Trích lại từ quyển “50 năm thờ cúng Tổ tiên”).
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam,
xin cầu cho ngày lễ của các Đấng sớm thành một ngày hội của toàn dân.
Lm. Gioan Phêrô Võ Tá Khánh