ĐẠO TẠI TÂM (道 在 心)
“Đạo tại tâm” là câu
nói cửa miệng của nhiều người xưa nay, nó đã trở nên một thành ngữ phổ biến
trong dân gian, từ người bình dân cho đến bậc trí thức. Nó quá quen thuộc đến nỗi
người ta đã hiểu sai đi cái ý nghĩa đích thực của nó, rồi mỗi người hiểu theo ý
riêng của mình, sinh nhiều lạm dụng và tranh cãi, cho cả người ủng hộ lẫn người
phản đối.
CÁCH HIỂU ĐẠO TẠI TÂM NƠI
MỘT SỐ NGƯỜI
Người ta có nhiều cách
hiểu đạo tại tâm khác nhau, đôi khi trái ngược nhau. Có người hiểu theo đạo là
giữ trong lòng chứ không cần thiết phải phô trương bên ngoài. Người khác lại hiểu
giữ đạo cốt ở tâm hồn, còn cái bề ngoài chỉ là phụ thuộc, có cũng được, không
có cũng chẳng quan trọng. Lại có cách hiểu đạo là cái lõi, kiểu giữ đạo là vỏ, chỉ
là phụ, nên cái vỏ chỉ có giá trị tạm thời. Cũng có người hiểu đạo tại tâm là
cách ngụy biện của kẻ “vô đạo”, cho rằng giáo lý tôn giáo của họ không có chuyện
đạo tại tâm. Một cách hiểu dung hòa nhất cho rằng đạo (tại tâm) là nội dung,
còn giữ đạo là hình thức, đạo chú trọng về nội dung nên nói vậy, nhưng cần có cả
nội dung lẫn hình thức mới được hoàn hảo. Và còn nhiều cách hiểu khác nhau, tùy
theo ý niệm hoặc thành kiến để hiểu đạo và tâm theo nhãn quan của mỗi người .
Còn người đả phá việc
theo “đạo tại tâm” cũng tìm những lý lẽ, viện những câu chuyện ví dụ làm luận cứ
cho cái tiền đề khá mơ hồ theo cách hiểu của họ. Khái niệm hoặc định nghĩa về đạo
tại tâm không được đề ra một cách thỏa đáng, không dựa trên nguồn gốc có cơ sở
trên lãnh vực đạo học và văn hóa tư tưởng, nên cách giải thích và phản bác của
mỗi người khác nhau, cái lý đưa ra khiến người nghe không thỏa mãn, dù họ khó
phản biện được.
Như vậy nếu hiểu đạo,
hiểu cái tâm theo ý mỗi người thì không còn biết chân lý nằm ở chỗ nào, cũng chẳng
nhận ra bản thể của đạo, và cũng không tìm thấy cái tâm nguyên bản của nó.
Vậy Đạo và Tâm từ đâu
và nó như thế nào?
ĐẠO VÀ TÂM
Ngoài Ấn Độ theo Ấn
giáo, Do Thái giáo của Israel và một số quốc gia theo Hồi giáo, hầu hết các nước
Á châu đều thấm nhiễm triết lý, tư tưởng, giáo lý và luân lý của Khổng, Lão và
Phật. Vì vậy muốn hiểu đạo và tâm theo nghĩa “đạo tại tâm”, không gì hơn là tìm
đến Đạo học Đông phương, nơi xuất xứ ra thành ngữ này. Nơi đây, cái gốc được
căn cứ trên cơ sở của “tam giáo đồng nguyên”, tức Khổng, Lão và Phật.
- Nho Giáo:
Đức Khổng Tử nói: “Thiên
mệnh vị chi Tánh, suất tánh vị chi Đạo, tu Đạo vị chi Giáo” (Cái mệnh Trời phú
cho gọi là Tánh, theo Tánh gọi là Đạo, sửa mình cho đúng Đạo gọi là Giáo - sách Trung Dung).
Nho giáo cho rằng theo
Đạo là tuân thủ theo Thiên lý, mà Thiên lý với bản tánh con người là một, cho
nên theo Đạo là cốt để sửa cái tính con người cho hợp với Thiên lý. Nên Đạo với
con ngưòi là một.
Đức Khổng cho rằng: “Đạo
bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo” (Đạo không xa
rời bản tánh con người, nếu theo Đạo mà để xa cái bản tánh con người, thì không
phải là Đạo - sách Trung dung).
Cũng như: “Đạo tại nhĩ
nhi cầu chư viễn, sự tại dị nhi cầu chư nan” (Đao ở gần sao lại đi tìm ở xa, sự
việc dễ sao lại làm cho nó khó – Mạnh tử). Ở gần là ở trong ta (tâm), việc dễ vậy
mà lại tự gây cho nó phức tạp.
Do đó Đạo luôn gắn bó
với con người, nằm trong con người, đó chính là lương tâm, thiện tánh.
Cho nên: “Đạo bất khả tu du ly dã, khả ly phi Đạo dã”
(Đã là Đạo thì không giây phút nào xa lìa được, nếu xa lìa được thì không phải
là đạo - sách Trung dung).
Theo Nho giáo thì Tâm và
Tánh là thần minh, là linh giác của con người, cũng còn gọi là linh tâm, giác
tánh.
Nho giáo xem Tâm và
Tánh ban đầu vốn lành, nhưng sở dĩ con người có tâm tánh độc ác, là do càng
ngày càng tập nhiễm những điều xấu, mà xa dần cái tánh bổn thiện. Nên bài học vỡ
lòng của đạo Nho là: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện; Tánh tương cận, tập tương viễn
” (Tánh thuở ban đầu của con người vốn lương thiện, luôn gần gũi với điều lành,
nhưng vì tập nhiễm tánh xấu, nên xa dần điều lương thiện - Tam Tự Kinh).
Cũng như thuyết “Tri
Hành Hợp Nhất” của Vương Dương Minh (1472-1528), một nho gia nổi tiếng
đời nhà Minh, Trung Quốc, nói cái tâm là cái “trí lương tri” của con người đã
được phú bẩm, cần quay về mình (tâm) để tìm lại nó, nhờ sự soi sáng và dẫn dắt
của nó mà thi hành đạo.
Vì vậy phương châm tu
hành của Nho giáo dạy phải: “Tồn Tâm Dưỡng Tánh”, tức là giữ cái thiện tâm luôn
tồn tại, và nuôi dưỡng cái tánh vốn lành của mình, đừng cho tiêm nhiễm những điều
xấu. Nó được căn cứ trên LÒNG NHÂN (cái tâm), thể hiện qua TAM CƯƠNG và NGŨ THƯỜNG
(thực hành đạo).
- Lão Giáo:
Đức Lão Tử cho đạo là
tinh thần, là bản nguyên của trời đất, vạn vật, nên trời đất vạn vật là bản thể
của đạo, vì thế đạo lưu hành trong vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật
nào cũng có phần linh diệu của đạo bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó.
Đạo không có hình tướng, rất khó diễn tả, nên con người chỉ lấy tâm để cảm nhận
và hình dung đạo mà thôi.
Còn Tâm Tánh là Thiên
lương (Tâm nguyên thủy), có sẵn trong con người, còn gọi là Lương tâm và Thiện
tánh, cứ nhìn thẳng trở vào Tâm Tánh của chính mình thì sẽ thấy đạo.
Tâm Tánh có sẵn trong
mỗi người ban đầu, nó hồn nhiên, vô tư vô dục, lương thiện như tâm hồn của đứa
trẻ con mới sinh ra, nên Lão Tử so sánh cái Thiên lương của con người như là
tâm của đứa con đỏ, gọi là “Xích tử chi tâm”. Cái tâm phát sinh ra các tư tưởng,
làm chủ cái thân, là cái hồn của con người. Nhưng trong tâm lại có động, có tịnh.
Ý động thì khí hành, ý tịnh thì khí lặng, cho nên khí hành hay lặng đều từ cái
Ý của tâm mà ra.
Nhưng sở dĩ có sự biến
dạng thành hung ác, là do tập nhiễm vật dục làm thay đổi từ tốt trở nên xấu. Vì
vậy con người trở thành thánh nhân cũng do bởi tâm, mà sống như thú vật cũng do
cái tâm sai khiến. Nên đường hướng tu hành của Lão giáo lấy sự hư tĩnh để tu
luyện đó là: “Tu tâm luyện tánh” (sửa tâm và trau dồi tánh).
Tu tâm là sửa lòng cho
trong sạch, cốt làm cho tâm con người luôn thanh tịnh, làm chủ được bản thân
mình, không để thất tình lục dục dẫn dắt. Luyện Tánh là tập cái tánh trở thành không
không, đừng để ảnh hưởng bởi thất tình (hỉ, nộ, ái ố, ai, cụ, dục), lúc đó con
người sẽ được cái tâm sáng tỏ soi dẫn, hành động sẽ theo sự tự nhiên của cái lý
Vô Vi, có nghĩa là không làm, tức là không can thiệp vào quy luật tự nhiên, để
con người sống theo tự nhiên, để cùng với tự nhiên mà tiến hóa (vô cầu, vô
tranh, vô đoạt, vô chấp).
- Phật Giáo:
Đạo đối với Đức Phật rất
đơn giản, đó là "Không được bám víu vào bất cứ gì cả", nghĩa là để
cho cái tâm trở nên hư không. Trong quá trình tu tập, Phật tử phải quay về tìm
cái “Tâm Phật” của mình. Nhà Phật gọi Tâm và Tánh là Chân như, Chân tâm, Phật
tánh… Trong mỗi chúng sanh đều có Chân tâm và Phật tánh. Cái tâm Chân như nầy bất
sanh bất diệt, nên cũng gọi là Thường trụ Chân tâm. Vì vậy phương hướng tu hành
của Phật giáo dạy phải: “Minh Tâm Kiến Tánh”, nghĩa là làm cho sáng cái tâm thì
sẽ thấy rõ cái tánh.
Về cái tâm, Ðức Phật
khuyên dạy chúng sinh hãy lo tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn món tâm
rộng lớn không đo lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở
rộng bốn tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu sinh ở khắp bốn
phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối
sống của bậc thánh. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “tứ vô lượng tâm”, không
phân biệt tôn giáo, chủng tộc, thành phần, đẳng cấp trong xã hội thì mỗi người
sẽ trở thành một “thánh nhân” trong một
thế giới hòa bình, an lạc.
Người Phật tử lấy từ,
bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh. Tâm “Từ” là khả năng hiến
tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi
khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả”
là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.
Người phật tử thực
hành giáo lý nhà Phật gọi là hành giả, dù niệm Phật để thanh tịnh hư không – gỡ
khỏi mọi ràng buộc – dù hành giả ra đi để
cứu nhân độ thế, cũng đều là thực hành tâm linh tìm về Chân tánh để gặp đạo.
Như vậy Đạo với đời sống tâm linh cũng chỉ là một chứ không có sự tách biệt.
- Hệ kết:
Tóm lại các pháp môn
tu luyện để ngộ đạo và đắc đạo của Tam giáo tuy danh xưng và phương tiện thể hiện
có khác nhau, nhưng tựu trung cũng khuyên người thực hành đạo phải:
- “Tồn tâm dưỡng tánh”
đối với Nho giáo
- “Tu tâm luyện tánh”
đối với Lão giáo
- “Minh tâm kiến tánh” đối với Phật giáo
Đạo chẳng phải nơi lời
nói, mà nơi kết quả sự thật mình làm, chẳng phải nơi câu kệ câu kinh mà phải thể
hiện ra. Nếu chỉ nghiên cứu suông kinh điển để làm một kẻ trí đạo “năng thuyết
bất năng hành” thì cũng chẳng khác gì người ngồi đó chỉ biết diễn tả phân tích
đủ thứ món ăn tuyệt diệu trên đời, nhưng rốt cuộc bụng họ vẫn đói meo, hoặc như
con lạc đà trên lưng mang nặng trĩu gỗ trầm hương, nhưng chẳng bao giờ nó thưởng
thức được hương thơm của trầm cả. Phải biến nhận thức của mình thành hành động
cụ thể. Có như vậy mới đi đúng đường và mang lại lợi ích thực sự.
Để đi vào đạo, con người
chỉ cần biết thức tỉnh quay vào chính mình thì sẽ nhận ra “Chân tánh”, được “Tính
bản thiện”, được cái “Thiên lương”, lúc đó sẽ được nó soi tỏ và dẫn dắt, đồng
thời sẽ gặp được đạo.
Như vậy đạo với đời sống
tâm linh là một, mà hoạt động tâm linh không hề tách biệt với đời sống thực tại,
cũng như tâm linh luôn gắn liền với thể chất như bóng với hình, vì Tâm và Vật
không thể phân chia. Nói một cách khác thì hoạt động tâm linh luôn hiện hữu
trong đời sống con người, tức là đạo không lìa xa cuộc sống. Vì thế người theo
đạo không có nghĩa là phải từ bỏ các hoạt động hằng ngày, để theo đuổi một cái
gì xa vời ngoài cái thực tại. Sống theo đạo là sống một cuộc sống cho ra sống, đáng
sống với cuộc đời, sống một cách có ý thức và chủ động trong mọi sinh hoạt, chứ
không phải sống một cách máy móc thụ động.
Muốn được vậy thì con
người phải lấy tâm làm gốc, đạo làm nền, là trung tâm trong đời sống tâm linh,
mà cũng là trung tâm của tất cả hoạt động của đạo được thể hiện ra bên ngoài.
Nên Đạo Nho mới nói: “Đạo bất khả tu du ly dã” (đạo không giây phút nào xa lìa
được), và “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn” (đạo ở gần đừng tìm nơi xa).
“Tam giáo đồng nguyên”
chính là vậy.
CÔNG GIÁO VỚI ĐẠO TẠI
TÂM
Căn cứ trên Kinh Thánh
và Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG), “Thuở ban đầu con người đơn sơ trong
trắng như trẻ thơ vô tội, chưa bị rối loạn vì tội lỗi. Con người sống an bình
hoà hợp với Thiên Chúa, với mọi người, và với bản thân mình” (St 2).
Cũng như: “Con người đầu
tiên không những được tạo dựng là tốt lành, mà còn được sống trong tình thân
nghĩa với Đấng Tạo Hóa của mình, trong sự hài hòa với chính mình và với vạn vật
xung quanh. Tình thân nghĩa và sự hài hòa này chỉ thua kém vinh quang của công
trình tạo dựng mới trong Đức Kitô” (GLHTCG số 374).
Và: “Hội Thánh, khi giải
thích một cách chính thống ngôn ngữ biểu tượng của Thánh Kinh dưới ánh sáng của
Tân Ước và Truyền Thống, dạy rằng: nguyên tổ chúng ta, ông Ađam và bà Evà, đã
được tạo dựng trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy. Ân sủng của
sự thánh thiện nguyên thủy đó là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa”
(GLHTCG số 375).
Đặc biệt hơn, Sách
Sáng Thế 1, 26 - 27 nói: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa. Trong các loài Chúa đã dựng nên, chỉ có con người được Thiên Chúa ban cho
linh hồn thiêng liêng, bất tử. Nhờ đó, con người có
khả năng hiểu biết, chọn lựa điều hay lẽ phải và quyết tâm loại trừ điều xấu để
hướng đến hạnh phúc đích thực và trọn vẹn”. Vì linh hồn thiêng liêng, có trí tuệ,
ý chí và tự do, nên con người có khả năng hướng về sự thiện đích thực và hạnh
phúc muôn đời.
Cái tâm của con người
được hiểu là toàn thể cõi lòng, đó là lương tâm ngay lành, là ý chí (ý muốn),
là sự tự do, trong đó có cả sự nhận thức thông qua trí tuệ của con người - vì
không thể tách trí tuệ ra khỏi cái tâm được - đã được Thiên Chúa phú bẩm trong
linh hồn. Đó là hình ảnh của Thiên Chúa, dù một thai nhi hay trẻ sơ sinh cũng hội
đủ tố chất của cái tâm này.
Kinh Thánh và GLHTCG
nêu trên cho biết, cái tâm nguyên thủy của con người hoàn toàn tốt lành, thiện
hảo chứ không yếu đuối, mê muội, nhiều dục vọng xấu xa… Nó được hòa nhập vào
thân xác không thể phân chia, trở thành một bản tính, như GLHTCG số 365 nói: “Sự
thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được coi là “mô thể” của thân
xác; nghĩa là, nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được cấu tạo bằng vật
chất, là một thân xác nhân linh (corpus humanum) và sống động; tinh thần và vật
chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết hợp
của chúng tạo thành một bản tính duy nhất”.
Tình trạng ban đầu của
vạn vật là tốt lành, không có đau khổ và sự dữ. Chính tội lỗi của con người
đã làm hỏng sự tốt lành nguyên thuỷ và làm con người mất hạnh phúc. Tuy nhiên
tình trạng đau khổ của con người không đến nỗi tuyệt vọng như người ta đáng phải
chịu, bởi vì Thiên Chúa nhân từ sẽ tìm cách cứu vớt. (St 1)
Công giáo là đạo được
Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người mạc khải, gọi là Đạo Từ Trời. Thiên Chúa
Là Tình yêu (Ga 4, 16), Người đã hoàn tất trong lề luật “Mến Chúa yêu Người”,
nên cũng được gọi là Đạo Yêu Thương, Bác Ái. Vì vậy Đức Ái là trung tâm điểm của
đạo, xuất phát từ cái tâm yêu thương, thể hiện qua hành vi bác ái. “Nếu tôi nói được các tiếng của loài người
và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc
não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi
khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không
có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ
nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì
không làm ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3).
Cũng như, “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21), ngoài ý nghĩa cho mọi người, còn nói lên ở trong lòng,
trong tâm mỗi người nữa, nơi đó tình yêu ngự trị trong tâm hồn mỗi người. Nước Thiên Chúa chính
là mọi người yêu thương và sống bác ái với nhau, trong Đức Kitô.
Bác ái được căn cứ và
xuất phát từ cái tâm, nên câu nói “Đạo tại tâm” xuất phát từ Đạo học Đông Phương
không những không mâu thuẫn hay trái với đạo Công giáo, mà nó còn am hợp một
cách diệu kỳ, khá thú vị.
KẾT LUẬN
Có thể nói suốt trong
dòng thời gian xưa nay, vấn đề “đạo tại tâm” luôn được nhiều người nhắc tới như
một sự “cảnh tỉnh” về đạo, với nỗi suy tư khác nhau, tùy theo góc độ nhìn nhận
và hiểu biết nơi mỗi người, nhiều khi vô tình đi đến sự lệch lạc mà không biết.
Chính vì vậy mới có tình trạng tự mâu thuẫn trong lý do của những người ủng hộ
“đạo tại tâm”, cũng như nơi những người đả phá nó. Nếu sự nhận thức về đạo mà
thiếu thành tâm thiện chí thì dễ dẫn đến cực đoan, đưa đến những ngõ ngách,
sinh ra sự cố chấp vô lối, như “bốn người mù đi xem voi” vậy.
Như đã trình bày, đạo
và tâm gắn liền với nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt.
Nhưng cái Tâm (心)
mới là nơi ở (tại - 在 )
của cái Đạo (道). Mà đạo là sống, là hành, là thi thố ra bên ngoài, gọi là hành đạo
(hành giả).
Còn theo sự nhận thức
bình dị nhất, đạo là vấn đề đạo đức, còn tâm là lòng dạ, nó được thể hiện trong
cuộc sống. Nó cũng đúng, vẫn thuận hợp và có ý nghĩa với cụm từ “đạo tại tâm”,
vì phải có lòng mới làm việc đạo đức được.
Con người theo đạo dễ
lâm vào một số trường hợp, như giữ đạo theo kiểu giả hình, kiêu kỳ, vụ lợi,
hình thức, lập dị, đồng bóng… Vì vậy dễ bị người khác chống đối, mà cách lên án
thông thường nhất là nại vào câu nói “đạo tại tâm” để phản kháng. Cũng có những
người lợi dụng câu này để che lấp, bào chữa cho những cái vô tâm và bê bối
trong việc sống và giữ đạo.
Thực ra ít có người xuyên
tạc hay hiểu lầm câu “đạo tại tâm” một cách thành tâm, thành thật với bản thân.
Vì một khi có sự thành tâm thành ý tìm đạo thì tự nhiên trong tâm của con người
sẽ thấy cái đạo ló dạng, và họ sẽ không ngần ngại thi hành đạo đã chiếu soi
trong tâm của họ.
Như vậy, ĐẠO TẠI TÂM (道 在 心) đã được trình bày khái quát trên cơ sở từ nguồn gốc của nó (tam
giáo), cũng như xem xét qua mạc khải trong Thánh Kinh của Kytô giáo. Vấn đề đã
tạm ổn trong sự nhận thức và hiểu biết hạn hẹp về Đạo và Tâm. Đây là vấn đề mà
con người khó thấu triệt, dành cho các vị đã đắc đạo và những thánh nhân mới có
thể quán thông được nó. Tuy vậy ai cũng có thể dùng cái tâm của mình để gặp được
đạo, tùy theo cơ duyên tu dưỡng nơi mỗi người để được nhiều hay ít. Như trong
Công giáo là tùy thuộc vào ân ban của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, với điều kiện
là phải thành tâm với chính mình để tìm đạo, sẽ gặp được hình ảnh củaThiên Chúa
trong chính mình và nơi tha nhân.
Hàn
Cư Sĩ
Sách tham khảo:
Tứ Thư trọn bộ (Dịch
giả: Đoàn Trung Còn), Đạo Đức Kinh (Dịch giả:Nguyễn Hiến Lê), Phật Học Tinh Hoa
(Nguyễn Duy Cần). Và một số bài viết nguồn internet.