Lý Thuyết Về Giống (Gender
Theory) - Một Học Thuyết Kỳ Lạ Về Giới Tính
(catechesis.net)
Lm. Nguyễn Hồng Giáo, OFM.
LTS: Ngày
9 tháng 5 năm 2012, Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố:
“Trong tư cách cá nhân, tôi cho rằng phải tiến lên phía trước và khẳng định rằng
các cặp đồng tính có thể kết hôn”. Dù tuyên bố với tư cách cá nhân nhưng vì ông
là tổng thống Hoa Kỳ, chắc chắn tuyên bố này có tầm ảnh hưởng rất lớn, không những
tại Hoa Kỳ mà còn tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Ngay lập tức, Đức hồng y Timothy
Dolan, Tổng giám mục New York và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa kỳ, đã đưa ra bản
nhận định, trong đó ngài nhấn mạnh giá trị nền tảng của hôn nhân và sự cần thiết
phải bảo vệ định chế hôn nhân theo truyền thống, tức là sự kết hợp giữa người
nam và người nữ. Ngài nói: “Những phát biểu của tổng thống Obama ủng hộ việc
tái định nghĩa về hôn nhân quả là điều hết sức đáng buồn”.
Nhắc lại lá thư ngài gửi cho tổng thống
Obama ngày 20 tháng 9 năm 2011, Đức hồng y Dolan khẳng định: “Các giám mục công
giáo sẵn sàng ủng hộ mọi biện pháp tích cực của tổng thống và chính phủ nhằm củng
cố hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên chúng tôi không thể im lặng khi đối diện những
lời nói và hành động làm xói mòn định chế hôn nhân, vốn là tảng đá góc của xã hội
chúng ta. Người dân trong đất nước này, đặc biệt là trẻ nhỏ, cần được phục vụ tốt
hơn”. Đức hồng y nói thêm: “Phát biểu của tổng thống Obama không gây ngạc nhiên
vì những phát biểu đó chỉ tiếp nối những hành động của chính phủ đã làm, nhằm
phủ nhận và tẩy xóa ý nghĩa độc đáo của hôn nhân”.
Trong phần kết thúc lá thư, Đức hồng
y Dolan viết: “Tôi cầu nguyện cho tổng thống hằng ngày và sẽ tiếp tục cầu nguyện,
để ông và chính phủ hành xử cách đúng đắn nhằm nâng cao và bảo vệ hôn nhân hiểu
như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Ước gì tất cả chúng ta nỗ lực
thăng tiến và bảo vệ định chế hôn nhân, làm như thế là chúng ta đang phục vụ
thiện ích đích thực của tất cả mọi người”.
Cha Nguyễn Hồng Giáo, OFM., cung cấp
một cái nhìn sâu sắc về vấn đề này. Mời quý vị đọc bài Lý thuyết về Giống (Gender Theory), một học thuyết kỳ lạ về giới
tính.
***
Đây là một thuyết
kỳ lạ về giới tính. Nó xuất hiện tại Hoa Kỳ trong thập niên 70 thế kỷ trước, dưới
ảnh hưởng của những nhà tư tưởng Pháp như Michel Foucault và Jacques Derrida,
và đã được sử dụng như công cụ ý thức hệ cho một phong trào đấu tranh quá khích
cho nữ quyền.
Thuyết này chủ trương gì?
Thuyết này phủ
nhận sự khác biệt giới tính “tự nhiên” giữa nam và nữ. Khi sinh ra, trừ trường
hợp “khác thường”, mỗi người là trai hay gái, nam hay nữ; sự phân biệt đó, dĩ
nhiên là căn cứ trên cơ sở sinh học; cha mẹ cũng dựa vào đó để làm khai sinh
cho con mình. Nhưng nay người ta phủ nhận sự khác biệt sinh học đó và cho rằng
sự khác biệt nam nữ chỉ là kết quả của văn hoá, nó là một cấu trúc xã hội; nam
giới và nữ giới chẳng qua chỉ là những vai trò (rôles) xã hội-văn hoá khác nhau mà xã hội tuỳ tiện đề ra (rồi được đưa
vào trong ngôn ngữ), và do đó có thể phá đổ. Thiên nhiên (hay tự nhiên) chẳng
liên quan gì tới đây cả. Do đó, người ta cũng bảo rằng không hề có xu hướng tự
nhiên đẩy người nam và người nữ đến với nhau. Xu hướng này cũng chỉ lệ thuộc
vào những điều kiện xã hội.
Hẳn là những
người chủ trương thuyết mới lạ này cũng phải nhìn nhận có một giới tính sinh học;
chẳng hạn về mặt di truyền học, người nam người nữ có những nhiễm sắc thể giới
tính khác nhau (XX và XY). Nhưng theo họ, sự khác biệt này không có vai trò nào
trong việc hình thành “căn tính giới tính” (identité
sexuelle) của mỗi người. Làm người nam hay làm người
nữ tuỳ thuộc vào một chọn lựa chủ quan của từng cá nhân. Mình nhìn căn tính giới
tính của mình thế nào, mình nhìn xu hướng giới tính hay tính dục (orientation
sexuelle) của mình như thế nào –ví dụ đồng tính,
khác tính hay lưỡng tính– thì là thế ấy. Không có quy chiếu khách quan nào làm
chuẩn cả.
Tại sao có một thuyết kỳ lạ như thế?
Người ta đưa ra
học thuyết này trước tiên để phục vụ phong trào đấu tranh cho nữ quyền. Nó nhằm
chống lại sự bất bình đẳng nam nữ. Nhân danh việc cấm phân biệt đối xử giữa nam
và nữ giới, người ta phủ nhận luôn nền tảng sinh học của giới tính. Trong lịch
sử, sự bất bình đẳng nam nữ phát sinh chủ yếu từ văn hoá, điều đó là hiển
nhiên. Nhưng chắc chắn ở đây văn hoá cũng đã dựa trên sự khác biệt sinh học giữa
nam và nữ, như sức mạnh thể lý, cơ bắp, nước da, giọng nói, cấu trúc cơ thể,
v.v… Và nếu thế thì, theo họ, cơ sở cho bất bình đẳng và kỳ thị sẽ vẫn luôn
luôn tồn tại. Chắc hẳn vì thế mà lý thuyết mới về “giới” (hay giống) chối bỏ
luôn cả những sự khác biệt vốn được coi là “tự nhiên” đó.
Lúc đầu người
ta còn phân biệt “phái tính” hay “giới tính” (sex trong tiếng Anh, sexe trong tiếng Pháp) với “giống” (gender/genre): nghĩa là phái tính (nam hay nữ) chỉ một sự khác biệt căn cứ trên thể lý/sinh học,
còn giống (đực hay cái) chỉ là một quy ước của ngôn ngữ (như trong tiếng
Pháp, danh từ la maison=cái nhà là giống cái, còn danh từ le
tableau=cái bảng là giống
đực). Rồi về sau, khi nói về con người, người ta đã tiến tới chỗ chỉ còn sử dụng
danh từ “giống” (gender/genre) và loại bỏ mọi quy chiếu về phạm trù giới tính/phái
tính (liên quan đến sex như đã xác định trên). Đó là chủ trương
của học thuyết về “giới” hiện nay vì, như đã nói, nó coi những khác biệt giữa
nam và nữ chỉ là do văn hoá và xã hội tạo ra mà thôi.
Lý thuyết này
nhìn mối liên hệ giữa nam và nữ luôn luôn như một liên hệ đối kháng; nó cho rằng
người đàn ông đã luôn thống trị người đàn bà; nó phủ nhận tính liên đới, tính bổ
sung cho nhau giữa hai phái mà ngay những đặc điểm thể lý đã cho thấy rồi. Do ảnh
hưởng của nó, có nơi nhà cầm quyền đã loại ra khỏi bộ Luật dân sự những cách gọi
truyền thống: cha, mẹ và thay vào đó cách gọi kỳ quái là “người
cung cấp những năng lực di truyền học”(pourvoyeur
de forces génétiques).
Làm sao một chuyện lạ đời như thế có thể xảy ra trong một thế giới Tây phương
đã đạt tới những tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa từng có? Phải chăng người ta chỉ
“duy lý” khi cần phải duy lý và “bất nhất” khi thấy cần phải bất nhất?
Những hậu quả tai hại
Vài nhận xét sơ
khởi trên đây cũng đã có thể cho thấy học thuyết này không mang tính khoa học
mà chỉ là một ý thức hệ, nghĩa là một lý thuyết không căn cứ trên nền tảng
khách quan vững chắc và phổ quát nào, mà chủ yếu gắn liền vào những chọn lựa,
những chủ trương nào đó nhằm phục vụ những lợi ích mang tính “phe nhóm”. Căn cứ
vào những chọn lựa ấy, nó phủ nhận những điều khách quan hiển nhiên. Bởi thế nó
là một ý thức hệ hết sức tai hại đối với xã hội và con người. Chối bỏ căn tính
nam hay nữ như một thực tại nội tại của mỗi con người, là chối bỏ một nền tảng
quan trọng từ đó mỗi người xây dựng căn tính và nhân cách riêng của mình. Sự chối
bỏ đó còn là một cuộc tấn công vào định chế hôn nhân, gia đình, tấn công vào
thiên chức làm cha, làm mẹ và sự truyền sinh. Khi một xã hội phủ nhận sự khác
biệt giới tính trong luật lệ của mình, nó mặc nhiên đặt ngang hàng hôn nhân giữa
một người nam và một người nữ (vốn là nền tảng khách quan của xã hội) với cuộc
sống chung giữa hai người đồng tính/giới, đồng thời nó “biệt đãi” các xu hướng
giới tính hay tính dục (xu hướng đồng tính, khác tính, lưỡng tính) được coi là
có giá trị như nhau. Nhưng làm sao có thể đặt các xu
hướng giới tính trên hay dù chỉ là ngang hàng
với căn tính giới tính (tự nhiên) được, bởi lẽ chỉ có
sự phối hợp nam nữ mới sinh ra con cái, tức những thành viên của xã hội, những
công dân của một nước? Nếu bất chấp sự thật hiển nhiên này, thì rõ ràng là cố ý
tìm lợi ích của những phe nhóm nhất định, hay thậm chí tìm thoả mãn nhưng nhu cầu
riêng của những nhóm người nào đó, với bất cứ giá nào. Quả thực, đây là một nét
khá nổi bật, dù không hợp lý, của nền văn hoá Tây phương hiện đại.
Kitô giáo nói gì?
Giáo lý Công
giáo về con người là hết sức rõ ràng và nhất quán. Xin tóm tắt mấy điểm then chốt.
Ngay những
trang đầu, Kinh Thánh Cựu Ước đã cho thấy phẩm giá vô song của con người vì con
người được “Thiên Chúa sáng tạo nên theo hình ảnh của Người”, có khả năng nhận
biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Người đặt làm chủ mọi tạo vật trên
trái đất (x. St 1,26-28 và Hiến chế Vui
Mừng Và Hy Vọng (VMVHV)của Công Đồng Vaticanô II, số 12, #3). Rồi liền ngay sau khi dạy
rằng Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình, bài Kinh Thánh viết:
“Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Đã nói “con người” thì phải có
nam có nữ. Người nam và người nữ –Ađam và Eva– có cùng một bản tính, một phẩm
giá như nhau, và họ liên kết với nhau “thành một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa
người với người”. Sự liên kết này phát sinh từ chính “bản tính thâm sâu của họ”
bởi vì “con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những
người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng mình” (Hiến chếVMVHV, số
đã dẫn). Trình thuật về
việc sáng tạo con người chưa dừng lại trước khi nói về sự kết hợp nam nữ thành
vợ chồng. Theo kiểu nói hình tượng quen thuộc, sách Sáng Thế kể: Khi đối diện với
người đàn bà được Thiên Chúa tạo dựng từ xương sườn của mình, “con người”
(Ađam) nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”. Và Sách
Thánh bình luận: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai thành một xương một thịt” (St 2,23-24). Như vậy, hôn nhân và gia đình cũng phát xuất từ ý muốn
của Thiên Chúa, do đó là những định chế thánh thiện (x. Mt 19,1-8. Có thể đọc thêm Hiến chếVMVHV,
các số 48-50).
Vài nhận định kết thúc
Thuyết về Giới
đã công khai bước lên sân khấu thế giới tại Hội nghị quốc tế về Phụ nữ tại Bắc
Kinh năm 1995; ngày nay nó được những văn phòng Liên Hiệp Quốc và Quốc Hội châu
Âu ủng hộ; nó cũng được vài nước châu Âu đưa vào chương trình giáo dục. Có phải
đó là bằng chứng rằng đó là một thuyết nghiêm túc không?
Thông thường có
thể kết luận được như vậy, nhưng ở đây không phải như thế. Có biết bao ý thức hệ
được nhóm này nhóm kia, tổ chức này tổ chức nọ, thậm chí nước này nuớc khác coi
là “chân lý” mà chỉ là chân lý đối với họ mà thôi. Làm sao có thể coi là đúng
khi, chẳng hạn, người ta coi cuộc sống chung của hai người khác phái vốn chỉ
“phục vụ” lợi ích hẹp hòi của hai cá nhân trong cuộc, cũng ngang với một cuộc
hôn phối đích thực? Lương tri cho thấy ngay việc “đánh đồng” đó là sai, là hạ
thấp và đe doạ định chế hôn nhân và gia đình nền tảng của xã hội. Hoặc, làm sao
có thể coi là đúng khi người ta phủ nhận một điều hiển nhiên là mỗi người có một
căn tính giới tính (tôi không nói căn tính người) được quy định bởi những yếu tố sinh học,
chứ không phải chỉ do văn hoá và xã hội? Có gì là kỳ thị khi nói rằng người này
người kia sinh ra là nam hay nữ? Sách giáo khoa môn sinh vật học của Pháp (nhà
xuất bản Bordas năm 2011), để phổ biến thuyết về giới, vẫn khẳng định: Chỉ một
mình bối cảnh văn hoá-xã hội đã đủ để giải thích tại sao mô hình tính dục khác
giới (hétérosexuel) lấn át các mô hình khác (chứ không phải do cấu trúc sinh học của
người nam và người nữ)! Thế thì xin hỏi, tác giả có biết trong lịch sử loài người
có thời nào mô hình tính dục đồng giới hay lưỡng giới đã phổ biến ngang bằng
hay lấn át mô hình khác giới như một chuyện “bình thường” không? Nếu không chứng
minh được thì khẳng định của họ chỉ là võ đoán, tuỳ tiện mà thôi –một khẳng định
mang tính ý thức hệ rõ rệt, không phải là khoa học. Mọi động vật xưa nay sinh
ra đều có đực có cái, có trống có mái tuy cũng thuộc một loài như nhau, và chỉ
có sự phối hợp hai cá thể khác giới tính mới sinh sản được những cá thể mới và
duy trì được nòi giống. Đó là luật tự nhiên. Thiên chức cao quý làm mẹ được
thiên nhiên chuẩn bị cho người phụ nữ đầy đủ về mặt sinh học, và thiên nhiên
cũng làm như thế cho thiên chức làm cha của người nam. Qua lý thuyết về giới
này, tôi hiểu thêm tại sao Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thường nói tính
độc đoán của chủ nghĩa tuơng đối hiện đại. Có điều
mâu thuẫn là một đàng người ta quả quyết không có chân lý nào khách quan phổ
quát cho mọi người (tương đối!), đàng khác là cho rằng chỉ có mình là đúng và
tìm cách áp đặt ý kiến của mình cho kẻ khác, –nhất là khi mình nắm quyền hành
trong tay!
Thuyết mới về
giới cũng là một minh hoạ tiêu biểu cho nền văn minh Tây phương hiện đại: Con
nguời muốn tự định đoạt lấy cuộc sống mình, tự quyết cái gì là đúng cái gì là
sai (chân), cái gì tốt cái gì xấu (thiện),
khỏi cần những quy chiếu khách quan như Thượng Đế hay Thiên Nhiên, luật Thiên
Chúa hay luật tự nhiên. Người không tin Chúa thì phủ nhận luật của Ngài cũng
không sao, bởi vì họ còn có luật tự nhiên. Căn cứ vào đó, con người có lý trí vẫn
có thể hành động đúng và tốt, và hoàn thiện chính mình được. Luật Chúa kiện
toàn chứ không mẫu thuẫn hay hủy bỏ luật tự nhiên. Điều bi đát là con người hiện
đại nhiều khi phủ nhận ngay cả luật thiên nhiên – thuyết về giới là một ví dụ –
bởi họ sợ rằng vâng theo thiên nhiên, mình sẽ không còn là “chúa tể” của mình nữa,
hoặc họ ngờ ngợ rằng nghe theo thiên nhiên thật ra là nghe theo Tạo Hoá. Nhưng
chính vì thế mà thế giới ngày nay như bị “xào xáo”, mất phương hướng, rơi vào
khủng hoảng về ý nghĩa, về giá trị và về đạo đức. Ngày nay những ý niệm như
nhân phẩm, nhân quyền cũng không còn được đặt trên cơ sở “khách quan” nào vững
chắc nữa. Tuy có người vẫn nói tới quyền tự nhiên, nhưng kỳ thực người ta chỉ
chấp nhận với nhau những quy tắc thực tế cho cuộc sống và hành động chung với
nhau mà thôi, chứ không nhìn nhận quyền nào thực sự là tự nhiên hay bất khả xâm
phạm. Không ít nhóm người không muốn chấp nhận những quyền mà Tuyên Ngôn năm
1948 của Liên Hiệp Quốc công bố là quyền cơ bản của con người. Ngày nay (và
thuyết về giới lại là một ví dụ), nhân danh nguyên tắc bất kỳ thị, người ta có
khuynh hướng coi lợi ích hay nhu cầu của bất cứ nhóm nào đều là “quyền” cả.
Nhưng khi cái gì cũng là quyền cả thì chẳng có gì là quyền nữa; khái niệm quyền
trở nên trống rỗng, mất giá!
Từ nơi thâm sâu
của những loại thuyết như thế này, phải chăng có một ý muốn chống lại Thiên
Chúa và chống lại Kitô giáo?
----------------------------------------------------
Tham khảo:
– Mgr Tony
Anatrella, Théorie du Genre dans
Caritas in Veritate.
ZENIT.org, 8 juillet 2009 (interview).
– Idem, Théorie
du Genre préoccupe les pères synodaux, ZENIT.org, 12 octobre 2009 (interview).
– Explications
de la Fondation Lejeune, “La Théorie du gender au lycée: Un enseignement
idéologique”,
ZENIT.org, 29 aout 2011.