ĐỂ HƯỞNG ĐƯỢC LÒNG
CHÚA THƯƠNG XÓT
Có lẽ vì có lòng sốt sắng quá mà sứ điệp “Lòng Chúa Thương Xót”
của Thánh Nữ Faustina Kowalska (1905- 1938) lại trở thành phong trào,
nó làm người ta liên tưởng đến những phong trào trong chính trị, văn hóa, xã hội… Vì theo
Xã hội học, tất cả mọi phong trào, nó sẽ
tiến tới một cao trào (đỉnh điểm) rồi đi xuống và chấm dứt, triệt tiêu hoặc mai
một đi, dù là phong trào của triết học, văn học hay những vấn đề của tôn giáo. Theo
thánh Tôma Aquinô, “Lòng Chúa Thương Xót là thuộc tính cao cả nhất của Thiên Chúa”,
nó bất biến, có giá trị muôn thủa, là trái tim của Hội Thánh Đức Kitô. Vì vậy
nó đâu có thể theo cảm tính để trở thành phong trào được, nếu chạy theo phong
trào thì nhất định nó chỉ mang tính nhất thời.
Phải chăng con người giữ đạo chỉ căn cứ trên cảm tính nay còn
mai mất, như sách thiêng liêng và tu đức nói: con người giữ đạo dễ bị rơi vào
những trường hợp hình thức, giả hình, vụ lợi, lập dị, kiêu kỳ, đồng bóng…
Thiên Chúa là tình yêu, là nguồn mạch sự thiện, nên Lòng Chúa
Thương Xót thì vô giới hạn, vượt trên mọi tội lỗi. Đối với tội nhân chỉ cần có
lòng sám hối là nhận được sự thứ tha của Thiên Chúa. Nhưng để hưởng được những ân sủng của Lòng
Chúa Thương Xót theo như Sứ điệp mà Chúa Mạc khải cho thánh Faustina thì cần có
những điều kiện là: Nhận Ra Lòng Chúa Thương Xót, Cầu Khẩn Lòng Chúa Thương
Xót, Thực Thi Lòng Chúa Thương Xót và Tín Thác Vào Lòng Chúa Thương Xót. Đây là
quy luật và là trật tự của siêu nhiên, nguyên lý của các ân sủng chứ không ngoại
lệ, mặc dù cách trình bày thì khác nhau.
1. NHẬN RA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Nhận ra lòng thương xót của Chúa là khởi đầu từ chính con người,
bằng cách phải biết đối diện với Thiên Chúa bằng sự thành thật với chính mình,
như thế mới nhận ra con người thật của mình, chỉ là yếu đuối, tội lỗi. Khi đối
diện với Thiên Chúa hoặc tiếp xúc với Người, ta sẽ trở nên khiêm nhường chứ
không như con người với nhau, chỉ biết so sánh, để rồi ghen tị, mặc cảm hoặc tự
kiêu.
Trước mặt Thiên Chúa, mọi người chỉ
là tội nhân, điều mà khởi đầu Thánh Lễ trong Kinh Cáo Mình, từ chủ tế, dù là Đức
Giáo hoàng, đến mọi người đều phải đấm ngực sám hối, xin Thiên Chúa thứ tha tội
lỗi: “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Điều này xem ra thật phi
lý trước lý trí và thực tế như con người sống và hiểu. Lý trí cho rằng, mọi lỗi
lầm, thậm chí cả tội ác đều có những nguyên nhân xa và gần đưa đến, trong đó mỗi
người liên quan phải gánh lấy cái phần của mình, chứ khó mà chấp nhận “lỗi tại
tôi mọi đàng” như trong kinh cáo mình. Có lẽ con người dễ chấp nhận câu “lỗi tại
tôi một phần” hơn, xem ra hợp lý hơn. Để nuốt trôi được điều này có lẽ không phải
dễ dàng, nó đòi hỏi con người phải có sự khiêm nhường thẳm sâu để nhận ra chính
mình (chứ không ai khác) là căn
nguyên của mọi tội lỗi và mọi chia rẽ xung đột.
Cảm nhận được lòng thương xót Chúa phải
khởi đi từ kinh nghiệm tội lỗi nơi bản thân, mới thấy được
sự trao ban nhưng không tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời nhận ra sự yếu đuối nơi bản thân để khám phá ra lòng thương
xót của Thiên Chúa qua sự tha thứ vô giới hạn của Người.
Thực tế cho thấy, dường như con người
quá giả dối khi đấm ngực sám hối, khó có thật tâm để đối diện với Thiên Chúa và
trước cộng đoàn mà nhận rằng “lỗi tại tôi mọi đàng”. Một khi điều chưa thành tâm
thiện chí này diễn ra, chỉ là sáo ngữ, liệu con người có nhận ra và hưởng được
lòng Chúa Xót Thương hay không? Điều tiên quyết mà sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót đòi hỏi.
2. CẦU KHẨN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Cầu khẩn lòng Chúa Thương Xót là điều
chẳng ai xa lạ hay thắc mắc gì, nó quá quen đến nỗi trở thành sự vị kỷ như một vụ
lợi chính đáng trong việc cầu khẩn, nếu nó bị tách ra khỏi lòng tin yêu và cậy
trông vào Đấng Toàn Năng và Giàu Lòng Thương Xót.
Trong mọi kinh nguyện, nhất là những
kinh trong phụng vụ Thánh Lễ - Thánh Thể - tất cả đều trực tiếp hoặc gián tiếp thờ
lạy, ca ngơị, tôn vinh, cảm tạ và xin ơn nơi Thiên Chúa, là Đấng Toàn Thiện,
Toàn Ái, Toàn Mỹ nhờ Đức Kytô, trong Chúa Thánh Thần để xin Người rủ lòng
thương (Lòng Chúa Thương Xót) mà ban ơn cho con người.
Và lúc đó, Thiên Chúa sẽ tỏ lộ sự toàn
năng của Ngài qua lòng thương xót, như thánh Tôma Aquinô nói: “Thực thi lòng
thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt để Ngài
bày tỏ sự toàn năng của Ngài”.
Qua quá trình, rất nhiều kinh nguyện
nền tảng, rất kinh điển, thật hay và ý nghĩa, nhưng Chúa Giêsu đã truyền cho
thánh Faustina một câu kinh thật cô đọng, khơi nguồn, đi sâu và đụng chạm tới Bản
Tính ưu việt của Thiên Chúa, nại vào giá máu của Đức Kytô đã cứu chuộc nhân loại,
xin Người ban ơn tha thứ và rủ lòng thương cứu vớt con người tội lỗi. Chắc hẳn
Thiên Chúa không thể từ chối khi nghe con cái Người cầu khẩn: “Lạy Cha Hằng Hữu, con
xin dâng lên Cha: Mình và Máu, Linh Hồn và Thần Tính của Con rất yêu dấu Cha,
là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”;
Và: “Vì
cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót chúng con và
toàn thế giới”… Còn kinh nguyện nào của con người hay hơn được kinh này.
Con người theo đạo, giữ đạo vẫn cảm thấy mình thiếu thốn hoặc lo
sợ đủ điều, bởi vậy có nhiều lúc họ cầu khẩn Thiên Chúa ban ơn này ơn nọ, nhưng
thường chỉ là chuyện “xin xỏ”, chứ ít khi xuất phát bởi lòng Tin – Yêu và Cậy
Trông, nên nó giống như chuyện nằm mơ rồi đi đánh số và nuôi hy vọng có kết quả
như ý muốn. Cầu khẩn lòng Chúa Thương
Xót không thể như thế, vì Ngài không phải là công cụ theo ý của con người mà là
vị Cha Toàn Năng, Toàn Thiện, Toàn Ái,
luôn biết chăm sóc con cái của Người như thế nào là tốt nhất, nên “Trước
hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33).
3. THỰC THI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Là thi hành Đức Ái được khơi dậy bởi lòng trắc ẩn với người đau
khổ, người tội lỗi, người nghèo nàn về tinh thần hoặc vật chất. Thực Thi Lòng
Chúa Thương Xót cũng là luật công bình, bởi vì ai cũng là tội nhân, vì thế ai
cũng cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Được thương xót rồi thì phải biết thương xót
người khác, chứ đừng như con nợ không biết xót thương (Mt. 18. 23-35). Một khi
con người nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thì dễ dàng có lòng trắc ẩn để
xót thương người khác, và dễ dàng đáp lại mời gọi của Đức Giêsu: "Hãy thương xót như Cha các con là Đấng
đầy lòng thương xót" (Lc 6,36)
Nhưng không thể dừng lại ở lòng trắc ẩn mà đủ,
vì nếu con người chỉ “cảm thông” với nỗi khổ của người khác và “chia sẻ nỗi đau
khổ của họ” mà không tìm cách thức hiệu quả để giúp đỡ họ, thì nhân đức Thương
Xót không tồn tại, vì nguyên lòng trắc ẩn thì chưa phải có Đức Ái thực sự. Do Đức
Ái là nhân đức siêu nhiên được kết hiệp với Thiên Chúa, chứ không căn cứ bởi cảm
xúc thuần túy, nên nhiều khi không thấy cảm xúc xuất hiện mà lại là Đức Ái cao
cả. Bởi vậy Thực Thi Lòng Chúa Thương Xót là điều hệ trọng và buộc phải có
trong Đức Ái, vì “Phúc thay ai xót thương
người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt. 5, 7).
Có khi chạy theo “phong trào” Lòng Chúa Thương Xót hoặc gia nhập
Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót mà chưa biết hoặc chưa Thực Thi Lòng Chúa Thương
Xót mới chỉ là giữ cái vỏ mà cái ruột thì rỗng không. Hoặc đôi khi làm việc bác
ái lại mang tâm trạng của kẻ ban ơn hoặc vị kỷ, như Lm. Anthony De Mello nói: “Bác ái thường chỉ là ngụy trang: Loại thứ nhất
là ta dành cho mình cái khoái lạc của việc làm thỏa mãn chính mình, gọi là quy
ngã. Loại thứ hai là ta dành cho mình cái khoái lạc được làm thỏa mãn người
khác, loại này tinh tế hơn. Đây chưa phải bác ái mà là vị kỷ sáng suốt. Loại thứ
ba là làm điều tốt để tránh cảm giác khó chịu, hành động để khỏi bứt rứt. Đó là
loại bác ái tệ hại nhất. Không có sự bác ái nào tuyệt vời hơn khi người ta
không hề hay biết rằng mình đang thi hành việc bác ái” (Thức Tỉnh, Lm.
Anthony de Mello, S.J.).
Đức Ái mà không có sự tha thứ thì chưa phải Đức Ái, mà làm việc
bác ái mà không có tha thứ cũng chưa phải bác ái. Làm việc từ thiện người ta vẫn có quyền nghi
ngờ về mục đích của nó, nhưng có sự tha thứ với người khác thì không ai nghi ngờ
gì cả, nó chứng tỏ có Đức Ái thực sự. Tha thứ là biểu hiện Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa, nên khi con người tha thứ cho nhau cũng chính là Thực Thi Lòng Chúa
Thương Xót, khi mà con người kiềm chế cơn giận dữ, đè nén sự phẫn uất, hủy bỏ mọi
cách trả thù, quên đi lỗi lầm và sự xúc phạm của người khác. Đó mới là sự vĩ đại
và là đỉnh cao của tình yêu – bác ái – như thánh Thomas nói: “Tha thứ cho người khác là thương xót họ, đó
là việc to lớn hơn việc tạo dựng thế giới”. Điều mà trong kinh Chúa dạy mà
ai cũng biết: “Xin Cha tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Như Đức Giêsu đã biểu lộ trên
cây Thập Tự: “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”
(Lc 23,34). Đây cũng là cốt lõi của sứ điệp “Lòng Chúa Thương Xót”.
4. TÍN THÁC VÀO LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Còn gì thâm sâu hơn sự Tín Thác, đó là sự tin tưởng, tín nhiệm,
cậy trông, phó thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Nó bao gồm cả Đức
Tin và Đức Cậy. Đức Tin luôn trở thành phép lạ, như mỗi lần Đức Giêsu chữa bệnh
cho ai Người đều nói: “Đức tin của con đã
chữa con”. Còn Đức Cậy làm nên các vị thánh vĩ đại, vì các ngài phó mặc mọi
sự trong tay Chúa, dù vui, buồn hay đau khổ. Nhưng nó lại ẩn tàng một Đức Mến
cao độ, vì nếu Đức Mến ít thì Đức Tin và Đức Cậy cũng chỉ là èo ọt.
Thánh Tiến sĩ thiên thần (St. Thomas Aquinas) nói Tín Thác là một
hình thức của Đức Cậy Trông, và ngài định nghĩa: Tín thác là một niềm cậy trông được vững mạnh nhờ một sự xác tín vững
vàng. Ở một chỗ khác, thánh nhân còn nói: “Từ tín thác có nghĩa là niềm cậy trông mà ta có vì tin vào lời
của ai đó đã hứa giúp đỡ ta".
Tín Thác Vào Lòng Chúa Thương Xót là điều vô cùng quan trọng
trong đời sống thiêng liêng, là sự khôn ngoan và phải lẽ của người con đối với
Người Cha Nhân Hậu và Giàu Lòng Xót Thương. Không có sự tín thác là không cần,
chưa tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Thiếu sự tín thác là nghi
ngờ, coi rẻ quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Ý thức mà bất cần sự tín
thác là coi mình như một Thiên Chúa.
Sự Tín Thác còn là luật dạy của Thiên Chúa: “Hãy có lòng thương xót như Cha của anh em là Đấng hay thương xót”
(Lc 6,36), một sự công bằng và phải lẽ của tự nhiên cũng như siêu nhiên, nhưng
lại mang lại sự an bình và cứu rỗi cho người biết tín thác.
Bởi vậy Thông điệp của thánh Faustina kêu gọi con người phải
tích cực hơn nữa, mang tính khẩn trương bằng sự tín thác vào Ngài, vì Thiên
Chúa tỏ lộ sự toàn năng của Ngài qua lòng thương xót để mang sự tha thứ và bình
an cho con người và thế giới. Nếu thiếu sự tín thác này thì dù có đọc bao nhiêu
kinh, bao nhiêu chuỗi Lòng Thương Xót, thậm chí làm việc bác ái thì kết quả chẳng
ăn thua gì, chỉ đạt được mức độ nào đó tùy thuộc vào sự tín thác nhiều hay ít vào
Thiên Chúa.
Chúa biết rõ sự yếu đuối của con người dễ ngã lòng, nên có những người được ơn này
ơn nọ, chưa hẳn là họ có sự tín thác mạnh mẽ, mà là do tình yêu của Thiên Chúa
ban phát để cứu vớt họ thoát khỏi sự thất vọng, nguy hiểm đến linh hồn mà thôi,
và họ phải trả lẽ cân xứng với ơn họ được lãnh nhận. Thực tế cho
thấy con người hầu như luôn nghi ngờ vào Lòng Chúa Thương Xót, nên luôn phòng hờ
đủ chuyện, để nhỡ Chúa không cứu, không giúp, không ban ơn thì còn liệu cách
khác, như chuyện “có bệnh thì vái tứ phương thiên hạ” vậy.
KẾT
Những điều kiện trên thực ra nó không thể tách rời, có điều này
sẽ được điều kia, nó đan xen và tương tác hữu cơ với nhau như chuyện “bốn trong
một” của món ăn bổ dưỡng. Tin – Cậy – Mến là ba nhân đức đối thần không thể
tách rời, nó đều tập trung để hướng đến Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Năm Thánh Lòng Thương Xót đã qua được hai phần đường, nhưng liệu
có mấy người quan tâm để hưởng được lòng thương xót của Thiên Chúa và cho thế
giới. Đôi khi người ta chạy theo Lòng Chúa Thương Xót gọi là theo phong trào, để
cầu lợi, xem và tìm kiếm phép lạ. Người ta có thể bỏ tiền bạc, thời gian, mọi
công việc để đi mấy trăm cây số đến làm giờ Lòng Thương Xót và nghe giảng với
hy vọng phép lạ sẽ đến với mình như một cuộc đọ xổ số. Còn tâm hồn có biết
thương xót người, biết bác ái vị tha, đời sống có thay đổi trong tình yêu mến hay
không thì chẳng cần biết đến.
Năm 1673, chính Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Margarita Maria
Alacoque (1647–1690) tại tu viện Thăm Viếng ở Parayle Monial và trao cho chị việc
truyền bá lòng tôn sùng Trái Tim Người: “Trái Tim đã yêu dấu loài người quá bội.”
Việc Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa là mời kêu gọi tha thiết, dịu dàng qua việc cầu khẩn
“Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Nhưng dần dần con người đã sao nhãng.
Nối tiếp, Chúa Giêsu lại trao cho thánh Maria Faustina Kowalska (Ba Lan, 1905-1938)
về Lòng Chúa Thương Xót: “Con chuẩn bị cho thế giới về lần đến cuối
cùng của Ta… Hãy làm cho cả nhân loại nhận biết Lòng Thương Xót sâu thẳm khôn
dò của Ta. Đó là dấu hiệu của thời cuối cùng, sau đó sẽ là ngày công lý”. Sứ
điệp mang tính cấp bách, khẩn trương, báo hiệu thời gian chỉ có hạn.
Thánh GH. Gioan Phaolo II trích sứ điệp, trong bài giảng phong
thánh cho chị Faustina ngày 30/4/2000 nói rằng: “Trong thời Cựu Ước, Cha đã sai các tiên tri sử dụng những lời đe dọa đối
với dân Cha. Ngày nay Cha sai con đến với dân chúng trên toàn thế giới với tình
thương của Cha. Cha không muốn trừng phạt nhân loại nhức nhối mà là muốn chữa
lành nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân hậu của Cha. Cha sử dụng hình phạt khi
chính họ bắt Cha phải làm như thế; bàn tay của Cha lưỡng lự sờ đến thanh gươm
công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang gửi tới Ngày Xót Thương” (Nhật Ký
1588)
Đây là vài sứ điệp của Chúa:
– Hãy nói với thế giới về LCTX… Đó là dấu hiệu của “thời cuối
cùng”; sau đó là Ngày Công Thẳng (Day of Justice). Con sẽ chuẩn bị cho thế giới
về lần đến cuối cùng của Ta. Hãy nói với mọi người về LTX của Ta, vì ngày kinh
khủng là Ngày Công Thẳng đã gần kề.
– Trước Ngày Công Thẳng, Ta sẽ gởi đến Ngày LCTX (Day of Mercy).
Ta sẽ gia hạn thời gian của LCTX vì những người tội lỗi. Nhưng khốn cho họ nếu
họ không nhận biết thời gian này Ta sẽ đến thăm.
– Khi vẫn còn thời gian, hãy để họ cậy nhờ LTX của Ta. Ai từ chối
qua Cửa của LTX đều phải qua Cửa Công Thẳng của Ta.
Đức Mẹ cũng đã nói với thánh nữ Faustina về sự cấp bách loan
truyền lòng sùng kính LCTX: “Con phải nói với thế giới về LTX của Cha và
chuẩn bị cho thế giới về lần đến thứ hai của Cha, không đến như Đấng Cứu Độ
nhân hậu mà như Thẩm phán công bình. Ngày ấy thật khủng khiếp! Ngày Công Thẳng
đã được ấn định, ngày phẫn nộ của Thiên Chúa (day of divine wrath). Các thiên
thần run sợ trước ngày này. Hãy nói với các linh hồn về LCTX khi vẫn còn thời
gian dành cho LCTX”.
Liệu qua năm Thánh Lòng Thương Xót, con người có thay đổi không,
hay ơn Thánh đã bị khóa sổ để “tồn kho” và công lý sẽ được thi hành, ngày mà
các thiên thần phải run sợ.
Ngày nay, Xã hội hiện đại luôn được ca tụng bởi sự tiện nghi và
hào nhoáng, nhưng chiến tranh và nạn khủng bố đe dọa thế giới, nhiều tội ác,
mafia, nạn ly dị, nạn tự tử, phá thai (trên 50 triệu thai nhi bị giết mỗi năm),
hợp thức đồng tính luyến ái, kỹ nghệ sex, hiệp hội trao đổi vợ chồng, bạo lực
trong gia đình và xã hội, kích dục trong phim ảnh và quảng cáo, những trang Web
đen, vũ khí hủy diệt hàng loạt, ô nhiễm và tàn phá thiên nhiên, hàng ngàn giáo
phái thần bí phi nhân bản ra đời, chủ nghỉa cực đoan, khủng hoảng và tha hóa
tinh thần (không tìm thấy niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống), sự tục hóa tâm
linh, làn sóng bỏ đạo, chủ nghĩa thực dụng, duy hưởng thụ… Những vấn đề này được
gọi là “văn hóa của sự chết” (Đức Gioan Phaolô II), “văn hóa tận số” (Đức
Phanxico), “vô minh văn hóa (Phật). Toàn cảnh đã tạo cho thế giới một bức tranh
ảm đạm, xám xịt, lên tới báo động đỏ, như đang sống trên vùng hỏa diêm sơn,
nhưng mấy ai quan tâm.
Nhưng dù tội lỗi có đến đâu, Đức Kitô đã chiến thắng thế gian,
nên Người vẫn giúp con cái Người thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi bằng cách cải
tạo thế giới bằng tình yêu qua Lòng Thương Xót của Ngài, như chủ đề của Năm
Thánh: “Thương xót như Chúa Cha”. Đạo Chúa là đạo tình yêu, đạo của
Tin Mừng, đạo chứa chan hy vọng và niềm vui, nên có Chúa ai còn lo buồn và sợ hãi
chi.
Hàn Cư Sĩ