Có thể nói, môi trường
gia đình giúp hình thành nhân cách nơi thánh Têrêsa. Thật vậy, được sống trong
một gia đình truyền thống đạo giáo, bé Têrêsa lớn lên trong sự giáo dục và che
chở của cha mẹ. Đến khi mẹ qua đời, bé lại dồn hết tình thương vào người cha.
Chính hình ảnh người cha này sẽ mang đậm nét nơi ký ức của Têrêsa trong những
năm sống tại dòng Kín sau này.
Với những lợi thế về hoàn
cảnh gia đình và tình thương của cha mẹ có thể là cơ hội giúp một nhân cách
hình thành lành mạnh; trái lại, đôi khi nó lại là một cản trở cho trường hợp của
Têrêsa. Thật thế, nhờ sự bao bọc và yêu thương của gia đình giúp chủ thể sống
triển nở thì bé Têrêsa đã bám chặt vào đó như một người lệ thuộc. Điều này được
minh chứng qua việc bé chỉ ngủ sau khi nghe từng người khen rằng hôm nay Têrêsa
ngoan. Hay một dịp khác, bé cảm thấy khó chịu khi mẹ cho mình mặc một bộ đồ
không thích, bé tự nhủ: phải chi mặc được
cái đầm dễ thương kia thì được nhiều người khen đẹp. Qua đó cho thấy chị vốn
là một người lệ thuộc, sống dựa vào lời khen tiếng chê của người đời. Và với tư
chất hướng ngoại và cảm giác, chị thích làm một diễn viên hay một nhà viết kịch.
Điều này đã được các chị trong dòng Kín cổ võ như một đam mê giúp chị nên
thánh. Tất nhiên, khi vào dòng, chị đã phải chiến đấu rất nhiều với những
khuynh hướng lệ thuộc của bản thân bằng cách đặt ra một động lực thiêng liêng
cho mỗi hành động của mình. Đúng thế, việc người khác nhờ chị cầu nguyện thay
vì khoe khoang vì thành công của mình, chị đã cầu nguyện với ý thức vì lợi ích
cho các linh hồn.
Chúng ta biết rằng người
lệ thuộc hay mua chuộc sự chú ý người khác qua việc tốt họ làm thì chị khi vào
dòng chỉ khát khao ví mình như cát dưới chân mọi người hoặc là một cách hoa mọc
trong khe đá chỉ mình Chúa thấy mà thôi ! Qua đó, chúng ta thấy bước tiến của
chị thánh khi biết những giới hạn của mình và khắc phục nó một cách ngoạn mục.
Có thể nói, đó là những thành công nhỏ góp phần trong việc tiến triển đời sống
tâm linh. Trong khi một người lệ thuộc chỉ dừng lại với dáng vẻ bên ngoài và lấy
việc làm giúp đỡ người khác mà lắp đầy sự trống rỗng nội tâm, chị đã nhận ra điểm
yếu của mình mà hướng tất cả về siêu nhiên.
Chúng ta ghi nhận một bước
tiến khác nơi chị thánh. Do khuynh hướng thích cảm giác, chị ấp ủ tình thương của
người cha nhân loại. Nhưng khi bước chân vào dòng, chị đã từ bỏ tất cả. Đó là một
hy sinh của chị, đồng thời, nó cũng còn bị dồn nén cách nào đó tự bên trong. Phải
6 năm sau, chị mới thực sự được giải thoát. Thật vậy, nếu nhắm đến Thiên Chúa
là Cha nhân hậu là ánh sáng duy nhất trong đời sống nội tâm thì mọi chiều kích
khác là bóng tối của linh hồn. Suy nghĩ này đã làm cho chị đau lòng khi ôm ấp
ký ức về một người cha nhân loại. Cho đến khi khám phá ra linh đạo Con đường thơ ấu thiêng liêng, chị mới
được giải thoát thực sự. Thật thế, thay vì loại bỏ tình nhân loại cha-con, chị
đã thăng hoa bằng tình Phụ-tử trên Trời. Thay vì lệ thuộc tiếng khen người đời,
chị hoàn toàn lệ thuộc vào tình yêu Cha, nghĩa là sống phó thác con thơ. Như thế,
sự lệ thuộc tình cảm vào người cha nhân loại đã giúp chị cảm nghiệm sâu xa vào
tình yêu Thiên Chúa là Cha. Chính trong sự lệ thuộc tưởng chừng như kéo ghì con
người xa đời sống nội tâm thì chị thánh đã làm nên một việc đích đáng là khai mở
một linh đạo thiết thực: Con đường thơ ấu
thiêng liêng.
Qua những phân tích sơ bộ
theo nhãn quan tâm lý học, chúng ta có thể rút ra một kết luận: mọi mẫu người với những ưu thế và những hạn
chế đều có thểnên hoàn thiện tùy mức độ đương sự cộng tác với ơn Chúa. Như
thế, nét đẹp nhân cách nơi chị thánh là tùy
thuộc vào tình yêu Thiên Chúa là Cha. Thiết tưởng, đó cũng là phương thế
thích hợp giúp người lệ thuộc sống tinh thần phó thác vào tình yêu Thiên Chúa
là Cha.
EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.