LẼ SỐNG THÁNG 2
01 Tháng Hai
Rừng Mắm
Trong một chuyện ngắn mang tựa đề "Rừng
Mắm", cố văn sĩ Bình Nguyên Lộc đã giải thích về ích lời của cây mắm qua
mẩu đối thoại sau đây giữa hai ông cháu:
- Cây mắm sao con không nghe nói đến bao giờ?
- Con không nghe nói vì cây mắm không dùng được để làm
gì hết, cho đến làm củi chụm lửa cũng không được nữa là.
- Vậy trời sinh nó làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội,
lại sinh ra hằng hà sa số như là cỏ vậy?
Bờ biển này mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra
hàng mấy ngàn thước, phù sa là đất bùn mềm lũn và không bao giờ thành đất thịt
để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một mai kia, cây
mắm sẽ ngã rạp, giống tràm sẽ nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần,
cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, Ông cụ vịn
vai nó nói tiếp: "Ông với tía, má con là cây mắm, chân giam trong bùn. Đời
con là tràm, chân vẫn còn lắm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là
xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích nhưng không uổng đâu con".
Mỗi lần nhìn lại thời
gian đã qua, chúng ta thường tự hỏi: "Tôi đã làm gì được cho tôi, cho quê
hương, cho Giáo Hội?". Y nghĩ về sự vô tích sự của mình có thể tạo nên
trong tâm hồn chúng ta mỗi chua xót, đắng cay, thất vọng.
Chúng ta hãy nhìn lại của
đất phù sa và cây mắm trong câu chuyện trên đây. Cần phải có cây mắm, đất phù
sa mới trở thành đất thịt, để rồi từ đó cây tràm và các laọi câu khác mới có
thể mọc lên.
Mỗi một người sinh ra
trên cõi đời này, dù tàn tật, dù dốt nát và xấu xa đến đâu, cũng có thể là một
thứ cây mắm, cây tràm để cho đất đai trở thành màu mỡ, nhờ đó những cây ăn trái
mới có thể vươn lên.
Ước gì ý nghĩa ấy giúp
chúng ta có một cái nhìn lạc quan hơn về quá khứ, về chính bản thân của chúng
ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng trong
lịch sử nhân loại và đều có một giá trị bổ túc cho những thiếu sót của người
khác.
Với ý nghĩ ấy, còn tâm tình nào
xứng hợp hơn trong giây phút này cho bằng tri ân, cảm mến đối với Thiên Chúa
Tình Yêu? Cảm tạ Ngài đã tạo dựng nên chúng ta, cảm tạ ngài đã ban chúng ta
được phục vụ Ngài, cảm tạ Ngài đã cho chúng ta được hữu dụng trong Tình Yêu
Quan Phòng của ngài.
02 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi trưa hè nóng bức. Những
người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng
chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng
nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi
người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu
phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu
phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ
của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của
mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của
tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người.
Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây,
người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười.
Sự đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi
không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ
của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy.
Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu đi vào một gia đoạn lịch sử
mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với
Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý
nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo
dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn bà, của người vợ, của
người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con đường lý tưởng, mẫu
gương lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã
lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con người như mọi người, nghĩa là
Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui, của thử thách, của mất mát,
cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết hiệp với Chúa và tin
tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, Mẹ đã
biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Đại Lễ của gặp gỡ, của chia
sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi kết
thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
03 Tháng Hai
Ngôn Ngữ Của Tình Yêu
Có lẽ cái tên của Helen Keller,
một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với
chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này
trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh
cửa lại với cô.
Làm thế nào để truyền thụ kiến
thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường như muốn
bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy
vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc với
cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể
tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Đại
Học, tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ.
Cho người mù lòa và câm điếc chạm
vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô giáo
Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con
chó… xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu
được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn?
Ngày kia, cô giáo Anna Sullivan
đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ "Tình Yêu" rồi ôm trầm lấy
cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô. Lần đầu
tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô
hiểu được thế nào là Yêu Thương.
Ngôn ngữ của Tình Yêu là những
hành động cụ thể.
Anh mắt trìu mến, những âu yếm
vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một
quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh
hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ
lời dẫn giải nào về Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người
yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn
những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài tỏ
tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà
bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể.
Một tình yêu không được chứng tỏ
bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp.
Đạo Kitô của chúng ta là Đạo của
Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ Tình Yêu
bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người Kitô
giả hiệu, một Đức Tin không việc làm là một Đức Tin chết. Một lòng Mến không
được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
04 Tháng Hai
Lạy Cha Chúng Con Ở
Trên Trời
Con gái ông Karl Marx có lần thú
nhận với người bạn gái từ thủa nhỏ bà không được huấn luyện cho biết có Tôn
giáo và Tín ngưỡng cũng như chính bà không cảm thấy mình có một tâm tình tôn
giáo hay tin tưởng vào một thực tại vô hình nào.
Nhưng bà tâm sự tiếp: mộ ngày kia
bà tình cờ đọc được một kinh của người Kitô mà bà thầm mong ước là những câu
kinh ấy được biến thành sự thật.
Nghe nói thế, người bạn gái của
bà không khỏi ngạc nhiên và tò mò hỏi: "Kinh gì mà hay thế?". Thay vì
trả lời trực tiếp câu hỏi này, người con gái ông Karl Marx chậm rãi đọc bằng
tiếng Đức: "Vater unser im Hinmel… Lạy Cha chúng con ở trên
trời…".
Có một Giám Mục kia trên đường
kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà lão. Người ta nói bà là một tấm
gương cho cả lòng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám Mục hỏi:
- Bà thường hay đọc sách đạo đức
nào nhất?
- Thưa Đức Cha con không biết
đọc, bà cụ trả lời. Nghe nói thế, vị Giám Mục tiếp tục hỏi: "Nhưng bà hay
cầu nguyện cơ mà?". Thấy Giám Mục đã biết bí quyết của mình, bà cụ thật
thà thưa:
- Thưa Đức Cha, con chỉ biết
tràng hạt thôi: Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin Kính. Một ngày con khởi
sự đọc đến mười lần nhưng thường thì con không đọc xong.
- Tại sao thế? Vị Giám Mục muốn
biết. Bà cụ thuật tiếp:
- Tại vì khi con bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng
con… Con bỗng không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mực cho phép một bà già
hèn mọn như con được gọi ngài là Cha. Điều đó làm cho con phải khóc và rồi con
không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được. Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám
Mục khuyến khích:
- À, này bà cụ, đó là lời cầu
nguyện trị giá bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp tục
và luôn cầu nguyện theo câu đó.
Tục ngữ Việt Nam có câu:
"Gần chùa gọi bụt bằng anh". Đó là tâm tình thông thường của con
người. Bởi lẽ những thực tại dù to lớn đến đâu, nếu đã trở nên những công việc
hằng ngày thường bị hạ thấp giá trị.
Ước gì Kinh Lạy Cha giúp chúng ta
ý thức thật sâu đậm về sự thật: Thiên Chúa là Cha chúng ta, như bà cụ đơn sơ
trong câu chuyện trên đã cảm nghiệm được, đồng thời giúp chúng ta sống và thực
hành những gì chúng ta luôn miệng cầu khẩn trong kinh Lạy Cha.
05 Tháng Hai
Một Cách Tỏ Tình
Du khách viếng thăm hành lang nổi
tiếng của nhà thờ chánh tòa Thánh Phaolô ở Luân Đuân có thể nghe tiếng của
người hướng dẫn đang thuật lại lịch sử của nhà thờ truyền đi khắp nơi chung
quanh vòm mái tròn to lớn ở chánh điện, nhờ các kiến trúc đặc biệt làm tiếng
nói vang dội mang âm thanh đi rất xa. Cũng vì thế, nên nếu áp tai vào tường
người ta có thể nghe được những gì một người nói từ phía bên kia của vòm mái
tròn, mặc dầu đó chỉ là một giọng nói thì thầm tâm sự.
Cách đây đã lâu, mượn nhà thờ
chánh tòa làm nơi hẹn hò, một người hành nghề đóng giày than vãn với người yêu
là chàng chưa thể tiến hành lễ cưới ngay bây giờ được. Hiện tại chàng không có
cả tiền để mua da và các vật liệu cần thiết để có thể tiếp tục hành nghề, vì
thế chàng đang phải thất nghiệp dài dài, đào đâu ra tiền để làm đám cưới. Nghe
tin bất lành, ý trung nhân của anh chỉ biết sụt sùi khóc.
Đang lúc ấy, một người tình cờ đi
qua hành lang phia bên kia nghe được câu chuyện thương tâm và những lời cầu
nguyện của anh thợ đóng giày. Ong ta quyết định làm một cái gì để giúp đôi trai
gái được thành gia thất. Vì thế, khi chàng trai từ giã người bạn gái thất thểu
ra về, ông ta cũng tiến bước theo sau để biết chỗ ở của anh ta và lập tức cho
người mang đến tặng cho anh một số da. Chàng đóng giày phấn khởi bắt tay vào
việc và không bao lâu công việc làm ăn phát đạt tạo đủ điều kiện để anh có thể
tiến hành hôn lễ với người yêu. Mãi đến mấy năm sau, hai vợ chồng mới biết vị
ân nhân của mình là ông William Gladston, vị thủ tướng Anh quốc lúc bấy giờ.
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu
nhấn mạnh đến hai tư tưởng chúng ta có thể đào sâu để củng cố niềm tin Kitô của
chúng ta. Đó là: Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Người luôn lắng nghe và sẵn lòng
ban cho chúng ta, con cái của Người, mọi ơn lành Người biết là sẽ mang lợi ích
thật sự cho chúng ta, như vị thủ tướng Anh quốc nghe những lời tâm sự thì thầm
của đôi trai gái trên và ra tay giúp đỡ họ. Vì thế, chúng ta hãy kiên tâm, bền
chí trong lúc cầu xin.
06 Tháng Hai
Hướng Về Nagasaki
Nagasaki là một thành phố đã bị
trái bom hạt nhân thứ hai tiêu hủy cùng với hàng trăm ngàn sinh linh vào
năm1945. Khoảng 350 năm trước đó, vào tháng 2 năm 1597, 26 vị tử đạo đã bị treo
vào thập tự trên một ngọn đồi quay mặt hướng về thành phố Nagasaki. Họ là những
linh mục truyền giáo, tu sĩ, giáo dân. Họ là những người thuộc dòng Thánh
Phanxico, dòng Tên và thành viên của dòng 3 Phanxico. Họ thuộc loại giai cấp xã
hội: là những giáo lý viên, nông dân, y sĩ, những người giúp việc và ở mọi lứa
tuổi, nhưng tất cả 26 vị được kết hợp trong cùng với một đức tin và một tình
yêu Thiên Chúa và Giáo Hội.
Khi các nhà truyền giáo trở lại
Nhật vào những năm 1860, họ ngỡ là sẽ không tìm thấy một dấu vết nào của Thiên
Chúa Giáo nữa. Nhưng sau khi đã thiết lập được vài công đoạn bé nhỏ, các Ngài
ngạc nhiên khám phá ra hàng ngàn tín hữu sinh sống quanh thành phố Nagasaki vẫn
âm thầm, lén lút giữ vững Đức Tin mà 26 vị tử đạo đã anh dũng tuyên xưng.
Vào năm 1617, 26 vị này được
phong á thánh và cuối cùng được tôn phong hiển thánh vào năm 1862.
"Bản án tử hình của chúng
tôi có để lại: những người bị hành quyết này đã đến từ Phi Luật Tân. Nhưng tôi,
tôi không đến từ Phi Luật Tân. Tôi là người Nhật chính tông. Lý do tôi bị xử án
là vì tôi đã rao giảng đức tin Kitô và thật đúng như vậy, tôi đã rao giảng Tin
Mừng này. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi được chết vì rao truyền danh Ngài. Tôi tin
tưởng là tôi đã rao giảng sự thật và muốn nói với các bạn những lời cuối cùng
này: Hãy cầu xin ơn Thiên Chúa giúp các bạn được hạnh phúc. Tôi vâng lời Chúa
Giêsu và vâng lệnh Ngài, tôi tha thứ cho những người xử tử tôi. Tôi không hờn
ghét họ. Tôi cầu khẩn Thiên Chúa thương xót tất cả các bạn và tôi hy vọng máu
tôi sẽ tuôn rơi trên đồng bào tôi như là những giọt mưa giúp phát sinh nhiều
hoa trái".
Đó là lời phát biểu cuối cùng khi
đang bị treo trên thập tự của thầy Phaolô Miki, người Nhật thuộc dòng Tên,
người được biết đến nhiều nhất trong số 26 vị tử đạo tại Nhật.
Ngày nay, một thời đại mới đã
khởi đầu cho Giáo Hội Nhật. Tuy là một thiểu số khiêm nhường, nhưng những người
Công Giáo tại Nhật được mọi người kính nể và được hưởng tự do hoàn toàn tiếp
tục rao giảng Tin Mừng và Niềm tin Thánh Phaolô Miki đã rao giảng trong cuộc
sống của Ngài và trong những giây phút sắp lìa trần.
Ước gì sự xác tin, lòng can đảm va
sự sẵn sàng tha thứ của Thánh Miki được tiếp tục sống mãi trong tâm hồn các anh
chị em tín hữu Nhật và trong tất cả chúng ta.
07 Tháng Hai
Một Lý Tưởng Để Đeo
Đuổi
Một buổi sáng năm 1888, Alfred
Nobel, người phát minh ra chất nổ và từ đó, hái ra tiền như nước, đã thức giấc
trong bàng hoàng sửng sốt: tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của
Alfred Nobel, vua chất nổ. Thật ra, đây chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào
đó. Người anh của Alfred qua đời và ký giả đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng
dù sao, đây cũng là dịp để Alfred đọc được cảm nghĩ mà người khác đang có về ông.
Trên môi miệng của mọi người, ông chỉ là ông vua của chất nổ, nghĩa là người
làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do chất nổ gây ra.
Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn
cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố gắng kiến
tạo hòa bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về hình ảnh của một nhà
"kinh doanh trên sự chết chóc" mà thiên hạ đang có về mình.
Ông quyết định làm cho thế giới
hiểu được lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm
việc viết ngay tức khắc chúc thư trong đó ông để lại tất cả tài sản của ông để
thiết lập một trong những giải thưởng lớn nhất thế giới: đó là giải thưởng
Nobel Hòa Bình, nhằm tưởng thưởng tất cả những ai góp phần vào việc xây dựng
Hòa Bình thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred
Nobel không còn là vua của chất nổ nữa, mà là Hòa Bình.
Có một lý tưởng để đeo đuổi, có
một lẽ sống cho cuộc đời: đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên
trần gian. Những ngưeời bất hạnh nhất phải chăng không là những người sống mà
không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sẽ đi về đâu sau cái chết. Bất
hạnh hơn nữa đó là những con người chỉ xây dựng cuộc sống của mình trên những
sự chết chóc của người khác. thế giới sẽ không bao giờ quên những Tần Thủy
Hoàng, những Nero, những Hitler, những Stalin, những Ceaucescu và không biết
bao nhiêu những con người ngày nay có kẻ đang thờ trong lăng tẩm để rồi mai
ngày kẻ khác lại khai quật lên.
Người Kitô hữu là người có lý
tưởng để xây dựng, có lẽ sống để đeo đuổi. Họ luôn luôn sẵn sàng để bày tỏ cho
người khác những lý lẽ của niềm tin và hy vọng của họ. Sự bày tỏ ấy, họ không
viết trong một chúc thư bằng giấy mực, mà bằng cả cuộc sống chứng tá của
họ.
Khi nói về sự rao giảng Tin Mừng,
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói như sau: "Tin Mừng trước tiên phải được
công bố bằng một chứng từ. Có chứng từ khi một người Kitôhay một nhóm người
Kitô sống giữa nhân loại, bày tỏ được khả năng có thể cảm thông, đón tiếp, chia
sẻ cuộc sống với người khác hoặc tỏ tình liên đới với người khác trong mọi cố
gắng đối với những gì là cao quí và thiện hảo. Có chứng từ khi những người Kitô
chiếu rọi một cách đơn sơ và bộc phát niềm tin của họ vào những giá trị vượt
lên trên những giá trị thông thường và bày tỏ niềm hy vọng của họ vào một cái
gì mà người ta không thấy hoặc không dám mơ ước. Với chứng từ không lời ấy,
người Kitô làm dấy lên trong tâm hồn của những ai đang thấy họ sống, những câu
hỏi mà con người không thể né tránh được. Đó là: Tại sao họ sống như thế? Điều
gì hoặc ai là người thúc đẩy họ sống như thế? Tại sao họ sống như thế giữa
chúng ta?".
Đâu là chúc thư chúng ta muốn để
lại cho hậu thế? Đâu là lời biện minh của chúng ta trước mặt người đời nếu
không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước Trời.
08 Tháng Hai
Sống Lạc Quan
Năm 1989,một cuộc thi toán
quốc tế đã được tổ chức cho các thiếu nhi 13 tuổi thuộc sáu quốc gia trên thế
giới. Kết quả cuộc thi đó cho thấy giỏi toán nhất là các em Đại Hàn, kế đó là
các em Tây Ban Nha, Anh Quốc, Ailen, Canada và đội sổ là các thiếu nhi Hoa Kỳ.
Song song với cuộc thi toán
ấy, người ta cũng làm một cuộc thăm dò với chính các thiếu nhi cũng thuộc lứa
tuổi ấy. Người ta đặt một câu khẳng định như sau: "Tôi là người giỏi
toán". Kết quả cuộc thăm dò cho thấy lạc quan nhất là các trẻ em Hoa Kỳ và
bi quan nhất lại chính là các em Đại Hàn. Gần 70% các em Hoa Kỳ tự nhận mình là
giỏi toán trong khi đó chỉ có khoảng 20% các em Đại Hàn tự nhận mình có thực
tài.
Qua cuộc thi toán và thăm
dò trên đây, người ta thấy rằng có thể các thiếu nhi Hoa Kỳ không phải là những
trẻ em giỏi toán, nhưng chúng đã tiếp thu rất kỹ bài học về tính lạc quan do
các thầy cô không ngừng giảng dạy tại trường. Nhiều nhà giáo dục người Mỹ muốn
chứng minh rằng nghiện ngập, chửa hoang, bỏ học và hầu hết các tệ đoan xã hội
khác đều có thể được giảm bớt nếu con người biết sống lạc quan, nghĩa là biết
tự nhận và cảm thấy mình là những con người tốt.
Lạc quan là đức tính cơ bản nhất để
thành công trong cuộc sống. Có tin tưởng nơi chính mình, có tin đời, có tín
nhiệm nơi người khác, người ta mới dám bắt tay vào việc. Ngay cả khi gặp thất
bại, thử thách, người lạc quan cũng không lùi bước, bỏ cuộc.
Trong cuộc sống đức tin, lạc quan
là một trong những nhân đức quan trọng nhất. Người tín hữu lạc quan là người
luôn đặt tất cả tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người tín hữu lạc quan là người không
bao giờ thất vọng về chính mình. Người tín hữu lạc quan cũng là người không bao
giờ thất vọng về người khác.
Đá tảng để người tín hữu xây dựng
sự lạc quan của chính mình là Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vượt lên
trên mọi tính toán, đo lường và sự tưởng tượng của con người, một tình yêu thủy
chung.
Tình yêu ấy nói với con người
rằng, không có một con người nào đốn mạt, yếu hèn, xấu xa đến nỗi Thiên Chúa
đành phải bó tay.
Tình yêu ấy nói với con người
rằng, nơi nào có tội lỗi và phản bội càng nhiều, thì nơi đó ân phúc được thi ân
dồi dào hơn.
Tình yêu ấy nói với con người
rằng, đau khổ, cái chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu của vinh quang, của sự
sống. Tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, tình yêu ấy không bao giờ bỏ cuộc, đầu
hàng.
09 Tháng Hai
Khi Yêu Trái Ấu Cũng Tròn
Ignacy Paderewski là một chính trị gia kiêm nhạc
sĩ dương cầm nổi tiếng của Balan. Ông đã từng là chủ tịch Hội Đồng Nhà Nước năm
1919.
Một hôm, ông đến thăm một người bạn. Do sự yêu cầu
của gia đình người bạn, ông đã ngồi vào đàn dương cầm để biểu diễn một vài bản
nhạc do chính ông sáng tác. Tiếng đàn vang lên trong cả khu phố. Từ phòng bên
cạnh, một người đàn bà đang chăm chú dọn dẹp và sắp đặt lại trật tự trong nhà.
Tiếng đàn du dương của nhà nhạc sĩ đại tài, thay vì làm vui tai bà, lại làm cho
bà khó chịu. Người đàn bà đã nhắc điện thoại lên yêu cầu người bạn cho nhạc sĩ
Paderewski ngưng chơi đàn, vì bà không chịu nổi tiếng ồn ào. Nhưng người bạn
của nhà nhạc sĩ mới giải thích: "Thưa bà, người đang chơi đàn chính là
nhạc sĩ Paderewski đại tài của chúng ta đó".
Vừa nghe nhắc đến tên của nhạc sĩ, người đàn bà láng giềng khó tính bỗng đổi
giọng tức khắc. Những âm thanh trước kia bà nghe như tiếng ồn ào, nay được bà
đón nhận như những âm thanh tuyệt mỹ. Người đàn bà bèn gọi điện thoại mời bà
con và bạn bè đến thưởng thức những tấu khúc của Paderewski.
Cũng một âm thanh, nhưng có lúc người đàn bà nghe như
những tiếng ồn ào khó chịu, có lúc lại được bà đón nhận như khúc nhạc tuyệt mỹ.
Đó cũng là phản ứng thường tình của chúng ta. Khi chúng ta mang sẵn thành kiến
đối với người nào đó, thì dường như tất cả những gì người đó nói hay làm đều được
chúng ta đón nhận một cách tiêu cực. Yêu nhau thì trái ấu cùng tròn, mà ghét
nhau thì cau bảy cũng bổ ra làm mười. Thái độ của chúng ta đối với người khác
tùy thuộc ở cái nhìn của chúng ta về người đó. Nếu chúng ta chỉ nhìn người đó
bằng lăng kính của thành kiến có sẵn, thì dĩ nhiên, chúng ta không thể yêu
thích được bất cứ điều gì người đó nói hay làm.
Chúa Giêsu đã không nhìn người bằng thành kiến. Ngài tiếp
đón tất cả mọi người. Ngài làm bạn với mọi người. Ngài ngồi đồng bàn với mọi
người. Người biệt phái cũng có thể đến với Ngài. Ngài không nhìn người với
những nhãn hiệu, mà chỉ bằng đôi mắt của Yêu Thương. Ngài không lắng nghe bằng
những tiếng đồn đãi, bằng những định kiến, mà bằng sự cảm thông. Ngài không đo
lường lầm lỗi bằng những thước đo của công lý mà chỉ xử lý bằng sự tha thứ.
10 Tháng Hai
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Đời
Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng
nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu
cuộc đời.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi
chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các
cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng
chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc
hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài
tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác.
Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông.
Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có
một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn
người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần
ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia
thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc
rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói:
"Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành
khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem
qua bên kia thế giới của ông". Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền
xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi
đắng cay chua xót của ông.
Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn
chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự
nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho
người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ
người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng
và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu
và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng,
không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là
điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.
Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc
nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng
tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và
lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.
Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là
một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy
hướng đi của chúng ta là gì?
Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã
vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho
tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và
khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được
nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã
ghi lại lời của Chúa Giêsu: "Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh".
Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất
trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được
mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì
thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng
tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm
hồn.
11 Tháng Hai
Đức Mẹ Lộ Đức
Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Đức, một
thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette
Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave
để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết.
Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng
Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với
tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang
hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin
phép mẹ được đi nhặt củi.
Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều
cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette
không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó
mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc
nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo
lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette
tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó
chỉ mỉm cười.
Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy,
Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng
trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn
lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân
côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên
môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến
khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn...
Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm
về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở
lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được,
Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người
thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: "Nếu người
đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại". Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu.
Đây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như
thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được
diễm phúc gặp Đức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ:
"Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Đức Mẹ hiện
ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.
Đó là nguồn gốc của hang Đức Mẹ Lộ Đức. Ngày nay, từng
giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu
nguyện và xin ơn. Đến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một
sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ
Đức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi
lòng tôn sùng Mẫu Tâm.
Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến
tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ
cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Điều quan
trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ
muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ
điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện.
12 tháng Hai
Những Kho Tàng Quý Giá
Giá trị của những đồ cổ thường gia tăng với thời
gian.
Dạo tháng 5 năm 1990, một chiếc xe Rolls Royce do
Anh Quốc chế tạo năm 1907 đã được bán đấu giá là 2,860,000 đô la tại bang
Florida bên Hoa Kỳ. Đây là giá bán một chiếc xe cổ cao nhất từ trước tới nay.
Chiếc xe này đã từng được gia đình cự phú Rochefeller sử dụng.
Nhưng đáng kể hơn cả vẫn là giá bán một bức tranh
của danh họa người Hòa Lan là Vincent Van Gogh. Bức tranh họa lại chân dung của
một người bạn thân cuqả danh họa là bác sĩ Gachet, được thực hiện năm 1890, tức
là cách đây đúng hơn 100 năm. Trong một cuộc đấu giá tại phòng triển lãm ở New
York bên Hoa Kỳ, bức tranh đã được bán đấu giá là 82,500,000 đô la. Đây là giá
bán cao nhất từ trước tới nay đối với một tác phẩm nghệ thuật.
Cũng dạo đó, tại Tây Đức, người ta đã đem bán đấu
giá cả những tác phẩm của nhà độc tài Hitler. Một bức tranh sơn nước của ông đã
được bán với giá là 6,134 đô la. Ngay cả một ấn bản của tác phẩm Mein Kampf,
trong đó Hitler đã vạch ra chương trình hành động gian ác của ông và các cộng
sự viên của ông cũng được đem bán đấu giá. Người mua có lẽ không nghĩ đến giá
trị nghệ thuật cho bằng muốn giữ làm kỷ niệm di tích có liên quan đến tội ác và
một trong những thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nhân loại.
Tất cả những người môn hạ đích thực của Đức Kitô cũng là
những nhà nghệ sĩ mà các tác phẩm đều vượt thời gian. Tác phẩm mà các ngài để
lại chính là cả cuộc sống được họa lại theo khuôn mẫu của Đức Kitô. Những tác
phẩm ấy không bao giờ được đem bán đấu giá, bởi vì chúng vô giá. Không có tiền
bạc nào có thể mua được công đức và các hy sinh của các Thánh. Người ta chỉ có
thể chiêm ngắm bằng đôi mắt của đức tin. Có những cuộc sống xả thân quên mìnhmà
mọi người đều biết đến, có những cuộc sống âm thầm trong gian lao thử thách mà
chie mình Thiên Chúa mới chân nhận giá trị. Hiển hách hay âm thầm, cuộc đời của
những vị thánh là những tác phẩm mà giá trị vẫn muôn tồn tại qua muôn thế hệ.
Mỗi một người Kitô chúng ta, trong cố gắng mô phỏng Đức
Kitô, cũng là những nghệ sĩ cách này hay cách khác đều để lại những tác phẩm
cho hậu thế. Chúng ta không để lại tài sản, chúng ta không để lại những tác
phẩm nghệ thuật, mà chính là cả cuộc sống của chúng ta. Trong âm thầm theo
Chúa, phục vụ tha nhân, chịu đựng vì đức tin, làm chứng tá cho Tin Mừng: chúng
ta luôn được mời gọi để lại cho hậu thế kho tàng vô giá nhất: đó là Niềm Tin.
Âm thầm hay rực sáng, Niềm Tin đó phải là kho tàng quý giá nhất mà mọi người
chúng ta đều được mời gọi để sống, để bồi đắp, để vun trồng và truyền lại cho
các thế hệ mai sau.
13 Tháng Hai
Mang Tên Một Vị Thánh
Hiện nay, những người vẽ bản đồ tại Liên Xô đang
phải điên đầu vì tên của các thành phố. Khắp nơi trong toàn lãnh thổ, dân chúng
yêu cầu hoàn lại tên cũ cho thành phố, tên mà Stalin và những người kế vị của
ông đã xóa bỏ. Tại Leningrat chẳng hạn, dân chúng yêu cầu đòi lại đô thị của họ
với tên cũ là Petersburg hay St. Petersburg, nghĩa là đô thị của Thánh Phêrô.
Đây là một trong những đề tài nóng bỏng mà hội đồng thành phố đang đưa ra thảo
luận. Trong một chương trình truyền hình địa phương người hướng dẫn chương
trình đã tránh dùng tên Lenigrat mà lại gọi tắt là Peter, nghĩa là tên gọi cũ
của đô thị. ngững người yêu cầu hoàn trả tên cũ lại cho các đô thị nói rằng:
cũng như những người có quyền giữ tên cha sinh mẹ đẻ của mình, thì cũng thế,
một đô thị cũng phải được quyền giữ tên khai nguyên của nó.
Tại cộng hòa Georgia, trường đại hoạc kỹ thuật
Tbilisi đã xóa bỏ tên của Lênin và ngay cả tượng của ông cũng bị đạp đổ. Tại
nhiều nơi khác, người ta cũng xóa bỏ tên mới của các đô thị để lấy lại tên cũ
vốn đã có từ thời các đô thị này được thiết lập. Gorky sẽ được phục hồi lại như
trước kia là Novgorod. Bezhnev sẽ được mang tên cũ là Nabereznye, Zhadanov sẽ
được phuc hồi là Mariupol, nghĩa là đô thị của Đức Maria.
Mỗi người chúng ta, khi chịu phép rửa cũng đều mang một
tên mới. Chúng ta thường gọi đó là tên thánh. Thánh bởi vì đó là tên của một vị
Thánh, nhưng thánh bởi vì tất cả chúng ta đều được mời gọi để nên thánh, hay
nói như Thánh Phaolô, tất cả chúng ta đều là những người thánh. Thật thế, nhờ
Phép Rửa, người tín hữu Kitô được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên
Chúa; nhờ Phép Rửa, người tín hữu Kitô trở thành Đền Thờ thánh thiện của Chúa
Thánh Thần.
Đó là nguồn gốc, là căn tính của người Kitô chúng ta.
Mang lấy tên của một vị thánh, người Kitô luôn được nhắc nhở rằng bản chất của
họ chính là nên thánh, nguồn gốc của họ chính là sự thánh thiện. Chính vì nguồn
gốc ấy, cho nên họ luôn được mời gọi để làm việc thiện, để cầu nguyện, để chịu
đựng, để sống tử tế, để sống vui tươi, để sống phục vụ. Nói tóm lại, vì thông
dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa, người Kitô luôn được mời gọi để sống như
Đức Kitô, Đấng qua cái chết và sự Phục Sinh, đã thể hiện chính sự thánh thiện
của Thiên Chúa.
14 Tháng Hai
Hạt Thóc Dâng Tặng Đức Vua
Có lẽ chúng ta đã có dịp đọc bài thơ sau đây của
đại thi hào Tagore: "Có một người hành khất ngồi bên vệ đường. Hôm đó, Đức
Vua sẽ ngự giá đi qua ngôi làng. Người hành khất cố gắng lê lết đến trước cổng
làng, lòng nhủ thầm: "Đây là dịp may duy nhất đời tôi". Từ đằng xa,
khi vừa thấy xa giá xuất hiện, anh đã cố gắng đưa tay lên vẫy chào. Có ngờ đâu,
trước sự sửng sốt của mọi người, khi xa giá vừa đến trước cổng làng, Đức Vua đã
cho dừng xe lại và chính ông là người đưa tay ra để xin hành khất bố thí.
Người hành khất bèn đưa tay vào trong chiếc bị cũ
kỹ nhơ bẩn của mình để kéo ra một hạt thóc. Anh trịnh trọng đặt hạt thóc vào
trong tay Đức Vua. Đức Vua tiếp nhận món quà từ tay người hành khất và biến đi
giữa cát bụi mịt mù.
Chiều đến, khi về tới nhà, người hành khất mới mở
chiếc bị của mình ra. Lạ lùng thay, giữa muôn hạt thóc, anh nhận ra một hạt
vàng óng ánh. Lúc bấy giờ, người hành khất mới khốc nức nở hối tiếc: "Phải
chi ta đã cho Đức Vua tất cả những gì ta có..."
Thiên Chúa đối xử với chúng ta cũng giống như vị Vua đối
xử với người hành khất. Ngài muốn trao ban cho chúng ta tất cả kho báu trên
Thiên Đàng. Qua người con một của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa muốn trao
ban cho chúng ta chính Sự Sống của Ngài. Qua Sự Sống chúng ta đã lãnh nhận, qua
sự hiện diện của những người anh em chúng ta, qua ngay cả những thất bại và tội
lỗi của chúng ta, Thiên Chúa vẫn luôn nhắc đến với từng người chúng ta như một
người hành khất. Chúng ta tưởng chúng ta đang chìa tay van xin trước. Kỳ thực, chính
Ngài mới là kẻ không ngừng đưa tay ra để xin chúng ta mở rộng đôi tay và quả
tim của chúng ta. Tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài, nghĩa là như những
con người có tự do, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tôn trọng chúng ta. Ngài muốn trao
ban tất cả cho chúng ta vì yêu thương. Nhưng cũng chính vì yêu thương, cho nên
Ngài không làm cách nào khác hơn là van lơn, kêu mời chúng ta. Ngài chờ đợi nơi
chúng ta một cái gật đầu, một hạt thóc nhỏ rút từ trong chiếc bị khốn cùng của
chúng ta. Một nghĩa cử nhỏ mọn làm cho người anh em, một chút tin yêu hy vọng
giữa bao nhiêu thử thách khó khăn của cuộc sống, một chút khiêm tốn và sám hối
sau những lần vấp nga: đó là những hạt thóc bé nhỏ mà chúng ta có thể trao tặng
cho Chúa để từ đó lãnh nhận trở lại tất cả kho tàng Yêu Thương của Ngài.
15 Tháng Hai
Bài Ca Vạn Vật
Một
tác giả nọ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ giữa một nhà tí thức bi quan với
Thánh Phanxico thành
Người
anh em ca tụng nước. Người anh em có bao giờ chững kiến cảnh lụt lội, màn trời
chiếu đất chưa? Người anh em ca tụng Mẹ Đất. Hẳn người anh em đã biết run sợ
khi chứng kiến cảnh động đất: nhà cửa đổ nát, người người bị chôn vùi. Người
anh em ca tụng lửa. Người anh em có bao giờ chứng kiến cảnh núi lửa thiêu rụi
níu rừng cây cỏ và con người không?
Người
anh em ca tụng anh gió. Người anh em có lẽ chưa bao giờ ra giữa khơi để chứng
kiến cảnh chới với của những người đi biển khi gặp cuồng phong? Hằng năm có
biết bao nhiêu người chết vì gió bão? Hằng năm có biết bao nhiêu người chết vì
thiên tai?
Nghe
tất cả những lời tả oán ấy của người trí thức bi quan, vị sứ giả của Hòa Bình
chỉ biết mỉm cười. Ngài gật đầu trả lời: Phải, hỡi người anh em, ta nghe và
biết tất cả những gì người anh em mới kể ra. Ta biết rằng tất cả những điều
thiện hảo đều có thể trở thành xấu do sự sử dụng không đúng của con người. Đó
là chân lý mà ai trong chúng ta cũng đều có thể cảm nghiệm được trong cuộc sống
mỗi ngày.
Nhưng
điều Ta muốn nói: đó là ngay từ những điều xấu, Thiên Chúa có thể biến thành
khởi nguồn của những điều tốt đẹp hơn. Trong bài ca của Ta, Ta đã nhắc đến Sự
Chết và Tội Lỗi là hai điều xấu xa nhất. Cái chết có thể trở thành nguồn ơn cứu
thoát. Tội lỗi cũng có thể trở thành khởi điểm của hồng ân. Thánh Phaolô há đã
chẳng nói: "Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi
dào hơn". Thiên Chúa không bao giờ thất vọng và đầu hàng trong việc thi ân
cả. Tất cả những gì Ta muốn nói lên trong bài ca vạn vật của Ta: đó là mời gọi
anh em hãy cố gằng nhìn thấy sự thiện trong mọi sự.
16
Tháng Hai
Ngọn Nến Cháy Sáng
Nữ
sĩ người Thụy Điển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có kể một
câu chuyện như sau: Có một kỵ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận thánh chiến
thành công tại Thánh Địa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt lên một ngọn nến
ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về quê hương của anhlà thành
phố Fireheze bên Italia.
Quyết
định ấy đa biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân hung
hãn chuyên cầm gươm giết người, nay người kỵ mã đã trở thành một con người hiền
hòa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.
Trên
đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã gặp không
biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề động đến chiếc gươm đang mang
trong người. Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn, miễn là để cho anh
được phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay. Quân cướp lột hết tất cả những
gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa quý của anh. Họ cho anh một con ngựa già
để đi từng bước cầm chừng. Sau khi trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ
này, người kỵ mã cảm thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì
đã trút được bỏ những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn
còn giữ được ngọn nến cháy sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúa. Khi anh
về đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dại. Họ chế nhạo và tìm đủ
cách để dập tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết còn hơn là để
cho ngọn nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã mang được ngọn nến
cháy sáng về đến nhà thờ chính tòa của quê hương anh. Anh dúng ánh sáng từ ngọn
nến ấy đốt lên tất cả những ngọn nến trên bàn thờ.
Trước
anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc đường, vì
nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Được hỏi: Đâu là bía quyết giúp
anh thành công như thế. Người kỵ mã trả lời như sau: "Tôi đặt tất cả chú
tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn xàng bỏ hết tất cả mọi sự để bảo vệ ngọn nến
ấy".
Cuộc
đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một cuộc
hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm cháy sáng trong
ngọn nến của Đức Tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng, bấy lâu chúng ta còn tiến
bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình là chuyện không thể tránh được.
Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữcho ngọn nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến
bước.
Chúa
Giêsu nói với chúng ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian". Ước mơ duy
nhất của người kỵ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngọn nến đốt lên từ
mồ Chúa để thắp sáng lên ngọn đèn trong nhà thờ. Đó cũng phải là ước mơ của mỗi
người chúng ta. Ánháng được trao ban cho chúng ta là để được truyền sang cho những
ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn đang chờ đợi một chút ánh sáng từ
ngọn nến của chúng ta để được cháy lên?
17
Tháng Hai
Người Buồn Cảnh Có Vui Đâu Bao Giờ
Bỏ
xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca
ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán
cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang
các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.
Một
thanh niên nọ đã xin đến Ấn Độ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu,
giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và
tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất
là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất
hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy...
Người
ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện
nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng
ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của
một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng
vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con
vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết
làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm
quen với nó.
Dần
dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu
tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết
với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn
xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn
cả đó là tài săn muỗi của nó.
Sự
hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc
sống: những khó khăn không đến từ môi trường chung quanh, mà chính từ bản thân
anh.
Chúng
ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ", như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm
trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh
chúng ta cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn
thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh,
từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường
được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta
vui, chúng ta như cảm thấy mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng
ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.
Câu
chúc đầu tiên của Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài
là: :bình an cho các con". Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta
mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự
bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận
chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân cũng như
mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng
nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và
buồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó
chịu.
18
Tháng Hai
Hai Biển Hồ
Palestina
có tới hai biển hồ... Hai biển hồ này hoàn toàn khác nhau. Một biển hồ thường
được gọi là biển hồ Galilêa. Đây là một biển hồ rộng lớn với nước trong xanh mà
người ta có thể uống và cá cũng có thể sống trong đó. Xung quanh hồ này là
những vườn cây và thảm cỏ xanh tươi. Nhà cửa cũng mọc lên rất nhiều xung quanh
biển hồ này... Chúa Giêsu đã gặp gỡ với những người môn đệ đầu tiên của Ngài
tại đây và Ngài cũng nhiều lần đi thuyền xuyên qua biển hồ này.
Biển
hồ thứ hai tại Palestina là Biển Chết. Đúng như tên gọi của nó, không có sự
sống nào trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước mặn đến nỗi mà người cũng
có thể trở thành bệnh hoạn nếu uống phải. Mùi hôi thối từ Biển Chết xông lên
khiến không ai muốn sống gần đó.
Có
điều kỳ lạ là hai biển hồ này đều nhận nước từ cùng một nguồn là sông
Biển
Chết cũng nhận nước từ sông Jordan, nhưng nó giữ lấy riêng cho nó do đó nước
của nó trở thành mặn chát và hôi thối.
Thánh
Phaolô đãghi lại lời vàng ngọc của Chúa Giesu như sau: "Cho thì có phúc
hơn nhận lãnh". Thật ra, càng trao ban, người ta càng nhận lãnh trở lại
nhiều hơn.
Một
đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh
lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới
thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập
vui sướng...
Càng
trao ban, càng được nhận lãnh: đó là một định luật sống của con người trong mọi
lĩnh vức. Tất cả con người chúng ta, tất cả sự sống của chúng ta, tất cả tài
năng của chúng ta, tất cả những gì chúng ta có: tất cả đều do Chúa ban tặng.
Thiên Chúa ban tặng tất cả cho chúng ta để chúng ta trao ban cho người khác và
như vậy, chúng ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực... Cũng như biển hồ
Galilêa tiếp nhận nước từ dòng sông Jordan để rồi ban tặng cho những sông lạch
xung quanh và nhờ đó, trở thành trong xanh tươi tốt, cũng thế, sự sống chúng ta
lãnh nhận từ Thiên Chúa chỉ trở thành tươi tốt nếu nó được chia sẻ và trao ban
cho người khác. Càng giữ lấy riêng cho mình, sự sống trong chúng ta sẽ héo tàn
và chết dần chết mòn.
19
Tháng Hai
Thiên Chúa Quan Phòng
Người
Do Thái thường nói đến sự Quan Phòng của Thiên Chúa bằng mẩu chuyện như sau: Có
hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để
chuyên chở hành lý. Để cho con lừa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ. Và đêm
đến họ đốt đuốc để soi đường.
Một người bộ hành là một tín hữu rất đạo đức. Trên miệng ông lúc nào cũng có
câu nói: "Thiên Chúa là Đấng tốt lành trong tất cả mọi sự". Người bạn
đồng hành của ông thì lại là một người rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi
khi ông nghe người bạn ông thốt lên những lời ca tụng lòng thiện hảo của Thiên
Chúa. Lên đường chừng vài phút đồng hồ, ông đã cảnh cáo người bạn có lòng tin
như sau: "Rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào".
Trước
khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ
cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi
làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm. Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn
cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh có tốt không?". Người
bạn đồng hành luôn tin tưởng ở Chúa quan phòng bình tĩnh đáp lại: "Đây là
chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này". Đêm đó, họ nằm ngủ
dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó.
Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ
trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương
tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn
biết leo lên cây để tránh tai họa.
Vừa
tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa
của anh còn tốt nữa không?". Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố:
"Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào
trên chúng ta rồi. Chúa là Đấng tốt lành".
Một
vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao
hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Người
bạn cứng lòng tin chưa kịp thốt ra một lời cay đắng nào, thì người tín hữu
ngoan đạo đã chúc tụng như sau: "Tiếng kêu thất thanh của con gà cồ lại
một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cám ơn Chúa là Đấng tốt lành".
Họa
vô đơn chí. Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt
ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này con người cứng lòng
tin lại lên tiếng mỉa mai như sau: "Xem chừng như Chúa của anh làm việc
phụ trội trong đêm nay". Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ
thing lặng.
Sáng
hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng
đêm hôm đó một băng cướp đã vào làng và họ đã vơ vét tất cả tài sản của dân
làng. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng và nhìn lại sự toàn vẹn của mình,
người tín hữu ngoan đạo mới đắc thắng giải thích cho người bạn như sau:
"Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê
được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của
bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn
chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa là
Đấng thiện hảo".
Tin ở
Thiên Chúa quan phòng không có nghĩa là bảo rằng tất cả mọi tai họa rủi ro xảy
đến trong cuộc sống đều do Chúa gửi đến, nhưng có nghĩa là, khi đứng trước một
bất hạnh mà mình không thể tránh khỏi, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa thiện
hảo và quyền năng đến độ có thể biến sự bất hạnh ấy thành khởi điểm của một
hồng ân cao cả hơn.
Trong
ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để nhìn vào biến cố
trong cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan và tin tưởng ấy. Cái chết ô nhục của Đức
Kitô trên thập giá quả là một bất hạnh và là một tội ác, nhưng Thiên Chúa quyền
năng và yêu thương đã biến thành khởi điểm của nguồn ơn cứu thoát.
Giữa
muôn nghìn thử thách và đớn đau của cuộc sống, chúng ta hãy tin tưởng rằng
Thiên Chúa đang dành cho chúng ta một ân huệ cao cả hơn ngoài sự chờ đợi của
chúng ta. Chúng ta hãy xưng tụng tình yêu quan phòng của Ngài.
20
Tháng Hai
Giáo Đường
Văn
hào Aleksandr Solzenicyn đã ca tụng những ngôi giáo đường bằng những vần thơ
như sau:
"Thư
thái trên sườn đồi, ngạo nghễ trên những ngọn núi cao, hãy ẩn mình trong những
dòng sông sâu, những ngôi giáo đường đẹp như những công chúa vận xiêm y rực rỡ.
Nhìn
xuống những mái nhà gỗ tranh là những ngọn tháp chuông hùng dũng. Từ phố chợ
đến thôn quê, từ đỉnh tháp hướng về trời cao, những tiếng chuông không ngừng
giục giã gọi nhau.
Từ
thuở nào con người vẫn ích kỷ nhỏ nhen. Nhưng chiều về, khi tiếng chuông đổ hồi
trên thôn xóm, trên đồng ruộng, trên núi rừng, người người dừng lại, ngẩng nhìn
và ra khỏi cuộc sống thấp hèn của họ.
Cha
ông của chúng tôi đã để lại phần cao quý nhất cảu các ngài. Mãi mãi, tâm tình
của các ngài vẫn còn ghi khắc trong những viên đá này, trong những tháp chuông
này".
Ở bất
cứ nơi nào trên thế giới, giáo đường vẫn luôn là biểu trưng của sự sống. Còn gì
buồn thảm cho bằng một ngôi giáo đường biến thành bảo tàng viện hoặc không còn
người lui tới.
Giáo
đường là nhà của con người: gặp gỡ giữa trời cao và đất thấp, gặp gỡ giữa con
người với Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn cả, giáo đường chính là nơi gặp gỡ
giữa người với người: gặp gỡ ở trong lời cầu nguyện, gặp gỡ nhau trong chia sẻ,
gặp gỡ nhau trong lời chào bình an, trong cái bắt tay của tha thứ, của hòa
giải, gặp gỡ nhau để nối kết vòng tay với người khác, gặp gỡ nhau để trở lại
cuộc sống với hăng say và nhiệt thành hơn.
Chúng
ta không thể đến nhà thờ mỗi ngày mà vẫn khước từ gặp gỡ với tha nhân. Chúng ta
không thể đến nhà thờ mỗi ngày mà lại không muốn gặp gỡ Chúa trong cuộc sống
hằng ngày. Chúng ta không thể tách biệt nhà thờ ra khỏi cuộc sống. Bao lâu ngôi
giáo đường còn đó, bấy lâu người Kitô vẫn được mời gọi để nối kết đức tin với
cuộc sống hằng ngày.
21
Tháng Hai
Người Cùi Hủi
Raoul
Follreeau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu
chuyện đáng thương tâm như sau:
Trong
một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các
bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi... Tuy không là một phán quyết dứt
khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh
mỗi lúc lại càng xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người
mà họ coi như một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong
một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương
thực tiếp tế mỗi ngày. Vũ trụ của anh chỉ còn là khung mùng phủ kín bốn chân
giường. Ngậm đắng nuốt cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn mỗi một hy
vọng: đó là chốn thoát được chính nhà giam của anh... Ngày nọ, anh đã chốn ra
khỏi khuôn mùng và gia đình của anh. Nhưng chẳng may, người ta đã nhận bắt được
anh. Lần nay, người đàn ông khốn khổ dường như không còn một hy vọng nào nữa.
Anh chỉ còn muốn tìm sự giải thoát qua cái chết...
Lần
thứ hai, anh chốn khỏi vũ trụ tối tăm của anh. Nhưng lang thang mãi mà vẫn
không tìm được sự tin tưởng và giúp đỡ của những người khác, anh đã tìm đến cái
chết như một lời biện hộ cuối cùng. Người đàn ông đã mua thuốc ngủ và tự vận
trước mặt mọi người. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta
yêu cầu cho khám nghiệm tử thi. Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã
không bao giờ mắc bệnh phong cùi...
Những
ai đã và đang sống dưới một chế độ độc tài trong đó mọi thứ tự do cơ bản nhất
của con người bị chối bỏ, đều cảm nhận được sự độc hại của thái độ thiếu tin
tưởng lẫn nhau giữa người với người... Một xã hội mà quan hệ giữa người với
người cjỉ xây dựng trên dối trá, lừa đảo, hận thù, ganh ghét.... Một xã hội như
thế không thể không đi đến chỗ diệt vong...
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để xây dựng Nước Chúa, Nước của Chân Lý,
của Công Bình, của Bác Ái, của sự tín nhiệm lẫn nhau...
Chúa
Giêsu đã để lại cho chúng ta chế độ kiểu mẫu: Ngài không nhìn người bằng một
nhãn hiệu, bằng một lăng kính có sẵn. Tất cả mọi người, dù tội lỗi thấp hèn đến
đâu cũng đều được Ngài nhìn dưới ánh mắt của cảm thông, của yêu thương, của tha
thứ... Tất cả mọi người đều được nhìn dưới ánh mắt yêu thương của Ngài như một
giá trị độc nhất vô nhị trong tình yêu của Thiên Chúa.
Để
được một cái nhìn như thế, chúng ta luôn được mời gọi để gạt bỏ mọi thứ thành
kiến ra khỏi tâm hồn chúng ta. Trong tất cả mọi sự và trong mọi người, chúng ta
hãy mặc lấy cái nhìn của Chúa Giêsu. Chỉ với cái nhìn ấy, chúng ta mới mong tái
tạo được sự tín nhiệm và tin tưởng lẫn nhau trong xã hội chúng ta.
22
Tháng Hai
Lầm Lỗi Là Chuyện Thường
Hôm
nay kỷ niệm ngày sinh của George Washington, vị tổng thống đầu tiên của Hiệp
chủng quốc Hoa Kỳ. Con người đã có công đưa nước Mỹ đến độc lập, tự do và phồn
thịnh ấy nổi tiếng là người nóng nảy, nhưng luôn biết phục thiện và yêu sự
thanh liêm. Ngay từ lúc thiếu thời, ông đã tỏ ra là người đơn thành và sẵn sàng
nhận lỗi của mình...
Ngày
kia, cậu bé George được trao cho một con dao để ra vườn làm cỏ. Trong vườn có
một cây anh đào nhỏ mà cha mẹ cậu rất quý. Chưa phân biệt được thế nào là cỏ
dại thế nào là cây trái, George đã chặt đứt cây anh đào vô cùng qúy giá của cha
mẹ mình.
Cha
của George đau lòng nhìn thấy cây anh đào đổ xuống mặt đất. Ông đã thoáng nghi
George là thủ phạm, nên mới hỏi cậu: "Con có biết ai là người đốn hạ cây
anh đào không? Cha không muốn thấy điều đó lập lại một lần nữa...". George
suy nghĩ một lúc và trả lời: "Chính con là người đã đốn cây anh đào. Cha
cứ phạt con đi".
Và
George ngạc nhiên vô cùng khi nghe cha cậu trả lời: "Điều con vừa làm là
một điều sai trái.Nhưng con đã chữa được điều sai trái đó khi dám nói lên sự
thật. Cha đánh giá lòng can đảm và sự thành thật của con cao hơn là trăm nghìn
những cây đẹp như thế...".
Không
ai trong chúng ta, đặc biệt là tuổi trẻ, mà lại không sống với hy vọng tốt đẹp
hơn trong tương lai. Nhưng phải thành thật mà nói thì cuộc đời không phải lúc
nào cũng là con đường trải hoa, vì nhiều lần chúng ta gặp hoàn cảnh vô cùng tệ
hại. Đố với nhiều người, dường như hy vọng về những điều tốt đẹp chỉ thành tựu
trong mơ mộng mà thôi và thực tế rất phũ phàng.
Tuổi
trẻ đi qua rất nhanh. Ngày tháng trôi qua, chúng ta chẳng mấy chốc già đi. Tóc
trên đầu chúng ta mỗi lúc một điểm thêm nhiều muối tiêu. Sau khoảng 45, mỗi lần
nhìn vào trong gương, chúng ta giật mình thấy mình già mau quá. nhìn lại tập
ảnh của gia đình, lắm khi chúng ta không có can đảm ngắm lâu hơn. Chẳng những
gương mặt, mái tóc bên ngoài, mà tuổi già còn gặp nhiều hạn chế hơn tuổi trẻ.
Những môn thể thao trước kia ưa thích, nay không còn đủ sức để chơi nữa. Cặp
mắt sắc sảo đã phải đeo thêm kính mới đọc được sách. Khi bước vào lớp tuổi 60
trở lên, bước đi của chúng trỏe nên chậm chạp hơn. Trí nhớ mỗi lúc một ra kém
cỏi...
Tuổi
trẻ là một chuỗi những vấp ngã, tuổi già là những tháng ngày để ân hận và hối
tiếc khi chợt nhận ra giới hạn của mình. Cuộc đời là thế. Chúng ta có nên bi
quan không?
Người
Kitô chúng ta luôn được mời gọi để sống hy vọng. Đổ vỡ, thất bại không phải là
những ngõ cụt trong cuốc sống, nhưng phải là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn.
Cuộc đời không phải là một chuỗi ngày giữa chiếc nôi và ngôi mộ. Cuộc đời là
một hành trình đi từ chỗ hữu hạn đến chỗ vô hạn, từ chỗ tuyệt vọng đến chỗ đầy
hy vọng. Và cuối cùng cánh cửa của sự chết mà chúng ta rồi đây sẽ bước qua chỉ
là một khúc quanh của cuộc hành trình này mà thôi...
23
Tháng Hai
Ánh Sáng Hồi Phục
Mới
đây tại trường đại học y khoa Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa
sổ nhân tạo đặt trong các phòng hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi
phục. Người vẽ kiểu cho loại cửa sổ nhân tạo này là một phó nhòm thuộc tiểu
bang
Với
cánh cửa sổ nhân tạo nói trên, nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có
thể cảm thấy như đang tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Trong 24 giờ đồng hồ, ánh
sáng trên khung cửa nhân tạo thay đổi 650 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh
mặt trời lên cũng như những áng mây bay qua khung cửa. Tất cả đều nhằm để giúp
cho bệnh nhân cảm thấy mình gần gũi với thiên nhiên và nhờ đó cảm thấy bớt cô
đơn.
Trong
tương lai gần đây, người ta cũng có thể tạo ra cảnh trăng lên cũng như các vì
lấp lánh trên khung cửa.
Con
người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống. Riêng với con người, ánh sáng
không những cần cho sự sống của thân xác, mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn.
Bóng tối dễ làm cho con người cô đơn và sợ hãi...
Có
nhiều thứ bóng tối trong cuộc sống chúng ta. Bóng tối của ích kỷ, của ganh
ghét, của hận thù, của đam mê... Càng giam mình trong bóng tối ấy, chúng ta
càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh hoạn. Người càng sống ích kỷ, người
càng nghiền ngẫm đắng cay, hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình...
Chúng
ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người cũng như để chữa trị
những băng hoại trong tâm hồn. Có ánh sáng của Lời Chúa để soi sáng dẫn từng
đường đi nước bước của chúng ta. Có những ánh sáng của những nghĩa cử hằng
ngày. Không có một nghĩa cử nào qua đi mà không thêm một chút ánh sáng để giúp
chúng ta hồi phục vì những vết thương đau trong cuộc sống. Một hành động bác
ái, một biểu lộ tin yêu dù nhỏ mọn đến đâu cũng là một tia sáng mang hy vọng
đến cho tăm tối cô đơn trong tâm hồn chúng ta.
24
Tháng Hai
Không Khí
Trong
kho tàng văn chương Ấn giáo, có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến
thưa với vị linh đạo của mình: "Thưa thầy, con muốn gặp Chúa". Vị
linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày
hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn
mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông
đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ
cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị
linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng
vùng vẫy để trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: "Khi
bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?". Không một chút
suy nghĩ, người đệ tử đáp: "Thưa, con cần có không khí để thở".
Lúc
bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: "Con có cảm thấy ước ao gặp gỡ Thiên
Chúa như vậy không? Nếu con khao khát như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc.
Ngược lại, nếu con không hề có ước muốn ấy, thì dù con có vận dụng tất cả tài
trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài".
Chúng
ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã làm việc thiện. Chúng ta thánh thiện
không phải vì chúng ta đã tránh được điều xấu. Chúng ta thánh thiện không phải
vì chúng ta đã cầu nguyện. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta đã sống
tử tế. Chúng ta thánh thiện không phải vì chúng ta can đảm. Chúng ta thánh
thiện không phải vì chúng ta cố gắng rèn luyện ý chí. Chúng ta thánh thiện
không phải vì chúng ta hy sinh phục vụ...
Sự
thánh thiện của chúng ta chính là Thiên Chúa. Chính nhờ tham dự vào sự sống của
Ngài mà chúng ta mới có thể làm việc thiện, mới có thể tránh được điều xấu, mới
có thể cầu nguyện, mới có thể can đảm, vui tươi...
Cũng
như người đệ tử khao khát gặp Chúa, chúng ta hãy xin Ngài ban cho chúng ta được
thông dự vào sự sống của Ngài, để nhờ đó chúng ta mới có thể mang lại hoa trái
của sự thánh thiện.
25
Tháng Hai
Dân Thành Athènes
Ngày
kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes.
Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành
Athènes như thế nào?".
Triết
gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như
thế nào?". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ
Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn
để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế
nữa".
Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi:
"Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết
mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải
rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...
Lần
này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này
ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành
Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".
Câu
chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm
định người khác tùy thuộc ở tình cảm của mỗi người. Cùng một con người ấy, cùng
một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm
định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm
trạng của mỗi người. Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: "Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ".
Người
Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con
người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người
khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ư? Người Kitô hãy cố gắng khám
phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của
người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh
hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...
Đức
cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau: "Do bản
chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con
người hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại... Mỗi một cử
chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc
bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".
26
Tháng Hai
Thiên Chúa Nói Không
Có
một bài thơ của một tác giả vô danh mà Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila,
Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý nhất và thường trích dẫn trong các bài giảng của
Ngài. Bài thơ ấy như sau:
Tôi
đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không".
Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn
đấu để vượt thắng nó.
Tôi
đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời:
"Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm
bợ.
Tôi
đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không".
Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy
mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi
đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không". Ngài
nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi
đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không".
Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa
trái.
Tôi
đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói
rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi
đến gần Ngài.
Tôi
đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng:
"Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết
vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Đàng vì tôi đã tin.
Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói:
"Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi".
Nhìn
lên thập giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để tin nhận rằng Thiên Chúa đã yêu
thương con người, Ngài đã yêu thương đến độ đã ban Người Con Một của Ngài cho
thế gian. Tình Yêu của Thiên Chúa nhiệm màu thẳm sâu đến độ sự thất bại, cái chết
ô nhục đã trở thành Một Dấu Chứng.
Tình
yêu ấy nhiệm màu thẳm sâu đến độ ngay cả khi Thiên Chúa xem ra nói không với
chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin được
khỏe mạnh, và bệnh hoạn vẫn bám lấy chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta xin
được thành công và thất bại lại đến với chúng ta. Ngài nói không khi chúng ta
xin được cơm bánh hằng ngày và đói khổ lại cấu xé chúng ta... Qua những cái
không ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta...
Xin
cho chúng ta cảm nhận được tình yêu ấy mỗi khi chúng ta nhìn lên cái chết ô
nhục của Người Con Một Thiên Chúa trên thập giá. Và cũng giống như Người Con
Một ấy, xin cho chúng ta vẫn tiếp tục dâng lời chúc tụng ngay giữa niềm đau
tưởng chừng như không còn chịu đựng nổi. Và giữa trăm nghìn đắng cay chua xót,
xin cho chúng ta cũng được tiếp tục thốt lên lời xin tha thứ như Ngài... Mãi
mãi, xin cho chúng ta luôn phó thác như Ngài.
27
Tháng Hai
Đám Đông Dưới Chân Thập Giá
Một
trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hòa Lan,
sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "Ba Thập Giá". Nhìn vào tác phẩm,
ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương,
thập giá của Chúa Giêsu trỗi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả
một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn
nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa
Giêsu.
Nhìn
kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút vào trong bóng
tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chẩn đoán rằng đó
chính là khuôn mặt của danh họa Rembrandt. Tại sao giữa đám đông của những kẻ
đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại
chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra
giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội
lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng
góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả
cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng: họ cũng dự phần vào việc
đóng đinh Chúa Giêsu.
Dưới
cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành
động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Phêrô đã
chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông. Những người Do
Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã
đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Dưới
cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một
Mầu Nhiệm. Mầu Nhiệm bởi vì chúng ta lkhông thể hiểu được tại sao Con Một Thiên
Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế? Mầu Nhiệm bởi vì một cách
nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng
đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta, nghĩa là
chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi
của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một
tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đóng đinh vào thân thể Ngài. Khi
chúng ta chối bỏ người anh em, khi chúng ta đối xử tệ bạc với người anh em, khi
chúng ta chối bỏ chính mình mà quên sự đau khổ của người xung quanh, đó chính là
lúc chúng ta dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá.
28
Tháng Hai
Nụ Cười Của Bà Sarah
Kinh
thánh thuật lại rằng, khi bà Sarah, vợ của tổ phụ Abraham, một lão bà gần đất
xa trời, được Chúa cho biết là sẽ cưu mang và sinh con, bà đã có một phản ứng
thật là người và cũng thật là kỳ diệu: bà đã cười!
Phải,
bà cụ già Sarah có lẽ đã cười nắc nẻ khi đứng trước một hoàn cảnh xem ra trớ
trêu như thế: một người đàn bà trên 70 tuổi mà còn được Thiên Chúa cho có
con!... Thiên Chúa xem ra thích khôi hài!
Và
khi Thiên Chúa hỏi tại sao cười, Sarah lại chối rằng mình đã không hề cười. Có
lẽ do sợ hãi mà Sarah đã nín cười. Sự sợ hãi có lẽ không còn cho con người được
nhìn thấy khía cạnh đáng cười, đáng vui trong cuộc sống... Nhưng liền sau khi
sinh con, bà Sarah đã tìm lại được óc khôi hài cho nên bà đã đặt cho đứa con
một cái tên khá ngộ nghĩnh là Issac; Issac theo tiếng Do Thái có nghĩa là được
sinh từ một người đã cười...
Cười,
cười một cách lạc quan: có lẽ đó là một trong những nét nổi bật của người có niềm
tin. Người ta thường định nghĩa rằng: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng
buồn... Tất cả các vị thánh đều là những người có óc khôi hài. Các ngài là
những con người đã từng biết cười với cuộc sống với tha nhân.
Thánh
Phanxicô thành Assisi, vị sứ giả của Hòa Bình, đã có lần tuyên bố: "Hãy
trả lại sự buồn phiền cho ma quỷ, bởi vì chỉ có ma quỷ mới có đủ lý do để buồn
phiền".
Cha
sở họ Ars, là thánh Gioan Maria Vianey, mặc dù thường được người ta tạc tượng
như một con người buồn bã, ảo não, nhưng kỳ thực không ai có tâm hồn vui tươi
lạc quan như Ngài. Thánh nhân đã nói: "Linh hồn của những ai phục vụ Chúa
đều được tràn ngập vui mừng, họ luôn luôn sống như nghỉ ngơi và luôn luôn sẵn
sàng để ca hát..."
Thánh
Thomas Moore khi bị đưa lên máy chém, đã nói đùa với người lý hình rằng hãy để
cho ngài được giúp một tay, cho việc hành quyết được dễ dàng. Ngài còn nói thêm
rằng, sau khi đã chém đầu ngài, chớ đụng đến bộ râu vì bộ râu của ngài không hề
phản bội một ai...
Một
vị tu sĩ nào đó vào thời Trung Cổ đã viết như sau: "Một nụ cười và óc khôi
hài thu hút được nhiều người đến với tôn giáo hơn là những khuôn mặt dài vì ủ
dột".
Chúa
Giêsu bảo chúng ta rằng: khi ăn chay hãm mình hãy xức dầu thơm vào người.
Còn
thứ dầu thơm nào quý giá hơn để tô thắm cho gương mặt của chúng ta cho bằng
niềm vui.
Cuộc
sống dù có trăm nghìn vất vả, đau thương vẫn là cuộc sống đã được Chúa trao ban
như một kho tàng cao quý nhất.
Tình
đời có đen bạc, nhân nghĩa có phôi pha: những con người đang sống với chúng ta
vẫn là những người con cái Chúa và là anh em của chúng ta.
Hãy
cười với cuộc sống, hãy cười với người anh em của chúng ta: đó là sứ điệp của
Kitô Giáo mà trọng tâm chính là Mầu Nhiệm Phục Sinh. Qua Mầu Nhiệm ấy, Thiên
Chúa đã cười cợt, thách thức tội lỗi và sự chết. Sự Sống và Niềm Hy Vọng đã
phát sinh từ cái chết của Đức Kitô.