Hiện
hữu tự nó là một ân ban ; vì thế, mỗi hiện hữu đều mang một ý nghĩa nào đó
trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta được tạo dựng nên nhờ và trong Đức Kitô. Thế nên, chúng ta có sống là sống cho và vì Chúa. Có thể nói, Đức Giêsu phải là điểm qui chiếu cho một cuộc
sống có ý nghĩa và chính Người là ý nghĩa cuộc đời ta. Cùng với thời gian, ý thức ấy dần nguôi ngoai nên hiện hữu kia đôi
khi cũng mờ nhạt cách nào đó. Từng bước, mỗi người lại quay về với căn tính ban
đầu của mình trong Thiên Chúa.
Bạn
hiện hữu từ đời đời trong ý muốn Thiên Chúa. Quả thật, trước khi bạn được hình
thành trong dạ mẹ, Người đã tưởng nghĩ đến bạn. Như bình gốm đã thành hình
trong Thượng Trí Đấng Tối Cao, được nung chảy trong tình yêu Chúa, bạn đã được
nặn ra từ bàn tay vô hình. Trong bạn một phần được tạo nên cho vĩnh cửu, bất diệt;
một phần thuộc thời gian, mau tan. Hai trong một, có thể phân biệt mà không thể
tách biệt. Rồi Người đặt để trong bạn một khát vọng hướng về trời cao và đồng
thời Người sắm sẵn cho bạn đôi cánh khả dĩ giúp bạn vươn cao. Ngày nào bạn còn
ngẩng cao đầu ngày ấy ánh sáng của Bình Minh còn chiếu sáng trên bạn. Ánh sáng ấy
sưởi ấm tâm hồn bạn và ánh sáng ấy cũng soi chiếu con đường bạn đi.
Tại
sao tôi không sinh ra cách đây vài năm trước mà là đến bây giờ tôi mới được hiện
hữu? Câu hỏi ấy đôi khi hết một đời cũng chưa có câu trả lời. Thánh Têrêsa
Calcutta được sinh ra trong thời điểm ấy để giúp những người cùng khốn mang
hình ảnh của Đức Kitô. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sinh ra trong
thời điểm đen tối ấy để làm chứng nhân niềm hy vọng. Còn bạn sinh ra trong khoảnh
khắc này để làm gì? Chắc hẳn, Chúa có lý trong cuộc hiện hữu của bạn. Bạn chỉ
có thể mò mẫm từng ngày trong trái tim Người mới khả dĩ tìm được một câu trả lời.
Dù vậy, nó chỉ là câu trả lời chưa trọn vẹn, không dứt khoát vì ngày nào bạn
còn sống trong thân xác này, bạn còn lần mò trong đêm tối. Chính lúc ấy bạn cần
bám vào Chúa vì Người là câu trả lời chung cuộc cho cuộc đời bạn. Các thánh
không bao giờ cho mình là thánh vì như thế là thánh “tôi” chứ không phải thánh
thật. Các ngài đều có chung một thao thức là sống trọn vẹn trong giây phút hiện
tại với tất cả tình yêu. Quả thật, nơi đâu có dấu vết tình yêu, nơi đó có Thiên
Chúa.
Thiên
Chúa là tình yêu và bạn được sinh ra từ đó, nên bạn được bao bọc trong tình
yêu. Thiên Chúa là Chân, Thiện, Mỹ và bạn được sinh ra từ đó, nên bạn là vẻ đẹp
của Người. Nơi bạn có một nét đẹp ẩn tàng, vô hình mà chỉ mình Thiên Chúa khả
dĩ nhận ra. Đến khi chị Têrêsa HĐGS qua đời, các chị trong dòng kháo láo nhau:
không biết chị này có điểm gì để ta ghi lại trong tiểu sử. Và cả đến lúc lập án
phong thánh, một vị chức sắc thuộc giáo triều đã phát biểu rằng: “Đời chị Têrêsa không có gì lạ cả, chỉ toàn
là những việc tầm thường thôi”. Đức Pio XI trả lời ngay: “Tôi chấp nhận việc phong thánh cho chị, vì
chị đã làm những việc tầm thường”.[1] Vẻ đẹp của chị thánh chỉ được Chúa ghi nhận
qua người thay mặt Chúa ở trần gian. Đó là vẻ đẹp đến từ Thiên Chúa, chứ không
phải hào nhoáng bên ngoài. Vẻ đẹp ấy được sắm lấy bằng những hiểu lầm của nhân
đức khiêm hạ chứ không phải những lời khen ngợi sáo chữ kiểu người đời. Bởi vậy,
Chúa Giêsu có lý khi khuyên chúng ta rằng:
Đừng khinh một ai bé mọn này… vì Thiên Thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng
Cha Ta.
Thân phận của
hạt muối
Dương
và Âm là hai cực nằm trong “biểu đồ” của Thiên Chúa. Chúng đối và nghịch nhưng không xung
và khắc nhau. Trái lại, chúng hòa quyện vào nhau như một thực thể huyền nhiệm
mà mắt trần không sao phân biệt được. Chỉ trong Thiên Chúa hiện hữu ấy mới được
sáng tỏ. Vì chúng từ Chúa mà được sinh ra.
Dường
như trong Thiên Chúa có cả Phụ Tính và Mẫu Tính. Thiên Chúa rất công bằng nhưng
cũng đầy từ bi. Thiên Chúa rất công thẳng nhưng cũng giàu lòng thương xót. Cả
Hai hòa quyện với nhau nên một Thực Thể gọi là Tình Yêu. Sự Kết hợp này huyền
nhiệm đến nỗi tròn đầy trong một Hữu Thể Duy Nhất. Đó là điều có từ trước đời đời
mà chỉ có những tâm hồn hằng khát khao mới chứng nghiệm được.
Tôi
là hạt muối, xin kể lại câu chuyện của tôi.
Cha
tôi là ánh sáng chói chang của Mặt Trời không bao giờ tắt. Nơi người có một
năng lực Dương cực mạnh khiến mọi loài đều tan biến và phơi trần trước mặt người.
Còn mẹ tôi là nước biển của Mênh Mông không bao giờ cạn. Nơi người có một năng
lực Âm cực đại khiến mọi loài đều được tắm mát và chữa lành khi dìm mình trong
đó. Rồi vào một ngày đẹp trời hai cực ấy giao thoa, ánh sáng đi vào trong lòng
biển. Cho đến khi nổi lấm tấm những hạt trắng trên mặt đất. Ấy là lúc tôi được
sinh ra. Tôi đã được kết tinh từ hai nguồn sự sống. Tôi đã được sinh ra như một
định mệnh là kết quả của một tình yêu. Và tôi cũng được gọi là tình yêu. Bởi
đó, có thể định nghĩa muối là gì? Muối là sự kết tinh của một tình yêu vô vị lợi.
Bây giờ tôi mới hiểu lời của Chúa Giêsu: “Anh em hãy là muối cho đời”.
Tại
sao là muối mà không phải là một thứ khác? Phải chăng vì muối mang một sứ mạng
từ khi mới thành hình. Và muối không phải cho mình nhưng là muối cho đời. Thân
phận của muối không thể nào lên tiếng. Chỉ biết sống và giữ mãi sự mặn mà của
tình yêu ban đầu. Làm sao có thể thực hiện điều này nếu không phải là làm sống
mãi những cảm nghiệm về tình yêu mà hai Đấng sinh thành đã trao ban cho tôi. Muối
không cao rao nhưng biểu dương bằng sức sống nội tại đang hằng cuộn trào và từng
giây phút tiếp tục kết tinh nên tôi. Muối một ngày sẽ nhạt nhưng nó lại tái kết
tinh trong sự giao thoa của tình yêu ấy. Và cứ thế mỗi ngày nó lại được sinh
ra.
Và
còn một điều tôi quên không nhắc tới. Đó là trong khoảnh khắc giao thoa huyền
nhiệm ấy có một Làn Khí bóc lên là là và phủ trên tôi. Tôi cảm nhận một phần sự
sống trong tôi bay lên. Đồng thời có một bàn tay vô hình nào đó vỗ về và bảo
tôi: “Hãy ở lại đây một thời gian nữa, Ta có một sứ mạng gởi đến con. Hãy là
tình yêu mặn mà trong thế gian này”. Dường như đó là lời của Chúa Cha với sự chứng
giám của Chúa Giêsu và trong sự bảo toàn của Chúa Thánh Thần. Đó là sự giao
thoa huyền nhiệm Nên Một giữa Ánh Sáng, Nước Biển và Làn Khí mà chỉ có hạt muối
mới cảm nghiệm được thôi.
Lời
cuối cùng tôi muốn nói rằng: Tôi và bạn hãy là muối mặn mà trong thế gian này
nhé! Và thế giới chỉ mặn nồng khi hạt muối đã được hòa tan. Chỉ khi nào muối
xóa mình đi, muối không còn là muối nữa khi ấy mọi sự sẽ trọn vẹn và lâu bền.
Lời
tâm sự của muối chắc hẳn cách nào đó làm bạn suy nghĩ lại sứ mạng của bản thân.
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Chúa muốn con làm gì cho Chúa không?” Vì chưa bao giờ bạn
hỏi nên Người có trả lời bạn cũng chẳng sẵn sàng để nghe. Bạn cứ mãi quay quắt,
quanh quẩn tìm kiếm những thứ trang sức phô diễn bên ngoài chỉ một thời gian là
tàn phai, cảnh đời vô thường là thế! Những cái bạn đang sở hữu chỉ là những cái
“có” được đo lường bằng vật chất, nay còn mai mất. Chúng ta là một “tinh thần
nhập thể”. Hiện hữu của bạn, tự nó là một vẻ đẹp. Bạn không cần tô điểm thêm
bên ngoài bằng những trang sức lỉnh kỉnh, linh tinh ấy đâu! Có một vẻ đẹp bạn
đáng ước ao như thánh Phaolô nói, đó là mặc lấy Đức Kitô. Quả thật, Đức Kitô là
vẻ đẹp của bạn. Vẻ Đẹp mà thánh Augustino nói là Vẻ Đẹp vừa xưa nhưng lại mới
mãi. Vì sao lại có một Vẻ Đẹp lạ lùng thế! Vừa cũ lại vừa mới mãi? Thưa: vì vẻ
đẹp ấy luôn được tái sinh trong bạn. Và một khi bạn khoác vào vẻ đẹp ấy, bạn sẽ
là vẻ đẹp của Người.
Bạn
đừng tìm kiếm sự khen ngợi nơi người đời. Họ không thể khám phá ra vẻ đẹp của bạn
nếu không sống trong Thần Khí. Thật vậy, người đời chỉ khám phá ra vẻ đẹp của
thánh nữ Têrêsa HĐGS khi chị đã qua đời. Cuốn Tự Thuật của chị được viết bằng máu,
nước mắt và Thần Khí. Có thế, một người sống trong bốn bức tường của dòng Kín lại
được Thần Khí đặt làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Một hạt muối âm thầm chẳng
bao giờ lên tiếng mà lại có một sứ mạng bao trùm cả thế giới này. Quả thật, chỉ
có hạt muối tình yêu mới có thể vượt mọi biên giới để đến với muôn dân. Chỉ có
hạt muối quên mình mới ướp cho mặn những tấm lòng tan vỡ, rữa nát. Muối không
chỉ giữ cho thức ăn lâu bền nhưng còn sát trùng và chữa lành nữa! Chỉ có hạt muối
dễ tan mới mau thấm nhập vào những ngóc ngách của cuộc đời. Nhờ thế, nó lại được
tái sinh và mặn mà như xưa. Tình yêu mặn mà ấy vẫn thế vì mặc lấy Đức Kitô.
Hiện
hữu của con người thật cao trọng vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa.
Trong đó, việc con người được hưởng tự do là dấu chỉ rõ ràng nhất nhằm giải
thích con người là hình ảnh của Ngài.[2] Nếu Thiên Chúa toàn quyền tự do hành động
theo bản tính thiện hảo của mình thì con người cũng được mời gọi sống những giá
trị thiện hảo nhất nhằm xây dựng bản thân mỗi ngày nên đồng hình đồng dạng với
Người. Tự do của con người thật cao cả, nó có thể dùng tự do để yêu mến Thiên
Chúa, đồng thời, lạm dụng nó mà khước từ Ngài. Con người không thể nào sống mà ở
ngoài Ngài nhưng thực tế con người muốn loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình.
Đó là một hiện hữu ảo.
Có một
sự ảo tưởng về hiện hữu của bản thân khi con người tách mình ra khỏi nguồn sống
là chính Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta không thể sống, cử động và hiện hữu ở
ngoài Người. Thế mà người Con Hoang Đàng lại muốn tách mình ra khỏi nguồn sống.
Anh muốn tự do kiếm cho mình một không gian không có Thiên Chúa. Phải chăng
trong thế giới vô thần con người có một thứ tự do tuyệt đối và hiện hữu sung
mãn?
Thánh
Augustino nói: khát vọng là chiều kích hiện hữu nền tảng của con người. Có thể
nói, sống khát vọng làm cho con người ý thức có một cái gì bên ngoài mình và lớn
hơn mình khiến bản thân phải ngưỡng vọng trời cao. Nếu Thiên Chúa đặt để khát vọng
trong tim con người thì chỉ mình Người có thể lắp đầy vực thẳm ấy. Nhưng nếu
con người đảo ngược bậc thang giá trị: đặt mình làm Thượng Đế hay tôn người
khác làm thần tượng, thì khi ấy con người sống trong ảo tưởng về hiện hữu siêu
việt nào đó của mình. Thực chất chúng ta là con Thiên Chúa, là một siêu nhân.
Nhưng chúng ta chỉ thực sự là con khi chấp nhận Thiên Chúa là Cha, nghĩa là
chúng ta tùy thuộc vào Người. Như người Con Hoang Đàng, chúng ta tách mình ra
khỏi thế giới của Thiên Chúa là nguồn sống thực. Lúc đó phản ứng của Thiên Chúa
ra sao? Người im lặng. Người tôn trọng sự tự do của bạn và để bạn ra đi. Bạn
xin gì, Người cũng cho. Bạn xin của gia tài điều không thể thực hiện khi Cha
còn sống, Người cũng ban cho bạn, cốt sao cho bạn hạnh phúc. Người không đi tìm
bạn nhưng “bất lực” ngóng chờ bạn quay về. Người biết chắc bạn sẽ quay về, vì
biết rằng của cải vật chất không bao giờ làm bạn thỏa mãn. Trái tim bạn được dựng
nên chỉ để cho Người. Chính khi bụng đói lả, lòng trống không, đến cả đậu muồng
heo cũng không được nuốt vào, thì nỗi khát vọng muôn thưở lại lên tiếng. Chỉ
khi con người thực sự bất lực, Thiên Chúa mới ra tay. Thế chúng ta mới hiểu: chính lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh. Thật
vậy, Thiên Chúa chỉ thực sự tỏ lộ quyền năng trong sự yếu đuối. Mà quyền năng lớn
lao nhất của Người là lòng xót thương. Đúng thế, chính lúc thứ tha là lúc Chúa
thể hiện quyền năng cách tỏ tường hơn cả.[3] Người tha thứ không chỉ để chúng ta yên ổn
lương tâm nhưng còn chữa lành về mặt tâm thể lý. Người không chỉ hồi phục cho
chúng ta tước vị làm con của Người mà con giúp ta mở ra với tha nhân. Bữa tiệc
là biểu tượng cho niềm vui lớn lao này.
Như
vậy, trong thế giới vắng bóng Thiên Chúa không có niềm vui trọn vẹn của một tâm
hồn tự do đích thực. Từ đây, người Con Hoang Đàng hiểu rằng: chỉ trong Chúa,
con người mới có tự do đích thực. Đúng thế, tự do thực sự là chọn lấy Sự Thiện
hảo nhất đó chính là Thiên Chúa.
Tình
thương Chúa bền vững muôn đời
Còn
lòng người thay đổi muôn năm.
Chúng
ta sẽ tiếp tục sai đường lạc lối, Thiên Chúa lại tiếp tục dẫn dắt trong yêu
thương và tín thành. Đó là điều xác tín còn lại sau những gì đã mất.
Con
người là một hữu thể hữu hạn, bất tất, đang trên đường hoàn thiện. Quả thật,
như thánh Phaolô đã khẳng định, con người là chiếc bình sành dễ vỡ chứa đựng hồng
ân của Chúa. Nếu như lầm lỗi là chuyện thường tình nơi con người thì việc chữa
lành là chuyện thường hằng nơi Thiên Chúa. Có thể nói, cả cuộc đời con người là
một cuộc hiện sinh được chữa lành. Chúng ta đi từ sai lầm này đến tội lỗi khác,
từ ảo tưởng này đến ảo vọng kia. Nhưng chính kinh nghiệm vấp ngã sẽ giúp bạn hiện
hữu ngày một tràn đầy hơn.
Đến
đây, chúng ta tiếp tục quay lại vấn nạn ban đầu: sa ngã, tội lỗi có gắn liền cuộc
sống chúng ta?
Thánh
Augustino đã giải thích có một thứ Tội Hồng Phúc. Nói cách khác, tội là cơ may
giúp bạn đến gần Thiên Chúa. Đúng hơn, khi ý thức về tình trạng tội lỗi của
mình, con người càng được chữa lành trong ân sủng Chúa. Khi ý thức về sự bất lực
của mình, con người càng bám chặt vào Chúa. Mỗi lần sa phạm tội, là mỗi lần
chúng ta khoét sâu vực thẳm ngăn cách giữa mình với Thiên Chúa. Nhưng khi biết
mở rộng lòng ra, chúng ta lại được Chúa thương chữa lành. Quả thật, tội lỗi
đã tạo ra một vết thương có tác dụng tốt. Chúa cho phép nó xảy ra để Ngài có thể
tìm được con đường đi vào tâm hồn chúng ta.[4] Mỗi dịp sa sẩy, là mỗi dịp nhận ra mình yếu
đuối và học bài học khiêm nhường. Cha thánh Biển Đức có lý khi mời gọi các đan
sĩ bắc một nhịp cầu đến Thiên Chúa qua 12 bậc khiêm nhường. Có thể nói, tội lỗi
và Lòng Thương Xót làm nên mầu nhiệm mà mỗi ngày đan sĩ chân tu không ngừng tâm
niệm.
Nếu
như hiện hữu ảo tách con người xa lìa Thiên Chúa thì tình trạng đồng hiện hữu lại
giúp con người giao hòa với Người và mở ra với tha nhân.
Con
người đã sống là sống với. Quả thật, con người không thể sống mà không nhờ một
ai khác. Tương quan liên vị trở thành yếu tố sống còn của một hiện hữu nhân vị.
Nhưng
ngày nay, nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin, con người có thể nghe tiếng
nhau, nhìn mặt nhau mà không thể đụng chạm nhau vì mỗi người là một thế giới,
mà nói như linh mục Thiện Cẩm là sự hiện diện vắng mặt. Quả thật, “thế giới tuy đầy dãy sự vật, nhưng thực ra lại
trống rỗng, bởi vì sự vật đã làm đông đặc các tâm hồn, khiến chúng ta khó có thể
gần gũi cảm thông. Thế giới hiện đại đã vật chất hóa con người, khiến cho sự hiện
diện của ta cũng chỉ còn là một sự có đấy như một cái bóng, cái hình, chứ không
phải là bản thân ta”.[5] Thật vậy, con người có thể dành cả vài tiếng
đồng hồ để có thể nhìn mặt và trao đổi trên màn hình mà bên cạnh nhà có người
đang hấp hối lại không hay biết. Điều này phản ánh một thái độ duy tâm,[6] thờ ơ với thực tại quanh ta.
Bởi
đó, sự hiện diện đích thực là hiện diện của toàn vẹn con người với tất cả năng
lực bản thân để yêu thương, chia sẻ, để sống và hiện diện bên nhau.
Chúng
ta không ngạc nhiên khi thấy rằng các triết gia hiện sinh hữu thần như Gabriel
Marcel, Karl Jasper… đều khẳng định: yếu
tính của hiện hữu là tình yêu. Nói cách khác, tình yêu nâng đỡ, bao bọc và
là “nhớt” bôi trơn làm sinh động hiện hữu con người. Đến đây, chúng ta có thể
hiểu phần nào câu nói của thánh Têrêsa HĐGS: Trong lòng Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu. Thật ra, câu khẳng định
này chỉ nhắm đến ơn gọi của thánh nữ trong Giáo Hội; tình yêu, trái tim, một bộ
phận trong toàn Thân Thể mầu nhiệm. Còn tình yêu ở đây, gồm tóm cả hiện hữu con
người mà thánh nhân khát khao là con tim trung tâm của hiên hữu Giáo Hội.
Một
lần nữa, chúng ta nhắc đến lòng khao khát, là dịp tốt để chúng ta xác tín hơn
câu nói của thánh Augustinô: khát khao là
chiều kích hiện hữu nền tảng của con người.[7] Câu nói này một khi được đặt trong quan niệm
của các triết gia hữu thần: yếu tính của hiện hữu là tình yêu, chúng ta sẽ thấy
rằng điểm đi và điểm đến của mọi khát khao của con người là tình yêu; nói cách
khác, tình yêu là điểm qui chiếu của mọi hiện hữu con người, là tiếng nói và biểu
hiện thường hằng của một tâm hồn sống khát khao tình yêu thực sự.
Nếu
như sống tình yêu là sống chiều kích thiên đàng thì tại sao lại có kẻ bảo: tha
nhân là hỏa ngục. Xem ra, đồng hiện hữu nhưng lại loại trừ nhau. Xét cho cùng,
ai quan niệm như thế, chính hiện hữu của bản thân là hỏa ngục cho họ. Nhưng thực
tế cho thấy, cách nào đó, tất cả chúng ta đều đã trải qua kinh nghiệm này trong
tâm hồn. Đúng thế, mỗi lần phạm tội, chúng ta là thù nghịch cho chính mình, cho
tha nhân và tất nhiên, cho Thiên Chúa nữa. Sự giằng co quyết liệt trong mỗi quyết
định chọn Chúa hay chọn “bản thân” là một lần con người trải nghiệm: tình yêu
không phải là tiếng nói của hữu thể ta. Và nói như thánh Phaolô, tội vẫn ở
trong ta (x. Rm 7,20). Hỏa ngục ấy như một thứ hỗn mang tiếp tục bao trùm lên đời
sống của con người, cho đến khi mỗi người tự khêu gợi lại lòng khát khao hướng
về Thiên Chúa. Dù sao trong chúng ta vốn chất thiện vẫn còn đó. Ấy là dấu hiệu
sự hiện diện còn lại của Thiên Chúa trong tâm hồn. Chắc chắn, Người không bỏ
rơi chúng ta. Người vẫn ngóng chờ như người cha trong dụ ngôn, tỏ ra bất lực
nhưng hy vọng một ngày chúng ta lại nhận ra tình yêu thương của Người. Như thế,
Người để chúng ta hoàn toàn tự do quyết định và chịu trách nhiệm mọi hành vi của
mình. Tự do đích thực là chọn Chúa và sống tình yêu thương trong mọi tương quan
nhờ đó mà đi vào chiều kích dài rộng cao sâu của tình yêu Chúa. Như thế, tình
yêu và hiện hữu là một trong Thiên Chúa.
Ơn gọi của con tim
Tôi
không biết mình đã sinh ra từ đâu, từ những mảnh ghép của các thiên thể hay một
sự tích tụ nào của thiên nhiên. Nhưng tôi cảm nhận một Sức Mạnh từ bên ngoài và
bên trên tôi, đã kéo tôi ra và đặt trong một không gian thuận lợi nhất nơi lòng
ngực con người. Đây là một thuận lợi nhất vì tôi được đặt làm trung tâm mà mọi
ngõ nghách và mọi con đường đều qui về tôi. Mọi sự đều hướng về tôi, mọi con đường
đều qui về tình yêu.
Không
biết từ khi nào, tôi đã là biểu tượng của tình yêu. Có thể vì tôi ban phát máu
một cách nhưng không và quả thật tôi cũng nhận nhưng không.
Máu
là biểu hiện của sự sống, cũng có lẽ vì thế, tôi là yếu tính của hiện hữu. Tôi
không chỉ làm cho con người sống mà còn sống dồi dào. Vì theo thánh Phaolô
không có gì cao cả hơn tôi, linh đạo của con tim. Nhưng tôi không tự mình mà
có, tôi còn suy phục một Đấng trên tôi, Người đã ban cho tôi hiện hữu. Như thế,
tôi được mệnh danh là tình yêu vì kết hợp với Người là Đấng Tình Yêu.
Tôi
tự hỏi mình là gì trong Thân Thể mầu nhiệm, tình yêu là gì trong linh đạo tâm
linh và tự hiến là gì trong tình yêu Thiên Chúa. Cho đến một ngày mũi tên say đắm
bắn trúng con tim hồng, tôi mới hiểu con tim phải chết đi cho Tình Yêu lên tiếng
và rồi Chúa đã phục sinh trong tôi. Con tim lại tiếp tục đổ máu và nước đến giọt
cuối cùng cho Giáo Hội được phong nhiêu. Thật tuyệt vời! Con tim và Giáo Hội đồng
hiện hữu.
KẾT LUẬN
Dù
chúng ta đang sống theo cách thức hiện hữu nào, một điều luôn đeo đuổi chúng
ta rằng: tôi hiện hữu là nhờ và trong Chúa. Quả thật, hiện hữu của tôi
là một ân ban đến từ Chúa. Ý thức được điều này, tôi sẽ tâm niệm rằng tôi chỉ
thực sự hiện hữu khi hiện hữu cho Chúa, nghĩa là ra khỏi mình để sống cho Chúa
và qua Người, tôi tìm được hình ảnh đích thực ấy nơi tha nhân. Có thể nói,
chính những tương quan này sẽ làm sống động hiện hữu của tôi và khiến cho đời sống
tôi thực sự có ý nghĩa. Ý nghĩa được hiểu ở đây là sự thông chia đặc tính phong
nhiêu của mỗi hiện hữu trong mọi hiện hữu. Tôi hiện hữu trong mọi người và mọi
người hiện hữu trong tôi, đó là lý tưởng của những ai thực sự đang cảm nghiệm
thực tại sống trong Chúa, cần đạt đến.
EYMARD
An Mai Đỗ O.Cist.
[1] x. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng, tr 399.
[2] X. Sách GLHTCG số 1705.
[3] Lời nguyện của Chúa Nhật tuần 26 TN.
[4] Henri Boulad, Tất cả là ân sủng, người dịch Phạm Quốc Huyên, Nxb Tôn Giáo, tr.226.
[5] Thiện Cẩm, Chúa làm người, tr 27-28.
[6] Có thể hiểu là những người sống nhiều với ý chí và ý tưởng (thiếu thực tiễn) mà đôi khi lãng quên thân xác đang cần những tương giao đích thực.
[7] Anselm Grun, Hãy mở giác quan bạn cho Thiên Chúa, Nxb Phương Đông, tr 71.