TỰ DO THEO TÂM THỨC
CON NGƯỜI THỜI ĐẠI
Nhân loại đã trải qua một
thời của chế độ phong kiến, cảnh con người làm nô lệ cho con người. Đó là thời
của nhân phẩm bị coi thường và giá trị con người được mua bằng cấp bậc trong xã
hội. Ngày nay xem ra con người có nhiều tự do để sống với những hoài bão của
mình. Tuy nhiên, với phong trào “hippie” của thập niên 60-70 vào cuối thế kỷ
XX, đã khẳng định giá trị con người một cách quá đáng; người ta để tóc dài, đi
xe phân khối lớn, hành xử theo kiểu mạnh được yếu thua, nói năng phá cách…Những
hình thức ấy, dường như đẩy con người vào một xu hướng nộ lệ khác: nộ lệ cho
chính mình. Dù dưới hình thức nộ lệ nào, nó đều dẫn đến việc con người đánh mất
đi sự tự do đích thực để có thể sống như là
chính mình.
Từ tinh thần tục hóa đến duy thế tục
Một trong những đặc nét
biểu hiện tâm thế tự do của con người là sự phát triển của trào lưu thế tục. Thật
vậy, có thời người ta yêu cầu phá gỡ mọi biểu tượng tôn giáo ra khỏi nơi công cộng.
Họ cho rằng tự do tôn giáo hoàn toàn mang tính cá nhân và đồng nghĩa với việc mọi
biểu tượng tôn giáo - chẳng hạn như thánh giá - phải được gỡ bỏ tại những nơi
công cộng. Mặc dù, việc phản đối này chỉ do một vài cá nhân hay một vài nhóm lẻ
tẻ nhưng cũng tạo nên một làn sóng “khử thiêng” về mọi phương diện trong đời sống
con người. Chính Công đồng Vaticanô II cũng đã cảnh báo cho lối sống này: tư tưởng duy thế tục, một
chủ trương mà trong đó người ta đòi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và đòi
hỏi một sự độc lập tuyệt đối cho con người trước định mệnh của mình trong mọi
công cuộc xây dựng trần thế và mọi giá trị tự nhiên.
Chúng ta biết rằng Kitô
giáo một thời là quốc giáo ở các nước phát triển, và những biểu tượng tôn giáo
đã trở thành những nét đẹp tiêu biểu trong nền văn hóa Tây Phương. Có thể nói, những
biểu tượng tôn giáo không chỉ truyền tải sứ điệp nào đó trong Tin mừng mà nó
còn gợi nhắc một nền luân lý lành mạnh hướng dẫn con người tìm về tính siêu việt
của đời sống hằng ngày. Nghĩa là giúp con người sống tốt hơn với mọi chiều kích
tương quan của đời sống: thiên nhiên, tha nhân và Thiên Chúa. Có thế, đời sống
tâm linh của con người ngày thêm mạnh mẽ hầu đứng vững trước mọi chiều gió đạo
lý. Thế mà, một khi con người công khai chống đối việc treo cao biểu tượng tôn
giáo, cách nào đó, họ phủ nhận chiều kích siêu nhiên trong đời sống con người.
Đối lại, họ đề cao tự do đến mức quá đáng, rằng con người có quyền tự do tuyệt
đối và tự quyết hoàn toàn đối với vận mạng của mình. Họ coi mình là luật; điều
gì lợi ích cho bản thân thì họ coi là lành là thánh. Điều này phản ánh một lối
sống luân lý tùy tiện lấy con người làm thước đo vạn vật.
Với chủ trương của triết
gia Albert Camus: con người nên thánh không cần Thiên Chúa, một số người đi tìm
một đời sống tâm linh không có Thiên Chúa. Với những kinh nghiệm thần bí khép
kín trong bản thân mình, họ tự thỏa mãn trong tính nội tại của chính mình và
nói như Đức Phanxicô: họ chỉ quan tâm đến một kinh nghiệm cụ thể nào đó hoặc một
loạt các lý luận và kiến thức được coi là an ủi và ánh sáng, trong khi đối tượng
vẫn đang bị giam kín trong tính nội tại của những lý luận và cảm xúc riêng của
mình.[i] Điều này kéo theo một lối
sống hình thức chuộng vẻ bên ngoài, vì hoàn toàn cậy dựa vào sức mình, họ gượng
ép uốn nắn bản thân theo những tiêu chuẩn “thời thượng” nào đó. Họ tưởng thế là
sống tự do nhưng kỳ thực, họ lệ thuộc vào bản tính hay thay đổi của mình.
Tưởng cũng cần nhắc lại, vào thời khoa học kỹ thuật phát triển
như ngày nay khi con người đề cao khả năng lý trí của mình rằng có thể giải
quyết mọi vấn đề của đời sống và bảo đảm cho nhân loại một sự tiến bộ ngày càng
lớn mạnh mà không cần phải nhờ tới tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo. Chính tinh
thần duy thế tục này đã làm giãn nở giới hạn của lý trí và đức tin đến mức đối
lập và cự tuyệt lẫn nhau.
Ở mức độ nào đó, tiến trình tục hóa được coi
là cần thiết khi đưa tới việc nhìn nhận một sự độc lập đúng đắn của các thực
tại trần thế và nhân bản, nghĩa là sự độc lập của nhà nước: văn hoá, chính trị,
đời sống xã hội. Công Đồng cũng khẳng định rằng thế giới tức là thực tại thế
tục có giá trị và những qui luật riêng biệt của nó; vì thế việc đòi hỏi một sự
độc lập của các thực tại thế tục bao hàm các thụ tạo và các xã hội là điều hoàn
toàn chính đáng và hợp với ý muốn Đấng Tạo Hóa.[ii]
Nhưng khi một số người giải thích sự kiện này đến mức thái quá theo lập trường
duy thế tục, nghĩa là coi các thực tại nhân bản hoàn toàn tuyệt đối độc lập
khỏi Thiên Chúa và các luật luân lý tự nhiên, vốn là cốt lõi của luân lý Kitô
giáo, thì Giáo Hội không ngừng lên án chủ trương này. Nói như thế, không có
nghĩa Giáo Hội muốn dành độc quyền giải thích chân lý này, nhưng khuynh hướng
duy thế tục làm băng hoại đời sống con người nói chung, cách riêng các kitô hữu
cũng không loại trừ bị miễn nhiễm.
Điều này chúng ta có thể kiểm chứng về cách
sống của con người thời đại khi lạm dụng tự do mà sống theo tính xác thịt. Một
khi loại trừ Thiên Chúa, hiện hữu con người chỉ là ngẫu nhiên. Thay vì giải
thích con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, họ coi đó là một tiến
trình tiến hóa của một nhánh con người siêu đẳng. Từ đây, phẩm giá con người bị
giản lược đến mức tối đa. Và một khi hiện hữu con người không còn hữu ích cho
xã hội, họ cũng toàn quyền tìm đến cái chết, và nếu bản thân không còn khả năng
tự quyết vì bất tỉnh, người khác cũng được quyền cướp đi mạng sống của đương sự
nhân danh lòng thương xót, nghĩa là kết thúc sự đau đớn thể lý của người khác
bằng cái chết êm dịu (an tử). Trái lại, khi giải thích con người mang hình ảnh
Thiên Chúa và sự sống con người vốn thánh thiêng vì phát xuất từ Ngài, thì đòi
buộc con người phải tôn trọng sự sống từ khi thụ thai đến lúc chết tự nhiên. Và
khi ấy, sự sống bào thai được thành hình trong dạ mẹ phải được tôn trọng như
một nhân vị “tuyệt đối”, nghĩa là không bất cứ một ai có quyền giết hại một
thai nhi kể cả người mẹ, vì mọi hiện hữu đến từ Thiên Chúa.
Và còn nhiều vấn đề liên quan đến đời sống
luân lý của con người nhưng không thuộc giới hạn bài viết này. Ở đây, người
viết chỉ muốn nêu bật tầm ảnh hưởng của tinh thần duy thế tục lên tâm thức và
tự do của con người thời đại.
Chủ nghĩa tự do
Chúng ta cần nhìn nhận vài điểm mạnh từ trào
lưu này khi họ nhân danh tự do mà đề cao chủ thể tự quyết và tính độc đáo của
nhân vị. Thật vậy, xét trên bình diện hiện hữu, tự do của con người mang tính tự
quyết và chủ thể hoàn toàn chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. Điều
này là một điểm tích cực nếu được hiểu biết và áp dụng trong đời sống cộng đồng.
Thêm nữa, họ còn đề cao tính độc đáo và duy nhất, hoàn toàn độc lập, giữ vai trò quyết định và phải
được ưu tiên trên hết so với cộng đồng, tập thể, xã hội. Họ tin rằng bản thân
có đủ lý trí và năng lực sáng tạo trong mọi hành động giúp xây dựng con người
toàn diện. Đây cũng là một điều đáng trân trọng vì hơn bao giờ hết, con người
ngày nay bị giản lược và xếp ngang hàng với sự vật nhằm phục vụ cho những dự
phóng của kẻ có quyền thống trị và thao túng người khác.
Tuy
nhiên, cũng từ những điểm tích cực ấy một khi vượt quá mức giới hạn của bản
thân, sẽ biến thành trở lực thay vì trợ lực giúp cá nhân hoàn
thành định mệnh đời mình. Thật vậy, John Stuart Mill (1806-1873), trong tác phẩm
“On Liberty” (Về tự do) công bố năm 1859, đại diện cho những người chủ trương lập
trương này để đưa ra nguyên tắc “không làm hại” (harm principle), theo đó mọi
người đều được tự do làm những điều mình muốn, kể cả điều có thể làm hại chính
mình, miễn là hành vi của người này không làm tổn hại đến người khác và xã hội.
Ông lập luận rằng nếu hành vi của cá nhân liên quan đến một mình anh ta thì anh
ta được tự do tuyệt đối, cá nhân có toàn quyền đối với cơ thể và tinh thần của
anh ta. Và cứ theo quan điểm này, con người dần dà trở thành một tên khát máu
chính mình. Họ có thể hủy hoại một phần thân thể của mình để mua lấy một chút
danh dự ảo, một sự trọng vọng nơi người khác. Đến một mức độ nào đó, họ tưởng rằng
mình có quyền sinh sát chính mình. Đây là một lập trường với hình thức khước từ
Thiên Chúa, Chủ Tể của sự sống muôn loài. Như thế, thay vì tự do giúp con người
sống cởi mở và triển nở với mọi tương quan, lại khiến con người co cụm trong
chính mình để duy trì một thứ tự do tuyệt đối nào đó. Chung cục, họ phá bỏ những
chiếc cầu rồi xây tường đắp lũy để hưởng thụ và thỏa mãn chính mình. Đó là một
thứ hành động điên rồ của kẻ tự do phóng túng dẫn đến tù túng.
Lập trường
này còn dẫn đến một cuộc phủ nhận hoàn toàn và tuyệt đối với Thiên Chúa. Họ buộc
phải tuyên bố “Thiên Chúa đã chết” để có thể tự do đạt đến đỉnh cao của tri thức
nhân loại và hành động bất chấp mọi qui luật cuộc sống. Tất nhiên, họ trở thành
luật cho chính mình. Mới sinh ra, tôi chưa là gì cả nhưng nhờ tự do, tôi khả dĩ
hoàn thành sứ mạng đời mình. Mọi sự có ý nghĩa và hữu dụng ra sao là tùy thuộc
vào tự do định đoạt của tôi. Tắt một lời, tôi thay quyền Thượng Đế.
Xét về mặt
lý luận, họ không thể nào chứng minh không có Thiên Chúa, thay vào đó, họ vô hiệu
hóa tầm ảnh hưởng của Ngài trên nhân loại. Rằng: Thiên Chúa hiện diện đó nhưng
chẳng ảnh hưởng gì trên quyết định và đời sống của tôi. Từ đó, họ ém nhẹm tiếng
nói lương tâm nhường chỗ cho mệnh lệnh của kẻ có quyền và có tiền.
Nghĩ rằng người có quyền
và có tiền mới đáng mọi người tôn trọng, phẩm giá mới được nâng cao, họ nhắm mắt,
bịt tai lao vào một cuộc chinh phục vô định không hồi kết thúc của quyền lực và
tiền tài. Họ dùng quyền mà tự do sai khiến người khác, còn người kia được “tự
do” mà phục quyền họ. Thế mà, họ vẫn cao rao: nhân phẩm thì bằng nhau nhưng đẳng
cấp thì khác nhau. Còn tiền, họ dùng như cán cân xoay chuyển cả một thời đại.
Quả thật, mọi sự đều được mua bằng tiền, còn thứ gì không mua được bằng tiền
thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền. Tiền là tiên là phật, là sức bật của lò
xo; hơn nữa, là đòn bẩy đẩy tôi lên đỉnh cao của danh vọng.
Chủ nghĩa tự do không dừng
lại ở đó, họ còn lao vào một cuộc hưởng thụ khoái lạc. Họ dùng tiền làm phương
tiện giúp cuộc sống sung túc, điều này thật chính đáng, nhưng một khi dùng tiền
để mua chuộc những tâm hồn “đói khát” nhằm kéo dài đời sống xa hoa trên mô hôi
nước mắt của người khác, đó là một sự băng hoại từ bên trong. Bên cạnh đó,
khoái lạc cũng là một cơn cám dỗ vô cùng tinh xảo. Thật vậy, tiền giúp họ mua
vui qua đêm, “ăn bánh trả tiền” người ta còn tưởng mình là vị ân nhân của những
ả buôn hoa bán phấn vì giúp họ tăng thêm thu nhập cho cuộc sống. Nhưng kỳ thực,
những hạng người như thế đã khiến tăng thêm tính trầm trọng của tệ nạn xã hội.
Hệ lụy của một tâm thức
nhân loại quá đà về tự do như thế đã để lại nhiều vết thương cho cá nhân và tập
thể. Dẫu đã nhận ra và chứng nghiệm cụ thể, nhưng không vì thế, con người thời
đại khả dĩ vượt qua những cám dỗ này. Thiết tưởng, con người cần làm mới tâm thức
mình từ sự nhận thức về giá trị của bản thân như: nhân phẩm, lòng tự trọng…và
yêu thương bản thân cách đúng đắn. Thật vậy, con người không thể tôn trọng phẩm
giá của mình và người khác, nếu không ý thức con người mang hình ảnh Thiên
Chúa, hoặc con người không thể yêu thương mình thực sự nếu không khám phá ra kế
hoạch yêu thương mà Thiên Chúa dành cho mỗi nhân vị độc đáo và duy nhất.
EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
[i] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin Mừng), số 94.
[ii] X. Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng, số 36 & 42.