Cơn khủng hoảng về Chúa trong thế giới hiện đại
Phần đông người thời nay không còn nghĩ về sự thiêng thánh và tội
lỗi với một niềm tin tưởng cung kính và một sự e ngại, dè dặt, lo sợ như xưa
nữa, khi ý thức về hai thứ đó còn khá mạnh mẽ trong tâm tưởng mỗi người và
trong sinh hoạt của xã hội.
1. Khái niệm về khủng hoảng
Khủng hoảng là từ thường gặp thấy trong đời sống hằng ngày. Người
ta vẫn nói khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị, khủng hoảng tinh thần.
Tựu trung, những tiếng ấy đều chỉ một tình trạng chao đảo, sa sút, lạc lõng,
bấp bênh. Ví dụ khủng hoảng kinh tế là khi đồng tiền mất giá, đời sống đắt đỏ,
công ăn việc làm khan hiếm gây nên tình trạng thất nghiệp hay hàng hoá sản xuất
ra bị ứ đọng, không tiêu thụ được. Có một cái gì trục trặc, rối loạn, bất ổn đi
liền với khủng hoảng. Khủng hoảng về Chúa là khi người ta không còn tin Người
nữa, đặt Người thành vấn đề, mất cả lòng tôn kính, thậm chí muốn đẩy Người ra
khỏi cõi đời này. Người ta hoang mang, hoài nghi, coi thường Đấng từ trước đến
nay vẫn mang tên là Chúa.
2. Những dấu hiệu khủng hoảng về Chúa
Thiết tưởng có thể căn cứ vào những dấu hiệu sau đây để nói rằng
hiện nay đang diễn ra một cơn khủng hoảng về Chúa. Đó là:
1) Phong trào phản kháng
Phản kháng là chống lại, không thuận phục, không chấp nhận. Đây là
một hiện tượng đã bùng nổ mạnh mẽ trong giới trẻ tại các nước Âu Mỹ, nhất là ở
Pháp với cuộc nổi loạn của sinh viên hồi tháng 5-1968. Cuộc nổi loạn này đã ghi
dấu sâu đậm vào tâm trí một số linh mục, tu sĩ nam nữ tương đối trẻ trong Hội
Thánh tại Pháp. Có lẽ nói được rằng do ảnh hưởng của nó một phần mà đã phát
sinh ra nhóm “TRAO ĐỔI VÀ ĐỐI THOẠI” quy tụ vào hồi tháng 7-1968, 621 linh mục
thuộc một số quốc tịch Tây Âu, như Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Hà Lan, Tây ban Nha, Áo,
Đức. Chủ trương của nhóm này là đòi xét lại và sửa đổi quy chế về đời sống của
các linh mục, như đòi cho được tự do dấn thân vào các hoạt động chính trị hay
nghiệp đoàn, được làm ăn sinh sống như những người khác mà không cần có phép
của các vị giám mục, được tự do sống độc thân hay kết bạn tuỳ ý. Xin đừng vội
tưởng nhóm này hành động liều lĩnh không có chủ trương. Họ có chủ trương dựa
vào phân tích, lý luận và nhân danh chủ trương ấy mà phản kháng. Thực ra, họ
không phải hoàn toàn vô lý ở một vài điểm liên quan đến sự cần thiết phải xét
lại một số vấn đề trong Giáo Hội, nhưng cách thế hành động của họ đã vượt ra
ngoài khuôn khổ thông thường, thậm chí như bất chấp cả kỷ luật và uy quyền
trong Giáo Hội. Nói chung, giới linh mục và tu sĩ trẻ ở Pháp cũng như ở mấy
nước Âu châu đang băn khoăn tìm cách sống cuộc đời linh mục và tu sĩ của mình
một cách thật có ý nghĩa trong một xã hội mỗi ngày một thêm tục hoá, nơi mà
Chúa đang trở thành xa lạ và vắng bóng. Người ta muốn xóa bỏ mọi dấu vết và ảnh
hưởng của Ki-tô giáo, như ngăn cấm đọc kinh, treo ảnh tượng trên tường các lớp
học. Bản dự thảo Hiến pháp Âu châu không một chỗ nào nói đến Kitô giáo, dù Kitô
giáo đã nhào nặn nên châu lục này.
Chính mối băn khoăn đó đã thúc đẩy những người nói trên tìm tòi,
suy nghĩ, đề nghị, sáng kiến… ngõ hầu tạo nên một mẫu linh mục thích hợp cho
thời đại họ đang sống, mang nhiều chất Tin Mừng và truyền giáo hơn. Tất nhiên,
trong trào lưu tiến hoá và khát vọng đổi mới ấy, đã xảy ra những điều quá đáng,
khiến cho dư luận phải xôn xao lo ngại.
Tựu trung, phản kháng tự nó chưa phải là xấu và đôi khi còn cần
thiết cho sự tiến bộ nữa, nhưng cách thế phản kháng và những điều phản kháng
mới là vấn đề.
Nền thần học tuyên bố sự cáo chung của Thiên Chúa
Nền thần học này phát xuất từ BONHOEFFER, một mục sư người Đức bị
chết trong một trại tập trung của Đức Quốc xã năm 1945. Tư tưởng của ông được
đúc kết trong các lá thư viết từ trong trại gởi ra ngoài. Khi sống trong trại,
ông nhận thấy không thể nói về Chúa như trước kia đươc nữa, vì nói như thế
không cảm kích được lòng người và hầu như không có ảnh hưởng thiết thực nào
trên đời sống bất công, đau khổ người ta phải gánh chịu cả. Bởi vậy, ông chủ
trương đổi mới ngôn ngữ, trình bày lại quan niệm về Chúa. Khi tuyên bố sự cáo
chung của Thiên Chúa, các người theo ông không muốn bảo rằng Chúa đã chết rồi
đâu, mà chỉ muốn nói hình ảnh lệch lạc về Chúa được nghe từ trước đến nay, hình
ảnh ấy mới chết và phải lấy Thiên Chúa vừa đích thực, vừa cao cả, lại vừa gần
gũi để thay thế cho quan niệm kia.
Sau Đệ nhị Thế chiến, tư tưởng của Bonhoeffer lan tràn sang Mỹ, ảnh
hưởng mạnh mẽ trên một số mục sư và dần dần tạo thành một khuynh hướng thần học
gọi là “khoa thần học tuyên bố sự cáo chung của Thiên Chúa” như ở Mỹ, Anh với
những tên tuổi như J. Robinson qua tác phẩm “Honest to God”. Tác phẩm này được
xếp vào loại sách bán chạy nhất trong năm 1963 ở Mỹ. Điều ấy chứng tỏ dân Mỹ
đón nhận các sứ giả của nền thần học mới vừa khai nguyên một cách nồng nhiệt
đến mức độ nào. Chủ trương của khuynh hướng thần học Tin Lành mới này mỗi ngày
một lan rộng và gây thêm uy thế, khiến cho nhiều người đặt lại vấn đề Chúa và
dường như muốn kéo Chúa xuống gần con người, gần quá đến nỗi làm giảm thiểu
tính siêu việt của Người, để chỉ còn lại tính “người” ở nơi Chúa mà mất tính
Chúa ở nơi “người”.
Thực ra, như vậy rất hợp với thời đại ngày nay, một thời đại đề cao
con người, coi con người là trung tâm tất cả và xưng tụng uy thế và quyền năng
của con người trên mọi địa hạt. Thật là một nền thần học nhập thế, dễ chấp
nhận, dễ cảm kích lòng người hơn là những ý niệm trừu tượng, xa xôi, khó hiểu
về Chúa, không đưa vào cuộc đời và không mở cho người ta những chân trời khoáng
đạt hơn về các vấn đề nhân sinh.
Tuy nhiên, cần phải coi chừng với khuynh hướng muốn gạt hết các
phần thánh thiêng siêu việt ở nơi Chúa mà chỉ nhận những gì hợp với con người.
Như vậy thì thật khó còn chỗ cho Chúa, vì tự nhiên con người thường có xu hướng
chiếm đoạt chỗ dành cho Chúa và ưa sống dường như không có Chúa để đỡ phải bận
tâm. Đàng khác, người ta lại hay nghĩ về Chúa như nghĩ về một người, đành rằng
đã có một thời Chúa cũng là người như chúng ta. Nghĩ về Chúa như một người để
cảm thông một cách sâu sắc hơn tình Người yêu thương, muốn đồng hoá, gần gũi
với ta trong mọi sự, trừ tội lỗi thì đó là một phát hiện mới mẻ của nền thần
học nhập thể ngày nay, để giúp ta dễ tiếp xúc, giao cảm một cách thân tình với
Thiên Chúa. Còn quan niệm Người như một người để bắt Người phải xử sự và hành
động như nguyên một người thì đó là bắt Chúa phải đi vào chiều hướng, tầm nhìn
của loài người, thay vì điều chỉnh, quy hướng lối nhìn theo Chúa. Như vậy,
không thể nào giải quyết được cho ổn thoả những vấn đề như tai ương, tội ác,
cảnh lầm than cùng khổ của con người, lòng yêu thương và đức công bình của
Chúa, vì khi đem những vấn đề ấy đối chiếu với Chúa mà coi Người như một người,
ta sẽ thấy có nhiều nghịch lý khiến mình không tài nào chấp nhận Chúa nổi! Còn
nếu vượt lên trên và đi xa hơn thì phải nhận rằng ý tưởng của Chúa và đường lối
của Người không phải và cũng không giống như của người trần gian, như ông Gióp
được nghe Chúa nói: “Đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi.”
(Is 55,8)
Tựu trung, dù đổi mới ngôn ngữ hay làm cho linh động quan niệm về
Chúa thế nào đi nữa, thì vẫn không thể loại bỏ việc xây dựng lòng tin sâu xa
đích thực của con người đặt nơi Thiên Chúa được.
2) Mất ý thức về sự thiêng thánh và tội lỗi
Phần đông người thời nay không còn nghĩ về sự thiêng thánh và tội
lỗi với một niềm tin tưởng cung kính và một sự e ngại, dè dặt, lo sợ như xưa
nữa, khi ý thức về hai thứ đó còn khá mạnh mẽ trong tâm tưởng mỗi người và
trong sinh hoạt của xã hội. Có người cho rằng đó là một bằng chứng về sự tiến
bộ của con người trong thời đại ta, là đã gạt bỏ được những tàn tích của một
thời non nớt nhìn thấy quyền lực thần thánh ở khắp nơi và cái gì cũng cho là
tội
Người ta mừng vì con người đã gỡ mình ra khỏi những ràng buộc với
thần thiêng và tội lỗi, trở nên tự do. Nhưng thiêng thánh là một cái gì cao cả
phát sinh từ Đấng Tối Cao trổi vượt, khiến ta phải nhìn nhận, tôn kính và tội
lỗi là một sự tàn phá ghê gớm huỷ hoại con người, gây đảo lộn trong xã hội và
lôi kéo theo sau nó biết bao nhiêu tai hoạ! Về điểm này, cần phải có đức tin
mới chấp nhận được. Ngoài ra, nếu không có đức tin hay đức tin yếu kém thì
khinh thường sự thiêng thánh hay loại bỏ ý thức về sự tội lỗi là điều tất
nhiên. Khi không còn ý thức về sự thiêng thánh và tội lỗi nữa thì người ta xa
lìa và chối bỏ Chúa là phải. Đó thực là một quy kết dĩ nhiên, chứng tỏ cơn
khủng hoảng trầm trọng về Chúa trong thời đại ta. Lý do gây nên sự khinh thường
và mất mát này là vì người ta đã quá trở nên vật chất và ham mê hưởng thụ, đến
nỗi vượt qua cả giới hạn thân phận thụ tạo của mình mà phủ nhận quyền của Đấng
Hoá Công. Thêm vào đó là cảm quan về những vấn đề linh thiêng đã bị hao mòn, tê
liệt do đời sống quá trần tục và máy móc hiện nay chi phối.
3. Căn cớ gây nên khủng hoảng
Dù muốn dù không, phải công nhận rằng đã có những dấu hiệu khủng
hoảng về Chúa như mới phác hoạ trên đây và thực ra đang có cơn khủng hoảng ấy.
Nhưng thử hỏi những căn cớ nào đã gây nên khủng hoảng?
1) Ảnh hưởng của thuyết duy vật và nhân bản vô thần
Chủ nghĩa duy vật khước từ và chối bỏ Thiên Chúa. Nhà nước Liên Xô
trước kia và các chính phủ cộng sản trên thế giới đặt cuộc tranh đấu để chống
lại Thiên Chúa và ảnh hưởng của Người trên tâm hồn nhân loại làm thành quốc
sách. Trong mọi hoạt động, người cộng sản dành một nỗ lực lớn lao để đạt tới
mục tiêu này. Vì thế, họ không từ chối một cơ hội, một phương tiện nào xét ra
cần thiết và hữu hiệu để tiêu diệt lòng tin tưởng và kính yêu của con người đối
với Thiên Chúa. Bởi vậy, họ tổ chức mặt trận chống tôn giáo, phát động những
chiến dịch nhằm lũng đoạn đức tin của tín đồ, đưa ra những luận cứ tự xưng là
khoa học và kinh tế để đả phá tôn giáo. Họ phổ biến tư tưởng vô thần qua sách
báo, phim ảnh, kịch trường, văn nghệ. Kết quả là một số người hiểu biết mơ hồ
về đạo lại yếu kém lòng tin đã chạy theo và chấp nhận chủ trương ấy. Mà không
nguyên chỉ có những người vô thần cộng sản mới làm như vậy; ngay cả những nhà
văn hoá nhân bản vô thần ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây phương như Martin
Heidegger, Jean-Paul-Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus, Merleau-Ponty,
Husserl, Bertrand Russel… cũng làm công việc ấy nhân danh tự do cho con người.
Trong tác phẩm Les mouches (Con ruồi), Les mains sales (Bàn tay bẩn), Le Bon
Dieu et le diable (Đức Chúa Trời và thằng quỷ) của Jean-Paul-Sartre cũng như La
Peste (Bệnh dịch hạch) của Albert Camus đều phảng phất những tư tưởng đặt tôn
giáo và Thiên Chúa thành những vấn đề khả nghi. Jean-Paul-Sartre cũng đã viết:
“Đức Chúa Trời đã chết ngay cả trong lòng các tín hữu!”.
Ở Việt Nam, về phương diện văn hoá, cách đây mấy chục năm có nhóm
Hàn Thuyên với những Đặng thái Mai, Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Đức Quỳnh... và ở miền
Nam trước đây với Phạm Công Thiện trong cuốn Hố thẳm, đã phổ biến các tư tưởng
vô thần trong văn học nghệ thuật.
Thứ đến là lối sống duy vật của những người theo xã hội chủ nghĩa
trên nước ta. Cứ nhìn vào tầng lớp thanh thiếu niên của ta hiện nay cũng hiểu
ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật trên họ.
Ngoài ra còn phải kể đến ảnh hưởng của chiến tranh nữa. Chiến tranh
tàn phá tiêu huỷ không chỉ trong phạm vi vật chất mà còn lan sang địa hạt tinh
thần. Vì quá đau khổ do cuộc vật lộn tranh sống trong hoàn cảnh chiến tranh,
lại phải chứng kiến bao cảnh tang thương chết chóc, lòng người dễ trở nên chai
đá, liều lĩnh, lạc hướng, mất niềm tin. Đành rằng cũng có một số người vì sống
trong chiến tranh mà được tôi luyện cho thêm tốt lành, tin tưởng hơn. Nhưng đây
chỉ là một số ít, còn phần đông, nếu lợi dụng làm giàu được thì làm, dù phải
dùng đến những cách thế bất công và tàn nhẫn, hoặc vì quá túng bấn hay bực bội
mà đâm ra làm càn, bất chấp cả lương tâm và luật lệ. Vì đâu xảy ra tình trạng
này, nếu không phải vì quá mệt mỏi, chán nản và mất niềm tin ở Thiên Chúa là
Đấng Tối Cao điều khiển và hướng dẫn bước đi của lịch sử loài người.
2) Óc khoa học thực tiễn
Hiện nay, khoa học phát triển vô cùng rực rỡ, với những thành quả
trên địa hạt thám hiểm không gian, đưa con người đặt chân lên nguyệt cầu, làm
vẻ vang cho óc sáng kiến và trí phát minh của con người. Song song với những
thành quả ấy là sự hiên ngang và lòng tự hào tin tưởng dường như vô biên của
con người vào tiềm năng sáng tạo của mình. Do đó, phát sinh ra một tâm địa và
một cách xử sự khoa học trước vấn đề đức tin và Thiên Chúa. Người ta muốn đưa
tức tin và Thiên Chúa vào phòng thí nghiệm để phân chất và chứng nghiệm. Nhưng,
đức tin và Thiên Chúa không phải là đối tượng của khoa học vì hai thực tại đó
không có phân khối, chất lượng và những phản ứng vật lý hay hoá học. Vì thế,
không thể dùng định luật của khoa học mà thí nghiệm được. Thành ra, những thực
tại ấy trở thành khả nghi và ít minh bạch, hiển nhiên dưới mắt những người theo
khoa học thực nghiệm hay cư xử hành động theo cách thế của khoa học. Óc khoa
học kỹ thuật này bây giờ lan rộng khắp nơi, ảnh hưởng nhiều trên tâm trí của
người thời đại ta, khiến họ có một cái nhìn thiết thực về cuộc đời, thường chỉ
chuộng những gì kết quả trông thấy ngay trước mắt hay có thể chứng minh, thí
nghiệm được, còn những điều thuộc phạm vi siêu nhiên, vô hình như đức tin và
Thiên Chúa thì họ không mấy bận tâm hay cho rằng không có ích gì thiết thực cho
cuộc sống. Đàng khác, họ lại cho rằng khoa học là chìa khoá mở cửa thành công
cho con người, nên phải trau dồi và phát huy nó càng nhiều càng tốt, đồng thời
thay vì dành thời giờ cho Chúa thì dành nó cho khoa học, kỹ thuật và những vấn
đề kinh tế, xã hội.
Thực ra, theo Chúa và phụng sự Người không đòi phải giảm thiểu lòng
hăng hái say sưa truy tầm và phụng sự khoa học và những vấn đề thuộc phạm vi
trần thế như kinh tế, chính trị, xã hội; nhưng, nên nhớ rằng giữa Chúa và những
địa hạt đó, có sự khác nhau mà không chống đối kình địch nhau, như Công đồng Vatican
II đề cập trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”: “Chẳng những không được coi
những thành công của tài trí và sức can đảm của con người là đối nghịch với
quyền lực của Thiên Chúa và coi con người như địch thủ của Đấng Hoá Công, mà
ngược lại, Kitô hữu phải thâm tín rằng những chiến thắng của nhân loại là một
dấu hiệu về sự cao cả của Thiên Chúa và là một công hiệu phát huy từ ý định
khôn tả của Người.” (Concile cecuménique Vatican II, Centurion Paris 1967, tr.
251)
Hơn nữa, trong giờ chiến thắng của khoa học, người tín hữu không
nên lo sợ, hoảng hốt vì nghĩ rằng khoa học càng bành trướng phát triển thì đức
tin càng bị lu mờ thiệt thòi hay người ta sẽ bỏ Chúa mà theo khoa học, đành
rằng khoa học tự nó là vô thần, vì không bàn đến Chúa, cũng chẳng đặt vấn đề về
Người, như Đức Phaolô VI đã nói: “Trong giờ chiến thắng của khoa học, đó là một
dấu hiệu mạc khải tự nhiên. Mạc khải đó phải dẫn đưa ta về nguồn mạch vạn vật,
Đấng độc nhất cần thiết, nguyên lý sáng tạo tức Thiên Chúa sống động. Ta đừng
bỏ qua cơ hội này để học trở nên khiêm nhường, đạo hạnh, tử
tế và sung sướng, trước những dấu hiệu hiển nhiên như thế cho người muốn xem
thấy sự hiện diện của Chúa trong nhân loại và trong cuộc đời ta. Ta hãy yên
lặng cung kính... Phải, ta nên thán phục. Tâm tình này sẽ hướng ta về con người
và Thiên Chú.” (La Croix: 3/5/69: Devant le vol spatial des astronautes, tr.
12)
Như vậy, khoa học vừa có thể là căn cớ gây nên cơn khủng hoảng về
Chúa, nếu người ta quá tin vào nó mà gạt Chúa ra ngoài, đồng thời vừa là cơ hội
đưa người ta đến chỗ suy phục Chúa, vì Người là Đấng tác thành nên những sự kỳ
diệu mà loài người mỗi ngày một khám phá dần ra.
3) Viễn ảnh phát triển kinh tế
Hiện nay, 2 phần 3 trong tổng số nhân loại sống trong cảnh cùng
khổ, nghèo đói không xứng với phẩm giá con người. Những người kém may mắn này
đang bị đè bẹp bởi bệnh tật, dốt nát, đói ăn, thiếu mặc. Ước mong của họ là
được thoát cảnh cùng cực đó. Nhưng làm thế nào? Nhiều người nghĩ đến giải pháp
tranh đấu hoặc áp dụng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, nhiều người lại cho rằng tin
theo Chúa không giải quyết được vấn đề đói khổ, vì cầu nguyện, đi lễ, giữ đạo
không đem lại cho người ta cơm áo mà phải làm việc để phát triển kinh tế, tổ
chức và xây dựng lại xã hội. Như vậy, đâu có cần Chúa, cần đạo? Vả lại, theo họ
nhiều khi đạo và Chúa lại ngăn trở việc phát triển nữa vì đạo dạy rằng “quê
hương của con người là ở trên trời” và trong các lời nguyện thỉnh thoảng ta lại
nghe đọc “xin cho chúng tôi biết khinh chê những của đời này mà biết tìm của
trên trời”...
Thực ra, từ trước đến nay, đạo được trình bày một cách hơi đen tối,
vì quá chú trọng đến phần thiêng liêng mà bỏ qua phần vật chất, đến nỗi quên
rằng cái siêu nhiên cần phải xây dựng trên cái tự nhiên, con người là một tổng
hợp cả hồn lẫn xác, “có thực mới vực được đạo” và “phải có một số tiện nghi tối
thiểu mới thực tập các nhân đức được”. Gần đây, nền thần học và quan niệm tu
đức đã đổi mới, chú trọng nhiều hơn đến con người với những ảnh hưởng địa lý,
nhân văn, tâm lý, xã hội. Khoa thần học lịch sử và những thực tại trần gian ra
đời để nghiên cứu, suy nghĩ về những vấn đề nhân sinh như lao động, phát triển,
chính trị, kinh tế, tính phái ngõ hầu đem ánh sáng của đạo Chúa chiếu soi lên
những vấn đề đó, đồng thời đặt chúng vào những vị trí xứng hợp và đích đáng,
biến chúng thành những giá trị dọn đường cho ơn giải thoát của Chúa Kitô. Công
đồng Vatican II đã làm sáng tỏ vấn đề này trong Hiến chế nổi tiếng “Vui mừng và
Hy vọng” và Đức Phaolô VI cũng đã đề cập trong Thông điệp “Phát triển các Dân
tộc”.
Như vậy, đạo cũng chú trọng đến con người và những vấn đề tại thế.
Đạo mở cho con người nhìn thấy một viễn tượng rộng lớn và bền vững hơn, khi
nhắc nhở cho nó không nên chỉ nghĩ đến trần gian này, vì một ngày kia trần gian
này sẽ qua đi, mà còn phải vượt ra ngoài trần gian, hướng tới một cuộc sống
không cùng, khi ra khỏi cõi đời này. Chính trong viễn tượng ấy mà lời khuyên
nhủ cũng như dạy dỗ của đạo mới có nghĩa lý và căn bản.
KẾT LUẬN
Chúa đang bị đặt thành vấn đề cả nơi người tin lẫn kẻ không tin.
Cơn khủng hoảng về Chúa đang diễn ra trên mọi địa hạt, khiến người ta hoài
nghi, hoang mang, lo lắng, chán nản, thất vọng… nhất là nơi những người trẻ. Đó
là một triệu chứng đức tin sa sút, nhưng cũng là cơ hội để thử thách lòng trung
thành của những người tin theo Chúa, đồng thời là thước đo mực độ hiểu biết của
các tín hữu về Người. Vì thế, phải trau dồi đức tin bằng cách học hỏi đạo lý
mới mong đứng vững và đối phó được với cơn khủng hoảng đang đe doạ chúng ta bây
giờ.
Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế, OP
(emty.org cập nhật: 08/03/2013 1:58:43 CH)