Vài Loại Tội Phạm Chống Lại Nhà Chức Trách Giáo
Hội Và Tự Do Giáo Hội
Thứ tư - 18/11/2020 18:17
MỘT VÀI LOẠI TỘI PHẠM CHỐNG LẠI
NHÀ CHỨC TRÁCH GIÁO HỘI
VÀ TỰ DO GIÁO HỘI
Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ
Đại diện Tư pháp Giáo phận Qui Nhơn
(Nguồn: gpquinhon.org)
DẪN NHẬP
Những năm gần đây Giáo Hội tại Việt
Nam nổi lên một số trường hợp, cả giáo dân và giáo sĩ, chống lại nhà chức trách
Giáo Hội và tự do Giáo Hội[1]. Bộ giáo luật hiện hành có đề cập loại tội phạm chống lại nhà
chức trách Giáo Hội và tự do của Giáo Hội, trong đó có điều 1371 xác định rằng:
Những người sau đây phải chịu một hình phạt thích
đáng: 10 ngoài
trường hợp được nói đến ở điều 1364§1, người nào dạy một học thuyết đã bị Đức
Giáo Hoàng Rôma hay Công Đồng chung lên án, hoặc ngoan cố khước từ giáo huấn
được nói đến ở điều 750§2 hay ở điều 752, sau khi đã bị Tông Tòa hay Đấng Bản
Quyền cảnh cáo mà không rút lại; 20 người nào, bằng một cách nào khác,
không vâng theo lệnh truyền hoặc lệnh cấm hợp pháp của Tông Tòa, của Đấng Bản
Quyền hay của Bề Trên, và vẫn ngoan cố không vâng phục sau khi đã bị cảnh cáo.
Sự bắt buộc tuân theo huấn quyền không đơn giản chỉ vì giáo huấn đó được loan
báo từ người mục tử có thẩm quyền mà đúng hơn vì đó là sự vâng phục của đức
tin. Quyền giáo huấn, tùy theo những cấp độ khác nhau nơi các mục tử cũng với
các tín hữu, trong Giáo Hội là để phục vụ Giáo Hội trong việc thủ đắc, giữ gìn,
rao truyền kho tàng mạc khải. Bởi vậy, sự bắt buộc tuân theo huấn quyền trước
hết ràng buộc những vị mục tử xét vì đó là biểu hiện của sự vâng phục đức tin
trong sứ vụ của họ[2], trong đó quyền giáo huấn «không vượt trên Lời Chúa, nhưng để
phục vụ Lời Chúa, chỉ dạy những gì đã được truyền lại, vì thừa lệnh Chúa và với
sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thành tâm lắng nghe, gìn giữ cách
thánh thiện và trung thành trình bày Lời Chúa».[3]
Khoản luật này phân biệt hai hình
thức bất tuân huấn quyền và bất tuân quyền bính của các vị mục tử hợp pháp.
Chú ý rằng sự bất tuân huấn quyền
theo điều 1371 là về đạo lý và kỷ luật chứ không phải mọi lãnh vực.
Theo khoản luật trên, tội này nặng nhẹ tùy tầm quan
trọng của nội dung huấn giáo (đ. 750- 754). Theo đó tội chống lại một tín điều,
chống lại toàn bộ chân lý đức tin, tội lạc giáo và bội giáo, đ. 1364§1 thì nặng
nhất; rồi mới đến việc giảng dạy học thuyết đã bị Đức Giáo Hoàng hoặc công đồng
hoàn vũ lên án; ngoan cố không chấp nhận một đạo lý của huấn quyền tuyên bố dù
chưa chung quyết (đ. 752). Sau cùng là tội không tuân theo lệnh cấm hay lệnh
truyền hợp pháp.
1. Bội giáo, lạc giáo và ly giáo
1.1. Khái niệm sơ lược
Bội giáo, lạc giáo, ly giáo là gì? Điều 751 minh định: Lạc giáo là
ngoan cố chối bỏ một chân lý phải tin với đức tin thần khởi và công giáo hoặc
ngoan cố hồ nghi về chân lý ấy sau khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội; bội giáo
là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo; ly giáo là từ chối vâng phục Đức Giáo
Hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của Giáo Hội thuộc quyền ngài.
Theo đó, người lạc giáo là người sau
khi được rửa tội, dù vẫn còn đức tin Kitô giáo, nhưng phủ nhận một cách tuyệt
đối hay cố chấp một chân lý phải tin với đức tin thần khởi và công giáo; hoặc
họ tuyệt đối hay ngoan cố hồ nghi về chân lý đó.[4]
Còn bội giáo là người đã được rửa tội
trong Giáo Hội công giáo chối bỏ toàn bộ chân lý đức tin, tức là phủ nhận những
nền tảng đức tin như mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nhập thể[5]. Tuy vậy, sự bội giáo không chỉ xảy ra khi người ta bác bỏ hoặc
hồ nghi rõ ràng toàn bộ đức tin Kitô giáo, mà cả khi người ta bác bỏ hoặc nghi
ngờ một số chân lý nào đó về đức tin nền tảng Kitô giáo mà nếu không có nó, các
chân lý đức tin khác có lẽ sẽ không có ý nghĩa. Do đó, có thể bị coi là bội
giáo khi chối bỏ hoặc hồ nghi tích cực về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, về
thiên tính của Đức Kitô hoặc sự nhập thể, hay sự chết và sự phục sinh của Đức
Kitô. Trên thực tế, chỉ cần phủ nhận hoặc hồ nghi một trong những chân lý này
là đủ để mọi thứ khác của Kitô giáo không còn ý nghĩa nữa.[6]
Lạc giáo và bội giáo vừa là một tội nặng về mặt thần học và luân lý, và có thể
trở nên là tội phạm nếu được thực hiện ra bên ngoài và đã hoàn thành, nghĩa là
thực tế đã thực hiện bằng lời tuyên bố hay bộc lộ cách nào đó và đã có người
nhận thức được điều đó.[7]
Ly giáo cũng là người đã được rửa tội
từ chối vâng phục Đức Giáo Hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của
Giáo Hội thuộc quyền ngài. Điều 205 xác định rằng «Những người đã được rửa tội,
liên kết với Đức Kitô trong cơ cấu hữu hình của Giáo Hội công giáo bằng những
dây liên kết của việc tuyên xưng đức tin, của các bí tích và của việc lãnh đạo
của Giáo Hội, thì được hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội công giáo trên địa cầu
này». Khoản luật này diễn tả một số yếu tố làm nên sự hiệp thông trọn vẹn của
người đã được rửa tội với Giáo Hội công giáo. Sự kết hợp với Đức Kitô không
tách rời với sự kết hợp với Giáo Hội. Những ai kết hợp trọn vẹn với Đức Kitô
thì cũng đồng thời kết hợp trọn vẹn với Giáo Hội công giáo trong cuộc lữ hành
hữu hình trên trần gian. Sự hiệp thông với Giáo Hội công giáo và sự kết hợp
trọn vẹn với Đức Kitô là hai thực tại không thể tách rời. Cách nói «hiệp thông
trọn vẹn với Giáo Hội» có nghĩa là kết hợp với Đức Kitô qua Giáo Hội với những
mối dây liên kết với việc tuyên xưng đức tin, với các bí tích và với sự cai
quản của Giáo Hội.
Những sự thiếu hiểu biết, cho dù đó
là do lười biếng hay do ảnh hưởng khác, mà vì đó người ta không hiểu biết những
gì mà Giáo Hội buộc phải tin, thì không thể coi đó là phạm tội lạc giáo, bội
giáo.
1.2 Hình phạt
Điều 1364 §1. Người bội giáo, lạc giáo hay
ly giáo đều bị vạ tuyệt thông tiền kết, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định
của điều 194 §1, 20, ngoài ra, giáo sĩ có thể phải chịu những hình phạt được
nói đến ở điều 1336 §1, 10, 20 và 30. §2. Có thể thêm những hình phạt
khác, kể cả việc sa thải khỏi bậc giáo sĩ, nếu có một sự ngoan cố kéo dài hay
sự nghiêm trọng của gương xấu đòi hỏi điều đó.
Để trở thành tội phạm hình sự, phải đủ các yếu tố: đối tượng được xác
định do luật; có thể quy trách (đ. 1321§1); phải thể hiện ra bên ngoài,
nghĩa là đã được bộc lộ hay tuyên bố và nhiều người nhận thức (đ. 1330).
Để cấu thành tội phạm, cần có sự cảnh
cáo của Tòa Thánh hay của Bản quyền sở tại.[8]
Không nhất thiết người lạc giáo, bội giáo hay ly giáo rời bỏ Giáo
Hội bằng một hành vi chính thức, như ghi danh vào hiệp hội hay giáo
phái lạc giáo, ly giáo, bội giáo hay không phải là Kitô giáo. Việc
rời bỏ Giáo Hội bằng một hành vi chính thức có những hiệu quả
đáng chú ý trong những trường hợp khác chứ không nói trong các
trường hợp hình luật (đ. 1086§1; 1117; 1124).[9]
Ai mắc vạ tuyệt thông thì bị cấm
không được tham dự vào một vài hoạt động của cộng đoàn Giáo Hội nhưng họ vẫn
còn là phần tử của Giáo Hội. Giáo luật không dự liệu biện pháp trục xuất một
phần tử ra khỏi Giáo Hội, dù họ có phạm tội ly giáo, lạc giáo, bội giáo. Giáo
luật dự trù việc tín hữu tự ý bỏ Giáo Hội chứ Giáo Hội không bao giờ trục
xuất họ (đ. 316§1; 1117).
Theo điều 1364 có các mức độ hình
phạt như sau.[10]
a- Đối với các tín hữu: Ai phạm những tội đó sẽ
bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết (latae Sententae). Hình phạt tức thì,
không cần thiết phải có ai đó tuyên phạt. Tuy vậy, nếu muốn phải chịu hình phạt
ra tòa ngoài thì cần thiết phải tuyên bố.
Hình phạt này không dành riêng. Do đó, có thể được tha
bởi người được luật ban năng quyền trong những trường hợp tổng quát như, Đấng
bản quyền, bất cứ Giám mục nào chỉ trong tòa giải tội, bởi kinh sĩ xá giải, bất
cứ linh mục nào nếu trong trường hợp nguy tử, bất cứ vị giải tội nào.
b- Đối với giáo sĩ: còn thêm những hình
phạt thục tội nhiệm ý nói ở các đ. 1336§1, số 1-3.
- Cấm hay buộc phải cư ngụ tại một
nơi hay một địa hạt nhất định;
- Tước đoạt một quyền bính, một giáo vụ, một nhiệm vụ, một quyền lợi, một đặc
ân, một năng quyền, một ân huệ, một danh hiệu, một phù hiệu, dù chỉ là thuần
tuý danh dự;
- Cấm thi hành những điều kê khai ở 20 hay
cấm thi hành những điều ấy trong một nơi hay ngoài một nơi nhất định; những cấm
đoán trên không bao giờ có thể trở thành vô hiệu nếu không tuân theo.
- Nếu sự cố chấp kéo dài hay có gương
mù nghiêm trọng, có thể thêm những hình phạt khác nữa, chữa trị hay thục tội;
có thể bị trục xuất khỏi hàng giáo sĩ (điều 194§1,20).
Hình phạt dành cho giáo sĩ vừa nói là
loại ferendae sententiae, nghĩa là cần tiến hành những thủ tục cần
thiết theo quy định.
c- Một số biện pháp khác
Bộ giáo luật còn nói tới những hậu
quả khác dành cho các tội nầy, tự bản chất đây không phải là hình phạt hình
sự, nhưng là những biện pháp cần thiết để bảo vệ sự thánh thiêng của bí tích
hoặc kỷ cương của Giáo Hội.
Đ. 316§1: Người nào đã công khai chối
bỏ đức tin công giáo hoặc không còn hiệp thông với Giáo Hội, hoặc bị vạ tuyệt
thông đã tuyên kết hay đã tuyên bố, thì không thể được nhận vào các hiệp hội
công cách thành sự. §2. Những người đã gia nhập cách hợp lệ mà rơi vào một
trường hợp của §1, sau khi đã bị cảnh cáo, phải bị sa thải khỏi hiệp hội, vẫn
giữ những quy chế và quyền thượng cầu lên nhà chức trách Giáo Hội được nói đến
ở điều 312 §1.
Đ. 694§1,10: Phải được kể là đương
nhiên bị sa thải khỏi tu hội thành viên nào đã hiển nhiên chối bỏ đức tin công
giáo.
Đ. 1041,20: Những người đã mắc tội
bội giáo, lạc giáo hoặc ly giáo được coi là bất hợp luật để chịu chức thánh; và
bị sẽ coi là bất hợp luật để thi hành chức thánh đã lãnh nhận nếu là tội phạm
công khai (điều 1044§1,20).
Đ. 1184§110: Trừ khi đã biểu lộ dấu
chỉ sám hối nào đó trước khi qua đời, không được an táng theo nghi thức Giáo
Hội đối với những người bội giáo, lạc giáo và ly giáo hiển nhiên.
Không coi là bội giáo, lạc giáo và ly
giáo đối với các Kitô hữu nguội lạnh, bỏ thực hành tôn giáo, dững dưng nếu họ
không chối bỏ hay hồ nghi tích cực niềm tin của mình.
Không được coi là những người phạm
tội bội giáo, lạc giáo và ly giáo, dù họ có chối bỏ các chân lý đức tin, hoặc
hồ nghi các chân lý ấy hoặc không nhìn nhận sự hiệp thông với Giáo Hội: Những
người chưa được rửa tội; những người đã làm điều đó trước khi họ nhận được bí
tích rửa tội.
Không áp dụng hình phạt đối những vị
thành niên chưa được 16 tuổi trọn (xem điều 1324§1,40).
2. Giảng dạy học thuyết đã bị lên án
2.1 Vài khái niệm sơ lược
Những gì được gọi là «đức tin thần
khởi và công giáo» và cần phải tin bằng đức tin như vậy? Giáo luật điều 750 xác
định rằng, đó là «tất cả những gì hàm chứa trong Lời Chúa đã được viết ra hay
được truyền lại, tức là trong kho tàng đức tin duy nhất đã được trao cho Giáo
Hội, và đồng thời được trình bày như là do Chúa mạc khải hoặc bởi huấn quyền
long trọng, hoặc bởi huấn quyền thông thường và phổ quát của Giáo Hội, tức là
những gì được biểu lộ do sự gắn bó chung của các Kitô hữu dưới sự hướng dẫn của
huấn quyền thánh; bởi thế, mọi người buộc phải tránh bất cứ học thuyết nào
nghịch lại với điều ấy».
Mạc khải của Thiên Chúa có thể bằng
chữ viết (Thánh Kinh) hoặc bằng lời nói (Thánh Truyền). Cả hai làm nên kho tàng
đức tin được ủy thác cho Giáo Hội. Vậy có những chân lý đức tin mạc khải được
truyền lại cùng Thánh Kinh và Thánh Truyền mà không có sự can thiệp của huấn
quyền, ta gọi đó là đức tin thần khởi. Có những chân lý đức tin được truyền lại
từ Thánh Kinh và Thánh Truyền nhưng được huấn quyền đề ra như một chân lý đức
tin. Nó cũng được gọi là chân lý đức tin công giáo: tức là Đức tin thần khởi và
công giáo.[11]
Không phải tất cả các chân lý mà huấn
quyền đề ra đều là chân lý thần khởi và công giáo, nhưng chỉ chân lý nào đó
được xác định như vậy, chẳng hạn như các tín điều. Trong thực tế, huấn quyền
của Giáo Hội có thể «chính thức tuyên bố một đạo lý trong lãnh vực đức tin hay
luân lý, ngay cả khi các ngài không có ý công bố học thuyết đó bằng một hành vi
nhất định, các Kitô hữu không buộc phải chấp nhận bằng đức tin, nhưng phải lấy
trí khôn và ý chí để ngoan ngoãn vâng phục». Tuy nhiên chỉ những chân lý được
đề nghị như đạo lý phải tin mới tạo thành cơ sở để áp dụng hình phạt về bội
giáo, lạc giáo.[12]
Giảng dạy những học thuyết đã bị lên
án theo điều 1371,10. Những học thuyết nói ở đây hiển nhiên không phải là các
chân lý đức tin thần khởi và công giáo như nói trên bởi vì nếu không như vậy sẽ
áp dụng điều 1364.
Cho dù luật hình sự cần phải giải
thích theo nghĩa hẹp (điều 18) đi nữa, dường như hạn từ "giảng dạy"
nói ở 1371 không chỉ hiểu là những hoạt động giảng dạy theo nghĩa chặt tức là
tại các trung tâm giảng dạy của Giáo Hội (như trường học và đại học của Giáo
Hội, các học viện, trong chủng viện và dòng tu,…), nhưng còn là bất cứ hoạt
động nào tạo nên tương quan giữa giảng viên và học viên, chẳng hạn như hoạt
động giảng dạy nội bộ tại các lớp giáo lý, khóa học chuẩn bị lãnh nhận các bí
tích.[13]
Liên quan đến ngoan cố khước từ giáo
huấn được nói đến ở điều 750§2 hay ở điều 752, chúng ta thấy có những mức độ
quan trọng khác nhau. Thật vậy, trong trường hợp thứ nhất, khước từ những chân
lý được tuyên bố do đặc ân bất khả ngộ, dù không phải là chân lý thần khởi mạc
khải, thì cũng cần dứt khoát «sốt sắng tuân giữ và trình bày cách trung thực
kho tàng đức tin đó» (điều 750§2). Trường hợp thứ hai, từ khước những đạo lý
trong lãnh vực đức tin hay luân lý, ngay cả khi Đức Giáo Hoàng hay Giám mục
đoàn không có ý công bố chúng bằng một hành vi nhất định với đặc ân bất khả
ngộ, các Kitô hữu dù không buộc phải chấp nhận chúng bằng đức tin, nhưng phải
lấy trí khôn và ý chí để ngoan ngoãn vâng phục.
2.2 Hình phạt
Liên quan hình phạt trong hai trường
hợp nói trên, giáo luật không đặt ra một sự phân biệt nào về cách thức áp dụng
hình phạt cũng như về loại hình phạt.
Việc chối bỏ các đạo lý nói ở đây có thể thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hay bằng một cách khác nào đó mà nhiều người khác có thể nhận thức chúng (đ.
1330), chẳng hạn như thực hiện công khai trong khi giảng dạy, dạy giáo lý,
giảng lễ, hay phổ biến qua các phương tiện truyền thông xã hội và đồng thời
ngoan cố chối bỏ.
Việc chối bỏ đạo lý trở nên ngoan cố
khi đương sự, dù đã bị người có thẩm quyền cảnh cáo, và buộc phải ngừng, vẫn
tiếp tục không chấp nhận rút lại và tiếp tục phổ biến đạo lý sai lạc.
Thẩm quyền nói ở đây là Tòa Thánh và
Đấng bản quyền. Đối với Tòa Thánh, cụ thể là Bộ giáo lý Đức tin. Còn đối với
Đấng bản quyền, không nhất thiết là Đấng bản quyền địa phương, nhưng bất cứ bản
quyền nào. Đối với các dòng tu giáo sĩ luật Giáo hoàng và tu đoàn tông đồ giáo
sĩ thì đó là bề trên cấp cao.
Hình phạt được dự liệu là loại ferendae sententiae, bắt buộc nhưng
không xác định.
Trong trường hợp này, hình phạt được ấn định tùy theo quyết định của các thẩm
phán hay do Đấng bản quyền.
Do sự khác biệt của các loại đạo lý
bị chối bỏ nên khi ra hình phạt cần chú ý đến điều này, cũng như xét đến những
hoàn cảnh của chủ thể phạm tội hay sự tái phạm của đương sự nữa.
3. Bất tuân mệnh lệnh
3.1 Vài giải thích
Theo điều điều 1371,20, phải chịu một
hình phạt thích đáng đối với người nào, bằng một cách nào khác, không vâng theo
lệnh truyền hoặc lệnh cấm hợp pháp của Tông Toà, của Đấng Bản Quyền hay của Bề
Trên, và vẫn ngoan cố không vâng phục sau khi đã bị cảnh cáo.
Ngoài sự bất tuân huấn quyền, tội phạm được dự liệu ở
đây là bất tuân những lệnh truyền hay lệnh cấm hợp pháp của Tòa thánh hay của
Đấng bản quyền hay của bề trên riêng.
Mệnh lệnh phải là hợp pháp, được hiểu
là không những về người có thẩm quyền truyền lệnh mà còn cả về việc ban hành
chúng cũng như những giới hạn và thủ tục cần thiết phải theo; nếu không thì
lệnh truyền đó có thể không có giá trị, vô hiệu.
Tòa thánh nói ở đây bao gồm cả Đức Giáo Hoàng cùng các cơ quan giáo triều Rôma
(đ. 361). Đấng bản quyền được hiểu theo khoản luật 134§1.
Để trở thành tội phạm, đương sự phải
bị cảnh cáo và dù đã bị cảnh cáo nhưng đương sự vẫn tỏ ra ngoan cố không rút
lại những sai trái và không chịu thay đổi hành vi dù đã được cảnh
cáo trước đó. Nên nhớ rằng «không thể tuyên kết một vạ cách thành sự, nếu
trước đó phạm nhân đã không được cảnh cáo ít là một lần để chấm dứt sự ngoan cố
của mình, và nếu đã dành cho đương sự một thời gian thích hợp để hối cải» (điều
1347§1).
Quy định của luật này có thể áp dụng
đối với các tín hữu, do đó cần có sự chú ý đến đối tượng vi phạm để áp dụng
hình phạt vạ.
Các hình phạt vạ, là loại hình phạt
chữa trị (dược hình), nên không dùng để phạt như một loại hình phạt mở rộng hay
là trừng phạt chung chung.
Hình phạt bắt buộc nhưng bất
định.
Điều 696 dự liệu trường hợp một
thành viên dòng tu có thể bị sa thải vì những lý do nghiêm trọng, bên ngoài,
có thể quy trách, có bằng chứng pháp lý như:
- Ngoan cố không tuân giữ những quy
định hợp pháp của Bề Trên trong vấn đề quan trọng;
- Sinh gương xấu trầm trọng do cách
xử sự sai lỗi;
- Ngoan cố ủng hộ hay truyền bá các
học thuyết đã bị huấn quyền Giáo Hội kết án;
- Công khai tán đồng các ý thức hệ nhiễm thuyết duy vật hay vô thần.
Quy định nầy cũng áp dụng đối với tu đoàn tông
đồ (đ. 746).
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh phức tạp hiện nay
người tín hữu, nhất là các mục tử đang coi sóc đoàn chiên của mình cần quan tâm
để hướng dẫn đoàn chiên không đi lạc đường.
Phải nói rằng các phương tiện truyền
thông đang góp phần làm lan rộng những đạo lý sai lạc và làm cho nhiều người
tín hữu bị lôi kéo và mất phương hướng trong đời sống đạo.
Những người có thẩm quyền, cách riêng là các linh mục
coi xứ càng phải cập nhật các hiện tượng hay các phong trào có nguy cơ làm nguy
hại đến niềm tin các tín hữu.
Một khi biết người tín hữu đang đi vào con đường sai lạc với đức tin và đang
ngoan cố ở trong sai phạm của mình, người mục tử càng kiên nhẫn giải thích, tìm
những cách thức thích hợp giúp họ trở về với đức tin công giáo. Kết án và trừng
phạt là cách chẳng đặng đừng.
Theo giáo luật, «Đấng Bản Quyền chỉ
nên xúc tiến thủ tục tư pháp hay hành chính để tuyên kết hay tuyên bố một hình
phạt, khi đã chắc chắn rằng việc sửa chữa trong tình huynh đệ, việc khiển trách
hay các phương thế khác trong đường lối mục vụ của ngài không thể sửa chữa
gương xấu, tái lập công lý và cải thiện phạm nhân một cách đầy đủ được»
(đ.1341).
[1] Ví dụ, nổi cộm như
"Sứ điệp từ trời", "nhóm trừ quỷ ở Bảo Lộc", trong đó có
nhiều tín hữu bất tuân mệnh lệnh của Đấng bản quyền, ngoan cố ở trong sự sai
lạc về đạo lý…
[2] Xem Velasio De
Paolis, Davide Cito, Le sanzioni nella Chiesa, commento al codice
di diritto canonico libro VI, Urbaniana University press, Roma 2001. (Chế
tài trong Giáo Hội, chú giải bộ giáo luật quyển VI), tr. 312.
[3] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế
tín lý về mạc khải của Thiên Chúa, Dei Verbum, 10
[4] Dimitrrios Salachas, Il
magistero e l'evangelizzazione dei popoli nei codici latino e orientale, studio
teologico-giuridico comparativo, Edizione Dehoniane Bologna, 2001, tr.
38-39.
[5] Ibib, tr. 39.
[6] Xem Calabrese
Antonio, Diritto penale canonico, Città del Vaticano 1996, tr. 264.
[7] Xem Giáo luật điều 1330.
[8] Ví dụ, Tổng Giám Mục Andreas
Choi Chang-mou giáo phận Kwangju - Hàn quốc đã ra sắc lệnh “Vạ tuyệt thông
đối với những ai trong nhóm thị kiến Mẹ Maria tại Naju”. Phán quyết đưa ra
ngày 23.1.2008 và được gởi đến tất cả các giáo phận, và đã được phổ biến trên
bản tin của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Á Châu (UCA News). Đức Tổng Giám
Mục nầy đã ra quyết định cấm chỉ người công giáo viếng thăm và tham dự các nghi
thức cầu nguyện tại Naju, Hàn quốc. Đức Tổng Giám Mục tuyên bố: “các giáo
sĩ, tu sĩ, giáo dân cử hành và tham dự các bí tích và phụng vụ trong nhà nguyện
và Tụ điểm hành hương Đức Mẹ ở Naju là nơi tôi đã từng cấm chỉ, đương nhiên mắc
vạ tuyệt thông.”. Theo Website của bà Youn lập ra - www.najumary.or.kr -
Youn xác nhận họ được Đức Mẹ mặc khải riêng khi tượng bắt đầu khóc từ năm 1985.
Từ ngày đó những người tin vào mặc khải lập núi Đức Mẹ Naju. (Catholic News Service (25/1/08) http://www.thebostonpilot.com/article.asp?ID=5785)
[9] Nên biết rằng tự sắc Omnium
in Mentem của Đức Thánh Cha Bênêdictô ký ngày 26.10.2009 và được
chính thức ban hành ngày 15.12.2009 đã thay đổi 5 điều trong bộ Giáo Luật
1983 liên quan đến hai vấn đề chính. Vấn đề thứ nhất đó là xác định
rõ chức năng thừa tác của phó tế khác với của linh mục và giám
mục liên quan tại các điều 1008 và 1009; vấn đề thứ hai liên quan đến
hôn nhân về hành vi chính thức rời bỏ Giáo Hội tại các điều 1086§1;
1117 và 1124. Theo đó cụm từ “actus formalis defectionis ab
Ecclesia Catholica - hành vi chính thức rời bỏ Giáo
Hội Công giáo ở các điều 1086§1; 1117 và 1124, đều bị bỏ vì bị coi
là vô ích và không thích hợp nữa. Các lý do đã được nêu ra trong tự
sắc và hơn nữa vì semel Catholicus, semper Catholicus, một
khi đã là người công giáo thì là người công giáo suốt đời vì ấn tích của
bí tích rửa tội không thể xóa bỏ được. Bản văn tự sắc (Motu
Proprio) Omnium in Mentem có thể xem:
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_letters/documents/hf_ben-xvi_apl_20091026_codex-iuris-canonici_it.html
[10] Ví dụ hình phạt về lạc giáo:
Sáu nữ tu Công Giáo tại giáo phận Little Rock thuộc tiểu bang Arkansas đã bị vạ
tuyệt thông vì đã không chịu từ bỏ việc họ là những tín đồ của một lạc giáo ở
Canada, Cộng Đồng Nữ Vương của Các Quốc Gia (Community of the Lady of All
Nations), vốn cũng được biết đến như là Đạo Quân của Đức Mẹ (Army of Mary), mà
người sáng lập của lạc giáo này tự cho rằng Bà được Đức Mẹ Maria nhập thể vào.
Vụ vạ tuyệt thông này là vụ vạ tuyệt thông lần đầu tiên trong suốt hơn 165 năm
trong lịch sử của giáo phận. Bà Marie Paule Giguere, lãnh tụ 86 tuổi của giáo
phái này tự cho rằng: Đức Mẹ Maria đã nhập thể vào Bà, để qua đó Thiên Chúa có
thể nói trực tiếp với mọi người thông qua Bà ta. Quyết định vạ tuyệt thông đã
được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đưa ra vào ngày 11/7/2007. Giáo Phận thừa biết
được các nữ tu này theo dị giáo từ lâu, và trong quá khứ, rất nhiều viên chức
trong Giáo Phận cũng đã tìm rất nhiều cách để khuyến khích các vị nữ tu này
quay trở lại với dòng chính, nhưng họ cực lực từ chối, và kết quả là họ đã bị
vạ tuyệt thông ra khỏi Giáo Hội Công Giáo. Trong nhà dòng cũng có 2 nữ tu
Việt Nam một người là thư ký của Dòng là nữ tu Maria Đinh và Mary Elizabeth
Đinh sống cùng trong tu viện nhưng đã không liên lụy gì tới Đạo Binh Maria.
Giáo phận đã thu xếp để cho 2 nữ tu Việt Nam đến sinh sống và mục vụ tại một
tu viện khác trong giáo phận. http://vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=48819
[11] Xem Calabrese
Antonio, Diritto penale canonico. Sđd, tr. 263.
[12] Xem Calabrese
Antonio, Diritto penale canonico. Sđd, tr. 263.
[13] Xem Velasio De
Paolis, Davide Cito, Le sanzioni nella Chiesa. Sđd, tr.
313. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả Calabrese Antonio, thì động từ
giảng dạy "docet" được sử dụng trong giáo luật ở đây theo nghĩa hẹp,
tức là giảng dạy không phải theo thẩm quyền riêng mà là theo sứ vụ được Giáo
Hội ủy thác. Do đó, không thể áp dụng hình phạt cho trường hợp giảng dạy sai
lầm của các giáo lý viên, các nhà truyền giáo, linh mục giảng, hay các hình
thức giảng dạy khác. Xem Calabrese Antonio, Diritto penale canonico.
Sđd, tr. 283.
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ