TRỪ QUỶ BẢO LỘC
SIÊU NHIÊN HAY TÂM LÝ ?
LỜI MỞ ĐẦU
Tôn giáo là cầu nối với thế giới siêu hình,
một thế giới phi vật chất. Theo sự tiến hoá của trí thức nhân loại, tôn giáo
luôn nỗ lực thanh lọc mê chấp, đạt tới sự thuần khiết trong sáng cho niềm tin của
mình.
Mê tín, là biểu hiện sự mê muội của lý trí
kém hiểu biết về nhận thức khoa học, là sự thấp kém của một tôn giáo sơ khai
mông muội, sợ hãi trước những thế lực huyễn hoặc, mù quáng, cả tin.
Tuy nhiên, thực tế mà nói, thì mê tín chỉ bớt
đi chứ không mất, vì càng tìm hiểu thế giới, thì kiến thức về vũ trụ mênh mông
càng vi diệu, huống chi nói đến đời sống thần linh thuộc lãnh vực siêu hình.
Hiện nay với những khám phá và kỹ thuật mới,
khoa học cho ta biết những điều mà mới đây thôi ta vẫn cho là huyền thoại,
không tưởng, không thể tin được.
1/ Khả năng con người và sức mạnh của lòng
tin.
1.1-
Ngoại cảm:
Ngày nay, không ai xa lạ gì với những hiện
tượng mà ta gọi là “ngoại cảm”,“tâm linh”. Những việc thực, người thực. Dù áp dụng
những kỹ thuật tinh vi nghiên cứu, những nhà khoa học lừng danh cứng đầu nhất, cũng
chưa giải thích được.
Ở Việt Nam có trường hợp cô Hoàng Thị
Thiêm, bịt kín mắt mà vẫn đọc chữ được rành rõ. Chị sinh năm 1970, trú tại Xóm
Mới, thôn Bùi Trám, xã Hoà Lương, Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Chị đã được
các nhà khoa học Đức, Pháp, Nhật, Hàn, Việt, ít nhất 20 hãng
thông tấn, trong đó có NHK và Nippon TV, với các phương tiện tinh vi khảo sát.
Họ đều công nhận chị có “con mắt thứ ba”.
Các nhà khoa học đặt giả thuyết “giác quan
thứ sáu” này nằm ở tuyến tùng quả, trong não bộ.
Đặc biệt, chị Thiêm kể, đã có thời gian học
thiền và khai mở luân xa do những người thực hành nhân điện thực hiện. Chị
không biết gì nhiều và không phải là người chuyên tâm tu luyện cao cấp.
Sau đó, người ta thấy chị Thiêm có dùng khả
năng đặc biệt của mình để áp vong, trị ma nhập ( không phải quỷ vương, vì chị Thiêm
không là tín hữu công giáo), trị bệnh, tìm mộ người chết… Nhiều người nhận định:
xem chừng không được hiệu quả cho lắm.
Một trường hợp nhà ngoại cảm nổi tiếng khác
là chị Phan Thị Bích Hằng, sinh năm 1972, tại Khánh Hoà, Yên Khánh, Ninh Bình.
Khác với chị Thiêm, học vấn lớp 7, chị Hằng có học vị thạc sĩ quản trị kinh doanh,
đạo Phật. Chị có khả năng ngoại cảm sau khi được chữa bệnh chó dại cắn thoát chết.
Chị Hằng đã tìm ra hàng ngàn hài cốt người chết. Nhưng không phải lúc nào cũng
thành công…
Tôi nghĩ những tài năng đặc biệt như trên, có
lẽ chưa đạt đến mức thượng thừa, vì điều quan trọng là hiệu quả của việc chữa bệnh
tỉ lệ thuận với việc tu luyện và lòng từ bi hỉ xả cao độ, theo như tôn chỉ của Trường
Sinh Nhân Điện.
Nếu ít tình thương yêu và còn nhiều vụ lợi thì
khả năng chữa trị hoặc tìm kiếm mộ phần người chết này ít có tác dụng. Đúng như
lời thánh Phao Lô:“ Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và biết hết mọi điều bí
nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà
không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (1 Cr 13, 2).
Có một tác dụng xã hội rõ rệt là nơi các cô
lưu trú, thì thiên hạ sợ hãi, tâm lý kính sợ thánh thần, sợ nghiệp báo, lan toả
khắp vùng; nhiều người vì thế mà sống tốt, nhiều người bỏ đi vì e dè vùng đất
ám khí ma quỷ.
Chính các cô cũng bị mọi người nhìn với đôi
mắt “kính nhi viễn chi”, xa xa, e dè. Bị đè nặng bởi tâm lý ngại ngùng của người
chung quanh, khiến nhiều lúc, như chị Hằng tâm sự ước chi mình lại được là con
người bình thường như cũ.
1.2-
Sức mạnh của lòng tin, tự kỷ ám thị.
Lòng tin tiềm ẩn một sức mạnh vô song, hiện
nay chưa ai giải thích được. Lòng tin và tự kỷ ám thị là một mệnh lệnh ảnh hưởng
lên cảm xúc và có thể biến đổi cả thể chất chúng ta.
Rất nhiều bằng chứng và nghiên cứu cho thấy
có nhiều bệnh nan y tự biến mất do lòng tin mãnh liệt của bệnh nhân. Theo tiến sĩ
Henry Beecher, đại học Harvard, công hiệu của thuốc không chỉ ở thành phần hoá
học của dược phẩm mà còn ở niềm tin của bệnh nhân.
Theo một nghiên cứu của giáo sư Bernie
Siegel tại đại học Yale về chứng rối loạn đa nhân cách, cho thấy một điều đáng
kinh ngạc.
Đó là sức mạnh niềm tin ở những người cho rằng
mình đã trở thành một người hoàn toàn khác. Niềm tin này truyền dẫn tới hệ thần
kinh của họ, tạo ra những thay đổi đáng kể trong cấu trúc sinh hoá cơ thể. Màu
mắt của bệnh nhân thực sự thay đổi khi nhân cách họ thay đổi. (trích trong sách
“ Awaken the Giant Within “ (Đánh thức tiềm
năng con người) Tony Robbins ).
Nghiên cứu này ở những người rối loạn đa
nhân cách rất đúng với thực tế.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều ấy khi tham
dự buổi lên đồng: đang là người có sắc diện bình thường, khi đồng “giáng”, đồng
cô đồng cậu bỗng thay đổi khuôn mặt, tiếng nói và dáng điệu trở nên một người
khác hẳn, múa may quay cuồng rất dũng mãnh. Khi đồng “thăng” thì người ấy trở lại
bình thường. (Tham khảo thêm “Rối loạn
lên đồng và những điều bạn chưa biết” BS Nguyễn Lâm Giang).
Dân ta, đã bao đời nay, rất nhiều người tin
tưởng vào đồng cốt. Mặc dù chưa hiểu thấu
đáo hết các phức tạp của vấn đề vì liên
quan đến vô thức tâm lý, đa số vẫn cho đồng cốt là nhảm nhí như nhà thơ Tú
Xương:
“ Đồng giỏi sao đồng
không giúp nước,
Hay là đồng sợ súng
thần công “
Có điều không phải ai muốn nhập đồng đều
làm được, mà theo họ, phải là người có “căn số”, được “thánh”chọn, nếu không
tuân phục thì bị “thánh” hành hạ, làm cho đau đớn, dở dại dở điên. Thường
“thánh” chọn những người “hạp”: tính cách dễ xúc cảm, yếu bóng vía, ái nam ái nữ.
Dân gian dễ nhận thấy tính cách”đồng bóng”của lớp người này.
Thuý Kiều của Nguyễn Du là cô gái có những
tính cách như vậy. Trước mộ Đạm Tiên, một kỹ nữ tài sắc bạc mệnh, không ai
nhang khói, Thuý Kiều đã thổn thức và đồng cảm coi mình rồi cũng bạc mệnh như
thế. Vì “đồng khí tương cầu”, Đạm Tiên từ cõi âm đã hiển linh cho cả ba chị em,
cả Thuý Vân và Vương Quan.
Lại nói về sức mạnh của lòng tin.
Phúc âm kể lại, Chúa Giê Su sau khi làm
phép lạ chữa lành, thường hay nói “Đức tin của con đã cứu con”.
Khi cho Lazaro chết sống lại, thì niềm tin
mạnh mẽ của chị em Mác-ta và Maria đã làm cho phép lạ xảy ra.
Phê-rô đi được trên nước vì lòng tin mạnh mẽ,
nhưng khi nghi ngờ, yếu lòng tin thì lại chìm nghỉm dưới nước.
Lòng tin vào mình đã thế, sao lại không làm
được nhiều điều vĩ đại hơn khi tin vào Thiên Chúa, Đấng toàn năng. Chúa Giê Su
nói:“ Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, sẽ chẳng có gì mà anh em
không làm được” (Mt 17, 20).
2/ Trường sinh nhân điện, một liệu pháp y học
2.1- Nhân điện dựa trên y lý đông phương.
Triết học Đông Phương chủ trương vạn vật nhất
thể. Ta với vũ trụ là một. Một cuộc sống lành mạnh phải luôn thuận thiên, hoà hợp
với quy luật tự nhiên. Bệnh tật, nhiều khi nguyên nhân là do lối sống phản tự
nhiên:“thuận thiên giả tồn, nghịch thiên
giả vong”.
Quay về với nếp sống tự nhiên, là một giải
pháp bền vững cho sức khoẻ thể lý và sức khoẻ tâm thần của thời hiện đại. Trường
sinh nhân điện, phát xuất từ Ấn Độ, thấm nhuần triết lý này. (Ta đã trình bày học
thuyết nhân điện ở bài viết trước).
2.2-Tâm bệnh phải dùng tâm lý trị liệu :
Đa số bệnh tật là do tác động tâm lý gây
nên. Đông y kể ra bảy nguyên nhân gọi là thất tình gồm: hỉ, nộ, bi, khủng, tư,
ưu, kinh . Hỉ là vui vẻ; nộ là tức giận; khủng là sợ hãi; tư là lo nghĩ; bi là
đau thương; kinh là sửng sốt; ưu là rầu rĩ buồn chán.
Nếu các nguyên nhân tâm lý này mạnh mẽ và
lâu dài sẽ tác hại lên cơ năng sinh lý tương ứng và gây tổn thương thực thể. Chẳng
hạn, nếu ta để sự tức giận quá mạnh và lâu dài thì gan sẽ bị ảnh hưởng gây tổn
thương tim mạch, áp huyết lên cao. Suy nghĩ nhiều quá hại tì, làm ung loét bao
tử vv…
Trị
gốc bệnh là phải triệt tiêu những nguyên nhân này. Làm cho tâm lý an ổn
.
Người ta tìm đến thiền như một phương pháp
trị bệnh, tìm lại yên ổn tâm lý và hạnh phúc cho cuộc sống. Quả thật, nhiều hồ
sơ bệnh nan y đã được chứng nhận khỏi thần kỳ nhờ thiền.
3/ Thiền,
một phương pháp tâm lý trị bệnh
3.1–Thiền là gì ?
Trong KiTô Giáo: các đan sĩ sa mạc, thánh
Gioan Thánh Giá và các vị thánh sống đời chiêm niệm khác, coi thiền như một
phương pháp để cảm nhận và kết hợp với Thiên Chúa.
Thiên Chúa là thần trí vô hình vô tướng, phải
dùng sự tĩnh lặng mà chiêm niệm, không thông qua bất cứ tưởng tượng và ngôn ngữ
nào của trí óc. Hình tướng, tư tưởng, ngôn ngữ đều đưa ta đến ngẫu tượng.
Thiền có nhiều phái và nhiều phương pháp tập
luyện khác nhau. Tựu trung là định tâm, gạt bỏ hết vọng niệm, buông xả hết âu
lo phiền muộn, tham sân si, để đạt tới cái bình an tự tại.
Thiền trường sinh nhân điện là phương pháp
tĩnh niệm và vận khí lưu hành trong thân thể, khai mở các luân xa, đón nhận nguồn
năng lượng vũ trụ vào cơ thể mình và truyền cho người khác. Theo nguyên lý: khí
lưu hành thông suốt thì đánh tan bệnh tật.
Khí lưu hành như thế phải đi đúng đường, nếu
vận hành loạn xạ thì nó thành tà khí làm tổn thương thực thể, ta gọi nôm na là
tẩu hoả nhập ma. Vì thế, tập luyện phải đúng phương pháp, phải có thầy hướng dẫn
và không nóng vội được. Ngoài ra, phải tu luyện để có tâm từ bi, yêu thương, mới
hiệu quả.
Lý thuyết nhân điện rất phù hợp với tự
nhiên và với giáo lý công giáo, đạt nhiều hiệu quả trong việc trị bệnh và dưỡng
sinh.
* Thực dưỡng, ăn uống lành mạnh.
* Sống thanh đạm, không quá đam mê vui thú
vật chất.
* Buông xả, khoan dung tha thứ.
* Tiết chế bản thân và mở rộng lòng đón nhận năng lượng vũ trụ, Tình
Thương Cao Cả, nguồn gốc sinh ra và nuôi dưỡng vạn vật.
Tuy nhiên, nó cũng chỉ là liệu pháp tâm lý
không hơn không kém
3.2 – Hiểm
nguy khi áp dụng nhân điện không đúng cách
Đã là tâm lý thì đương nhiên bị những quy
luật tâm lý chi phối.
Theo thầy Thích Nhật Từ (Vấn đáp: Hậu quả của
thiền Trường Sinh Học và Thiền Nhân Điện) thì: áp dụng phương pháp tu luyện trường
sinh nhân điện không đúng sẽ xảy ra những hiện tượng sau :
-
Hiện tượng rung lắc và không kiểm soát được
bàn tay, do vọng tưởng ở những người nhiều cảm xúc.
-
Thấy những hiện tượng không có thật như hào
quang, vầng chói sáng…
-
Lâu
ngày sẽ đi đến hoang tưởng đa nhân cách, nhìn và nghe thấy những ảo giác, cảm
xúc và ý thức không thật.
Trên đây là những hiện tượng tâm lý, xảy ra
rất thường trong xã hội hôm nay.
Theo thống kê của Viện Sức Khoẻ Tâm Thần thì
ở Việt Nam, bệnh trầm cảm chiếm tới 6% dân số, các rối loạn
lo âu hơn 10%, tâm thần phân liệt 1%, rối loạn cảm xúc lưỡng cực chiếm 1%.
Quỷ nhập là có thật, nhưng rất ít khi xảy
ra và được xác nhận sau khi các ngành chuyên môn khoa học và thần học điều tra,
thẩm định kỹ. Hiện tượng siêu nhiên cũng vậy, Giáo Hội rất dè dặt công nhận, như
trường hợp Mễ Du chẳng hạn.
Các chân lý mặc khải của Thiên Chúa cho con
người đã kết thúc nơi Đức Ki Tô, như Chúa phán lúc hấp hối trên cây thánh giá
“Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19, 30).
3.3- Giáo sĩ không phải là y sĩ
Sứ mệnh của Chúa Giê Su hoàn toàn không phải
để chữa bệnh hoặc làm phép lạ. Chữa lành hoặc phép lạ chỉ để chứng tỏ quyền
năng và lời rao giảng chân chính của Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là vị
tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy
làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy” (Ga
3, 2).
Sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại, chuộc
tội, giao hoà lại mối liên lạc giữa Thiên Chúa và con người đã bị phá vỡ vì tội
lỗi.
Giáo hội Chúa Giê Su cũng thế. Giáo hội mở
trường học, khai dân trí, thăng tiến đời sống; mở bệnh viện chăm sóc bệnh nhân
là đồng cảm với đau khổ của con người, thực thi bác ái. Mục đích chính là chăm
sóc các linh hồn để họ được ơn cứu rỗi.
KiTô Giáo là con đường giải thoát tâm linh.
Bệnh hoạn, dù có tạm thời được chữa lành, nó cũng không vĩnh viễn, và rồi thì
ai cũng phải chết, sinh lão bệnh tử là quy luật cho mọi người. Chữa bệnh, dưỡng
sinh, kéo dài sự sống, là nhiệm vụ của y khoa chứ không phải của tôn giáo. Những
người làm y khoa không nên thách thức các tu sĩ chữa bệnh vì họ có học y dược
bao giờ.
LỜI KẾT
Hiện tượng chữa bệnh và trừ tà ma ở Bảo Lộc
không phải mới lạ, nó rất phổ biến trong dân gian.
Như phân tích khoa học ở trên, thì đây là
lãnh vực hoàn toàn thuộc y khoa và tâm lý chứ không có gì là siêu hình, là mặc
khải cả. Hy vọng nó sẽ là tư liệu tham khảo cho nhóm để cảnh tỉnh nhận thức, dù
có phức tạp vì sự việc liên hệ đến vô thức và khả năng tiềm ẩn của con người.
Tuy nhiên, trên bình diện siêu nhiên, nhóm
trừ quỷ Bảo Lộc có thấy những tác hại không nhỏ cho sự hiệp nhất và tâm lý
hoang mang nơi người tín hữu với thẩm quyền Giáo Hội, qua việc quảng bá rộng
rãi các video clip lên các kênh truyền thông đại chúng. Nhất là lại vào thời đại
tục hoá này, lúc mà Giáo Hội Công Giáo đang gặp nhiều chống phá bên trong bên
ngoài, có bài bản, của các thế lực đen tối.
Chúa Giê
Su đã cảnh báo với các môn đệ trong vườn cây dầu:“ Vì có lời đã chép : Ta
sẽ đánh chủ chiên và đoàn chiên sẽ tan tác “ (Mt 26, 31)
Ai được hưởng lợi: con người hay ma quỷ ?
Tiếng Sa Mạc