Câu chuyỆn xỬ án ThẦy Giêsu
(dongten.net)
01-4-2021
Tờ
mờ sáng, lính tráng cùng các thành viên trong Thượng Hội Đồng [1]
điệu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đến dinh tổng trấn Philatô. Cả đoàn đi băng
qua nội thành lúc mọi người trong nhà còn đang yên giấc. Tuy nhiên tiếng la hét
của bọn lính, tiếng lẻng kẻng của xiềng xích và lộc cộc của gậy gộc đập xuống
đường thôi thúc Đức Giêsu đi, đã nhanh chóng khiến dân thành mất ngủ. Người ta
kéo ra xem chuyện gì đang diễn ra.
Chẳng
mấy chốc tin tức ông Giêsu, người Na-za-rét, bị bắt đêm qua và đang bị xử án
lan nhanh khắp cả thành. Tin giật gân ấy cũng vượt qua những cửa thành đến các
làng phụ cận Giêrusalem. Ai nghe cũng ngỡ ngàng. Kẻ yêu mến hoặc có cảm tình
với Thầy lấy làm thương xót vì biết Thầy vô tội; người ghét Thầy thì hả hê vì
cho rằng ông Giêsu đã phạm thượng tự nhận mình là Con Thiên Chúa. Thế là hai
dòng người ấy đổ về dinh Philatô để theo dõi phiên tòa mỗi lúc một đông.
Tôi
cũng như vài môn đệ cùng mấy người phụ nữ đã đi theo sau Thầy sáng nay. Người
thì khóc thương cho Thầy, kẻ khác hy vọng Thầy được tha, riêng tôi xin được nên
đồng hình đồng dạng với Người trong biến cố này. Bởi nhiều người trong chúng
tôi tin rằng Thầy chịu mọi sự vì yêu mến và vâng theo ý Chúa Cha; sau nữa là để
cứu độ con người, cứu lấy cả tôi nữa. Thầy Giêsu đang chịu chết vì tôi.
Nhanh
chóng đoàn người có mặt ở dinh Philatô. Hiện nay khu vực dinh là nhà thờ chính
tòa “Ecce Humo- Này Là Người”
thuộc các sơ Dòng Sion người Pháp quản lý. Dĩ nhiên đây là một dinh cơ phức tạp
và được bảo vệ nghiêm ngặt vì bên trong là tổng trấn Philatô cư ngụ. Ông đại
diện cho đế quốc Rôma cai quản cả vùng Giu-đê này, bởi đó ông có toàn quyền dân
sự để giữ gìn an ninh trật tự cho thành Giêrusalem.
Tôi
thấy Thầy bị người ta trói chặt tay, hai bên là toán lính hung hăng kèm cặp. Họ
không dẫn Thầy vào trong nội vi của dinh, vì sợ bị nhiễm uế. Ai cũng biết đó là
địa hạt của người ngoại giáo, của quân ngoại bang, nên họ ồn ào yêu cầu Philatô
ra xử án. Trong lúc chờ tổng trấn ra, tôi mon men lại gần Thầy.
1.
Đức Giêsu là Con Chiên đặt trên bàn thờ
Tôi
chợt nhìn về Thầy với câu hỏi tại sao Thầy muốn chết để cứu độ con người? Có
cách nào khác để Thiên Chúa cứu chuộc chúng con không? Thầy nhìn tôi, tôi nhìn
về đám đông để cố phớt lờ câu hỏi đang ám ảnh tôi lúc này. Nhớ lại mấy ngày
trước, Đức Giêsu không muốn chết. Thầy chỉ biết là Thầy phải lên Giêrusalem và
chịu đau khổ nhiều, rồi chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Nhưng cái chết ấy
Thầy không cố ý tìm nó, không muốn khăng khăng chết cho bằng được. Ngược lại,
nó đang tìm kiếm Thầy. Do đó trong vườn cây dầu lòng Thầy xao xuyến bồi hồi, mồ
hôi Thầy như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22,44).
Đúng
rồi, Thầy yêu quý sự sống này. Là con người, Thầy run sợ trước giờ người ta gây
cho Người đau khổ và chết chóc. Khi ở Vườn Dầu, Thầy đã có ý định không muốn
uống chén đắng Cha trao. Hóa ra cái chết luôn cho người ta sợ hãi và muốn lảng
tránh nó. Vả lại ở độ tuổi thanh xuân của cuộc đời, ai dám nghĩ mình chủ động
đi chết bao giờ. Đức Giêsu cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Thầy không muốn
bước vào thế giới kinh hoàng ấy ở tuổi 33. Thầy muốn sống để ở với con người.
Tuy
vậy, ý Chúa Cha nhiệm màu muốn dùng chính thịt và máu Con một của Ngài để cứu
độ nhân loại. Đó là ý Cha, và ý Thầy muốn nên một với ý Cha. Vì yêu mến Cha nên
Thầy hoàn toàn vâng phục uống trọn chén Cha trao. Tôi khó hiểu về một quyết
định lạ lùng như thế. Tôi nhìn lên Chúa Cha, hướng mắt về Thầy để hy vọng nhận
được chút ánh sáng cho vấn nạn này.
Thầy
là mục tử nhân lành dám sống chết cho đoàn chiên. Đúng rồi, không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình. Hơn nữa các môn đệ, bạn và tôi là bạn hữu được Thầy hy sinh mạng sống để
cho con người được sống. “No one has greater love than this, to lay down one’s
life for one’s friends” (Ga 15,13). Đó là câu trả lời mà tôi nghe được từ Thầy.
Thánh
Gioan tinh tế định nghĩa chính xác về tình yêu. Một tình yêu cao thượng là “lay down – đặt để” mạng
sống của mình trên bàn thờ để hiến tế vì bạn hữu của mình. Trong hành vi yêu
thương này, người mục tử dâng mạng sống mình hoàn toàn trong tay Chúa Cha, dành
cho nhân loại. Con chiên hiến tế giờ đây luôn sẵn sàng được đặt trên bàn thờ.
Thầy không nắm giữ mạng sống cho riêng mình. Phải chăng đó cũng là lời mời gọi
cho tôi dám hăng hái xông pha để chết tử vì đạo, chết vì đoàn chiên, nếu điều
ấy đẹp ý Cha. Bởi thế đặt để mạng sống mình trên bàn thờ, sẵn sàng cho sứ mạng
Thiên Chúa trao là nghĩa cử mà thầy Giêsu đã làm trong vườn cây dầu. Thầy đặt
mạng sống của Thầy hoàn toàn trong tay Chúa Cha, để chấp nhận chén đắng Cha
trao. Giờ đây sống chết là do Cha định đoạt và Thầy đã thi hành thánh ý nhiệm
mầu này.
2.
Đức Giêsu trong dinh tổng trấn Philatô
Nhìn
về phía cổng dinh thự, tôi thấy Philatô xuất hiện trong bộ dạng oai phong xứng
với bậc tổng trấn cả vùng Giu-đê. Ông ngạc nhiên vì đoàn người đông đảo đang la
hét, đòi tố cáo giết hại một nhân vật đang bị trói tay. Ông hỏi giới lãnh đạo
tố cáo ông Giêsu về tội gì? Đương nhiên họ phải tìm đủ lý do để kết án ông
Giêsu. Đây là ba lý do họ đưa ra:
a)
Sách động dân tộc chúng tôi
Từ
ngày Đức Giêsu làm phép lạ cho La-da-rô sống lại, rất nhiều người theo Đức
Giêsu. Trước mối nguy dân chúng sẽ bỏ đạo truyền thống mà theo ông Giêsu, giới
tôn giáo đã họp Thượng Hội Đồng để quyết định giết Ngài. Là người có trách
nhiệm quản lý và hướng dẫn dân chúng theo truyền thống tôn giáo của cha ông, dĩ
nhiên họ hoang mang vì sự xuất hiện của thầy Giêsu. Họ quy gán cho Giêsu kéo bè
kết đảng để chống lại luật lệ và giới chức tôn giáo. Bằng chứng là từ khi dân
chúng nhận ra lời thầy Giêsu giảng có uy quyền, không như những thượng tế kinh
sư, dân đã theo Thầy ngày càng nhiều. Bởi đó, họ cho động thái ấy là sách động
dân tộc.
Đó
cũng là lý do mà văn bản của buổi họp Thượng Hội Đồng cách đây mấy ngày trước
ghi nhận. “Vậy các thượng tế và các người Pharisêu triệu tập Thượng hội Đồng và
nói: “Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để
ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá hủy cả
nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta”. Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha,
làm thượng tế năm ấy, nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng
nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là
toàn dân bị tiêu diệt”. (Ga11,47-51).
b)
Ngăn cản dân chúng không nộp thuế cho Xê-da [2]
Dĩ
nhiên những ai phản đối nộp thuế cho nhà nước thường bị quy vào tội phạm pháp,
bị chính quyền truy tố. Thời Đức Giêsu, những kẻ trốn thuế hay phản đối mức
thuế nặng sưu cao, có nghĩa là họ chống lại quyền lực và lợi ích của đế quốc.[3]
Vả lại nguồn lợi chính của người Rôma trên vùng đất này là những đồng thuế họ
thu từ dân. Thuế nặng sưu cao là cách họ bóc lột dân Do thái.[4] Do
đó, ai cả gan dám trốn thuế hoặc phản đối chính sách tài khóa này của đế quốc
là điều nguy hiểm, phạm pháp.
Bởi
thế có lần giới tôn giáo thử Giêsu rằng có nên nộp thuế cho Xê-da không? Một
câu hỏi lưỡng đao luận, trả lời kiểu nào cũng chết: Có thì chống lại dân tộc
mình, không thì chống lại chính quyền Rôma. Đức Giêsu xin một đồng tiền, và
trên đó có khắc hình hoàng đế Xê-da,[5]
Thầy nói: “Của Xê-da trả cho Xê-da, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Lần đó
họ không bắt bẻ được gì và lẳng lặng bỏ về. Hôm nay trong phiên tòa này, họ lại
gợi lên lý do này để quy gán cho Thầy là một tay sách động người ta trốn thuế.
c)
Thầy Giêsu xưng mình là Mê-si-a, là Vua
Đây
là lý do thuộc lãnh vực tôn giáo của người Do Thái, không liên quan đến luật
dân sự. Đấng Mê-si-a chỉ dành cho nội bộ niềm tin của người Do Thái vì họ đang
mong chờ một Đấng đến từ Đức Chúa giải phóng dân tộc họ. Mê-si-a chính là Đấng
được Thiên Chúa sai đến, Đấng ấy sẽ là vua Ít-ra-en, vua của người Do Thái.
Con
ngước nhìn Thầy trong lúc này để nhớ lại những điều Thầy luôn khẳng định căn
tính của mình: “Thầy là Đấng Mê-si-a, là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Thầy đã khen ông Phê-rô khi ông nói đúng căn tính của Thầy. Lúc nãy ở nhà ông
Cai-pha, trước cả Thượng Hội Đồng, một lần nữa Thầy cũng xác định: Thầy là Con
Thiên Chúa, là Đấng Mê-si-a. (Lc 22,70).
Vì
không tin Thầy là Đấng Mê-si-a thật, nên họ quy án cho Thầy nói phạm thượng, vì
Thầy gọi Đức Chúa của họ là Cha. Biết sao được, vì thực sự căn tính của Thầy là
thế, nên có thì Thầy nói có, Thầy đâu thêm thắt điều chi ngược với căn tính của
mình. Chỉ có điều nhiều người lúc này không chân nhận Thầy là Con Thiên Chúa,
không chấp nhận Thầy là Đấng Mê-si-a, nên họ đang tố cáo Thầy gắt gao.
Với
ba lời cáo buộc trên, Philatô vẫn không thấy Đức Giêsu có tội. Nhưng phía giới
chức cứ khăng khăng Giêsu có tội vì họ nói: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng
dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê đến đây”. (Lc 23,5). Thầy nghĩ họ nói
đúng không? – Tôi vội hỏi nhỏ Thầy. Vế đầu sai, vế sau đúng. Sai vì Thầy luôn
tôn trọng luật pháp Rôma, dù đó là người ngoại bang. Đó là chuyện của chính
trị. Việc ưu tiên của Thầy là tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Còn vế sau
đúng vì cả cuộc đời Thầy cốt để làm điều đó. Thầy ước sao đi hết làng này đến
làng khác để loan báo Tin Mừng Nước Trời.
Giáo
thuyết của Thầy đến từ Chúa Cha, Đấng mà Thầy muốn người môn đệ nhận biết, kết
thân và phải hằng làm vinh danh Cha là Đấng ngự trên trời. Thầy còn mong cho
triều đại của Cha mau đến, và vì muốn làm theo ý Cha nên Thầy chấp nhận tất cả.
Thậm chí cái chết đang tới gần, Thầy vẫn can đảm để giữ vững căn tính thần linh
của mình.
d)
Đức Giêsu với Philatô
Philatô
trở vào trong dinh và cho gọi Thầy vào để “khảo cung” riêng. Dĩ nhiên không ai
được vào, tôi cũng không ngoại lệ. Tuy vậy, tôi được may mắn đọc lại Tin Mừng
mà thánh Gioan có mặt sáng hôm đó thuật lại câu chuyện giằng co, căng thẳng
giữa Philatô và Đức Giêsu quanh vấn đề “Đức Giêsu có phải là vua không?”
Khi
đọc câu hỏi này, vọng lại trong tôi biến cố Giáng Sinh. Thực vậy, ngày Thầy mở
mắt chào đời tại Bêlem, một làng nhỏ gần Giêrusalem. Các nhà chiêm tinh Phương
Đông nhìn thấy ngôi sao báo hiệu một vị vua vừa mới ra đời, nên họ tìm đến bái
lạy Người. Thế là họ dong dủi theo ánh sao. Đến Giêrusalem, họ hỏi vua Hêrôđê
rằng “Vua dân Do Thái” mới sinh hiện ở đâu. Đó là câu hỏi xúc phạm mang tính
thách đố, bởi rõ ràng vùng này đã có vua Hêrôđê, nếu có hoàng tử hạ sinh thì
người biết đầu tiên phải là nhà vua chứ.
Thế
là với tin động trời ấy, nhà vua rối bời, cả thành Giêrusalem bàn tán xôn xao.
Chẳng lẽ vị vua họ hằng cầu mong nay đã đến. Họ hy vọng tràn trề. Phần vua
Hêrôđê, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và
hỏi cho biết Ðấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trích sách Mikha chương 5 câu 1:
“Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hỡi
Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là
nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. (Mt 2,3-6).
Sau
khi biết mình bị các nhà chiêm tinh lừa, Hêrôđê đùng đùng nổi giận truy tìm
giết lầm còn bỏ hơn bỏ xót các con trẻ ở Bêlem và vùng lân cận từ 2 tuổi trở
xuống. Tuy nhiên, ông đâu biết rằng Hài Nhi Giêsu đã trốn sang Ai-Cập. Thế là
những ngày ấy, các thánh Anh Hài đã chịu tử đạo dưới bàn tay bạo tàn của ông
vua độc ác.
Cả
cuộc đời, Thầy luôn ý thức vai trò Quân vương nơi mình. Thậm chí trước mặt
Philatô lúc này, Thầy cũng không chối căn tính ấy.
Philatô
nhìn Thầy và hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Thầy hỏi lại: “Ngài
tự nói điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”. Dĩ nhiên Philatô
chỉ nghe lại lời ấy từ người Do Thái đang tố cáo Thầy ngoài kia về vấn đề Thầy
tự nhận mình là vua của người Do Thái. Lúc ấy Philatô thắc mắc Thầy đã làm gì?
Hỏi thế nhưng Thầy trả lời ông: “Nước tôi không thuộc về thế gian này, nếu nước
tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp
cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”.
Philatô
không màng đến câu trả lời này của Thầy, vấn đề ông vẫn băn khoăn là Thầy có
thực sự là vua không. Dĩ nhiên Thầy trước sau vẫn trả lời: “Chính ngài nói tôi
là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Thật lạ cho một người cầm
cân nảy mực như Philatô lại băn khoăn: “Sự Thật là gì?” Tôi chợt hỏi ai đang là
người xét xử vụ án này: Philatô hay thầy Giêsu?
Thực
ra căn tính quân vương, Mêsia của Đức Giêsu không chỉ là vấn nạn thời đó, hôm
nay cũng là một chủ đề nhức nhối đối với người Do Thái sùng đạo. Trong một bầu
không khí tôn giáo người dân đang hướng về Đấng Mêsia, làm sao họ chấp nhận Đức
Giêsu là người phàm mắt thịt làm vua của họ. Người ta vẫn hoài nghi về nguồn
gốc của Thầy, ngay cả Gioan Tẩy giả cũng không ngoại lệ. Ông là tiếng hô trong
hoang địa: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”
(Mt 3,3). Với ông dường như Đấng Mêsia vẫn phải là một Đấng uy phong lẫm liệt,
sẵn sàng tra tay chặt bất cứ cây nào không sinh quả tốt và quăng chúng vào lửa.
Đấng ấy sẽ cầm nia trong tay mà sẩy lúa của Người, lúa tốt thì cho vào kho, còn
lúa lép thì đốt đi trong lửa không hề tắt”. (Mt 3,10-12). Bên cạnh đó, sứ mạng
của Mêsia mà tiên tri Ma-la-khi nói đến không giống như những gì đang diễn ra
với trường hợp của Thầy: “Này, Ta sai Thần Sứ của Ta, kẻ sẽ vén đường bạt lối
trước nhan Ta. Ai chịu đựng nổi ngày Người đến? Ai đứng vững khi Ngài hiện ra?”
(Ml 3,1-3).
Trong
khi Gioan bị Hêrôđê An-ti-pa bắt bỏ tù vì liên quan đến chuyện tình cảm của nhà
vua với bà Hêrôđia (Mt 14,4), chính ông cũng ngỡ ngàng về việc làm của thầy
Giêsu sao khác xa với những gì ông loan báo. Do đó ông sai môn đệ đến hỏi Thầy
sự thể như thế nào. Thầy có phải là Đấng Mêsia, là Vua phải đến không, hay họ
phải chờ một Đấng nào khác? Thầy không trả lời trực tiếp, nhưng trích kinh
thánh Cựu ước mà tiên tri I-sa-i-a (Is 35,10) đã loan báo về Mêsia: “Người mù
xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi”.
Trong
hàng ngũ các tông đồ cũng thế. Suốt hành trình làm môn đệ của Thầy, các ông vẫn
chưa hiểu Thầy. Trên đường rảo bước lên vùng phía bắc kế cận thành Xê-da-rê
Phi-líp-phê, Thầy dò hỏi xem người ta nói Thầy là ai? Là những người giao tiếp
với các tầng lớp dân chúng, các môn đệ nghe người ta đồn về Thầy như sau: Kẻ
thì nói Thầy là Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo Thầy là Ê-li-a, có người lại cho
Thầy là Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.
Thôi
thì thiên hạ vẫn lầm về căn tính của Thầy, còn các môn đệ thì sao? Ông Si-môn
Phê-rô đại diện nhóm thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thầy
khen ông, khen cả nhóm đã nói chính xác căn tính của Thầy! Nhưng liền sau đó,
Thầy báo cho các ông tin liên quan đến Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa phải lên
Giêrusalem, Thầy phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh
sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Phê-rô cản Thầy, Thầy
mắng Phê-rô là Xa-tan cản lối Đấng Mêsia. Cả nhóm cũng cúi mặt hoang mang về
căn tính của Thầy khi nghe tin thân phận Đấng Ki-tô lại phải chịu chết sao.
Thậm chí trước ngày Thầy chịu chết các ông vẫn chưa hiểu Thầy, nên Thầy mới
mắng các ông: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-lip-phê, anh chưa biết
Thầy ư? (Ga 14,9).
Về
phía người dân, dĩ nhiên họ không tin Thầy là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia. Có
chăng đó chỉ là con số nhỏ nhoi, là quân thu thuế và phường tội lỗi, những
người nhận được phép lạ của Thầy, những người được Lời Thầy cải hóa. Rồi ngày
tháng đến nghe Thầy giảng, chứng kiến Thầy làm phép lạ, họ sửng sốt, ngỡ ngàng
bởi đâu ông này lại làm được như thế. Không ít lần họ bỏ Thầy đi, khi nghe Thầy
nói những lời chướng tai: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”.
(Ga 6,54). Hoặc “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa”. (Ga 6,56).
Giới
lãnh đạo tôn giáo thì dĩ nhiên quyết liệt phủ nhận căn tính Mêsia của ông
Giêsu. Họ không ít lần đuổi Người ra khỏi đền thờ, nhiều lần gài bẫy để hãm hại
Người, không ít lần bàn luận xem phải “thanh toán” Thầy như thế nào. Cuối cùng
họ đã triển khai một kế hoạch: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn
dân bị tiêu diệt”. (Ga11,50) Lúc này nơi dinh Philatô, họ vẫn đang hô gào đòi
kết án Thầy vì Thầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nhận mình là Đấng Mêsia.
Tóm
lại, căn tính Mêsia của Thầy vẫn luôn làm người ta đau đầu nhức óc. Dẫu cho Cựu
ước có nhiều lần nói về Thầy, nhưng lúc này thiên hạ chưa hiểu được, lãnh đạo
tôn giáo nhất quyết giết Thầy. Biết sao được khi Thầy đích thực là Con Thiên
Chúa, là Đấng Mêsia đến để cứu chuộc con người bằng giá máu. Do đó, Thầy không
chối Thiên tính của mình.
Con
đang chiêm ngắm vụ án của Thầy, nghe lại cuộc chất vấn của Philatô với Thầy về
căn tính của Thầy ở thế kỷ 21. Thời đại hôm nay căn tính của Thầy vẫn luôn tạo
nên những con sóng trái chiều. Người ta dễ dàng nhận thấy mối căng thẳng ấy
ngay trên quê hương của Chúa. Làm sao để đối thoại tôn giáo với nhau, khi một
bên là Ki-tô giáo tin Thầy là Đấng Thiên Sai, là Vua muôn loài; bên kia là Do
Thái giáo vẫn đang mong chờ Đấng Mêsia, vị vua khả kính của họ. Từ trước tới
nay, kính trọng lắm, họ chỉ nhìn nhận Giêsu là ngôn sứ. Bởi đó, không chỉ riêng
Philatô, rất nhiều người cũng muốn biết thầy Giêsu có phải là Vua không?
Sau
khi tra khảo, chất vấn, tổng trấn đi ra gặp người Do Thái và tuyên bố rằng ông
không tìm thấy lý do nào để kết tội Đức Giêsu. Tôi nhìn sang những người yêu
mến Thầy với niềm hy vọng dâng trào: Thầy sẽ được tha. Tuy nhiên, những gì đang
diễn ra lại hoàn toàn trái ngược. Người Do Thái không muốn tha vua của họ, mà
đòi tha Ba-ra-ba, một tên trộm cướp khét tiếng.
e)
Thầy chịu đánh đòn
Trước
tình hình đó, Philatô truyền đem Đức Giêsu đi đánh đòn Người. Thế là người ta
chứng kiến cảnh Thầy bị hành hạ bạo tàn. Tôi chợt nhớ đến lời tiên tri
I-sa-i-a: “Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian
ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương
tích người mà chúng ta được chữa lành. (Is 52,13-53). Từng đòn roi Thầy chịu để
thực thi ý Cha. Không chỉ vết roi hằn trên da thịt Thầy, bọn lính còn kết một
vòng gai làm vương niệm, đặt lên đầu Thầy, rồi khoác cho Thầy một áo choàng đỏ.
Trong bộ dạng như thế, Thầy bị chúng sỉ nhục, nhạo cười. Lúc này, Thầy lặng
thinh nhìn về Mẹ Maria, ông Gioan, về phía tôi và những người Thầy thương mến.
Tôi nguyện cầu tâm sự với Thầy:
“Lạy
Chúa Hằng Sống của muôn loài, nhờ ơn huệ và sự trợ giúp của Chúa, con xin tiến
dâng chính mình con lên trước lòng nhân từ vô biên của Chúa, và trước mặt Mẹ
vinh hiển Chúa cùng các thánh nam nữ của triều đình thiên quốc: ấy là con mong
muốn và ước ao, và đây là quyết tâm của con đã cân nhắc, noi gương Chúa chịu sỉ
nhục, mọi khinh chê và mọi nghèo khó thực sự cũng như thiêng liêng, miễn là
điều ấy phụng sự và ngợi khen Chúa hơn, nếu Chúa Chí Tôn rất thánh muốn tuyển
chọn và chấp nhận con vào đời sống và bậc ấy”. (Linh
thao số 98).
3.
Thời khắc Thầy bị kết án tử hình
Nhìn
lên phía bên trong dinh, tôi lại thấy Philatô bước ra để một lần nữa khẳng định
rằng tổng trấn không tìm thấy lý do nào để kết tội Đức Giêsu. Thầy Giêsu đứng
đó, mình mặc áo choàng đỏ, đầu đội vương niệm bằng gai. Thầy không nói một lời,
chỉ nhìn xuống phía dưới, nơi có Gioan, có Mẹ Maria và những người Thầy thương
mến. Lúc này cuộc đời, mạng sống của Thầy thực sự được đặt trên bàn thờ, để
những ai cần sự sống đời đời, cần Thầy, tự do đến và kín múc nguồn ân sủng.
Thầy không giữ mạng sống ấy cho riêng Thầy, nhưng dâng hiến mạng sống ấy cho
người Thầy thương mến. Cảm ơn Thầy vì tình yêu cao cả!
Tôi
nhìn xuống tấm bảng của nhà thờ “Ecce Homo” và vẳng nghe lại tiếng Philatô nói
lớn với người Do Thái: “Đây là người”. Thì ra tên của nhà thờ được đặt từ lời
tuyên bố của một vị tổng trấn người Rôma. Khi thấy Đức Giêsu, các thượng tế và
các thuộc hạ liền kêu lớn tiếng đòi đóng đinh Thầy vào thập giá. Đó là một bản
án tử hình của người Rôma chỉ dành cho những tên tội phạm không phải là người
Rôma.
Tiếc
là Philatô đã rửa tay để tỏ ý không liên quan đến việc đổ máu thầy Giêsu. Ông
giao Đức Giêsu cho người Do Thái đem đi mà đóng đinh, vì phần ông, ông vẫn
không tìm thấy lý do để kết tội Đức Giêsu. Về phần người Do Thái, nếu họ chiếu
theo Lề Luật thì Đức Giêsu phải chết, vì Thầy xưng mình là Con Thiên Chúa.
Lúc
ấy tôi thấy giữa Philatô và giới lãnh đạo Do Thái quả là hai phương trời cách
biệt, hai ý hướng khác nhau. Bên có quyền tuyên bố Đức Giêsu trắng án thì nhún
nhường vì bị nhóm người dưới kia gây áp lực, bên không có quyền một mực đòi
đóng đinh Thầy vào thập giá. Trong cảnh huống đó, thầy Giêsu nói với Philatô
rằng: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế,
kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn”. (Ga 19,11).
Sau
một hồi giằng co, tôi thấy Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra và đặt ngồi trên tòa
cao, chỗ đó gọi là Nền Đá để tuyên bố với mọi người rằng: “Đây là vua các
người!” (Ga 19,14). Lúc ấy khoảng gần trưa ngày thứ Sáu. Nghe câu ấy xong, tôi
lặng người nhìn thấy đoàn người đông đảo giơ tay đòi đem Thầy đi để đóng đinh
vào thập giá! Thế là một phiên tòa khép lại với việc ông Philatô trao Đức Giêsu
cho họ tùy theo ý họ muốn. Dĩ nhiên mau chóng họ hả hê điệu Đức Giêsu đi để
đóng đinh vào thập giá.
[1] Dân Do-Thái sau khi dành được độc lập từ đế quốc Hy-lạp chưa đầy
100 năm, họ lại rơi vào tay đế quốc Rô-ma, dưới quyền một tổng trấn. Thượng Hội
Đồng người Do-Thái gồm các kỳ mục, các thượng tế và một số luật sĩ tượng trưng
duy nhất của quyền lực người Do-Thái
[2] Gāius Jūlius Caesār là một lãnh tụ quân sự và chính trị, và tác
giả văn xuôi Latin lớn của La Mã cổ đại. Ông đóng một vai trò then chốt trong
sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.
[3] Từ năm thứ sáu sau công nguyên, đế quốc Rôma sáp nhập Giu-đê và
Samari thành một tỉnh, mỗi người dân Do-thái phải nộp một thứ thuế thân. Dĩ
nhiên không một người Do-thái ái quốc nào lại muốn nộp thứ thuế ấy.
[4] Người dân trong đế quốc Rôma phải nộp thuế nhà đất, thứ lợi tức,
thuế thân, v.v. Nói chung gánh nặng thuế không phải là nhỏ.
[5] Julius Caesar là người tiền đầu tiên khắc hình mình trên tiền. Ví
dụ đồng denarius với hình họa Julius Caesar được đúc vào năm 44 TCN; mặt sau là
nữ thần Venus, tay bà nâng nữ hoàng chiến thắng