Đi Đâu Loanh Quanh Cho Đời Mỏi Mệt
Có người
hỏi mục đích cuộc sống là gì. Hầu như ai cũng trả lời: đi tìm hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc là gì thì không dễ trả lời.
Phải
chăng hạnh phúc là có sức khoẻ, tri thức, của cải, danh vọng, chức quyền, lạc
thú, đam mê, tình yêu…Có gì để liệt kê nữa không?
Là được
tất cả như trên, cộng thêm “trường sinh bất tử”.
Từ cổ chí kim, rất ít người được thoả mãn
các điều kiện trên, hoạ chăng có vua Salomon trong lịch sử, người được Chúa Trời
hứa ban cho đặc quyền. Nhưng ông chỉ sống khoảng 80 tuổi rồi chết. Chưa có một
ai trường sinh bất tử.
Vậy hạnh phúc như trên chỉ là ảo vọng.
Khắc khoải sầu đưa.
Chẳng phải thời nay, nhưng đã từ rất xa xưa,
khi trí óc con người mới trưởng thành: biết phân biệt thiện ác, biết xấu hổ, biết
tự do và trách nhiệm, biết vì sao mà thiên đàng đã mất, người ta đã khắc khoải thao
thức không ngơi: đâu là nguồn cội và một cõi đi về cho đời sống ngắn ngủi của
mình?
Đã từng thấm thía giọng hát liêu trai của
Khánh Ly, mấy ai trong chúng ta mà không có lúc đồng cảm, thổn thức với tâm trạng
xót xa của Trịnh Công Sơn về cái thân phận làm người của ta: man mác một nỗi buồn
của vô thường, của cuộc đời mộng ảo, của cơn mê này, những hạt bụi, mộng mị, mỏng
manh.
Thôi kệ, cuộc đời là một cuộc rong chơi, vô
định. Đời chẳng là gì cả, tất cả chỉ “để gió cuốn đi”.
Thiền
sư Thích Nhất Hạnh thì khác hơn, ông là một nhà tu hành, thấm nhuần tư tưởng Phật
Giáo đã thừa kế hệ tư tưởng Đông Phương 2-3 ngàn năm trước và đã được bồi đắp,
gạn đục khơi trong bởi nhiều nhà hiền triết uyên bác qua các thời đại.
Những “Đường Xưa Mây Trắng” của thiền sư
Thích Nhất Hạnh, với hằng trăm tác phẩm giá trị và cả cuộc đời giảng dạy, thực
hành tu tập của ông, đã minh chứng cho mọi người sự uyên thâm, nghiêm túc của
cái mà ông gọi là “Tiếp Hiện”, là thực hành”Chánh Niệm”.
Trên đời này không có gì mới sinh ra và mất
đi. Tất cả chỉ là sự tiếp nối, từ thế hệ này đến thế hệ khác của cái đã có sẵn.
Chúng ta phải quán chiếu, vượt qua những biểu kiến để thấy chân tướng sự vật mà
ứng xử. Thiền sư thường dùng ví dụ đám mây và hạt bắp để minh hoạ cho sự biến
hoá và tiếp nối của sự vật, của cái vô thường.
Như đám mây kia chỉ là sự tích tụ của hơi nước.
Một lúc nào đó sẽ thành mưa, thành dòng suối, ao hồ, sông biển rồi lại thành
mây. Người ta thấy cây bắp, đâu biết trước đó nó chỉ mang hình hài hạt bắp.
Phải lấy
yêu thương mà đối xử, cảm hoá nhau. Đó là hạnh phúc. Hạnh phúc thì ở trong hiện
tại, không xa xôi “không có con đường dẫn đến hạnh phúc mà hạnh phúc chính là
con đường”.
Thiền sư Nhất Hạnh có thực sự quán chiếu được
chân tướng sự vật, có vượt qua được vô minh, lầm tưởng, hay ông lại bước vào một đường đi không đến, rồi chỉ loanh
quanh ?
Con người và những giới hạn.
Theo
tôi nghĩ, cái gọi là ”thân phận”con người, với những suy nghĩ tiêu cực như
trên, thật ra ngược lại, phải là một lời cám ơn chân tình về một ân huệ, một
món quà tuyệt vời mà Thượng Đế ban cho bạn.
Không
có gì đáng trân quý hơn là sự sống của bạn và tôi. Bạn sẽ lại vui mừng không kể
xiết, khi biết rằng thân thể và cuộc sống của bạn không phải là sự vô tình của
ngẫu nhiên mà là tuyệt phẩm độc nhất vô nhị của Thượng Trí.
Trong cuốn The language of God (Đã được dịch
ra tiếng Việt, tựa đề là “ Ngôn ngữ của Chúa” do nhà xuất bản Lao Động), Francis
S. Collins đã chứng minh bằng những chứng cứ khoa học:”Đức tin và niềm tin khoa
học có thể hoà hợp trong một thế giới quan”( The language of God).
Francis
S. Collins, bác sĩ y khoa sinh học phân tử và là tiến sĩ vật lý cơ học lượng tử,
là người phụ trách đứng đầu dự án quốc tế giải mã gene người. Ông là một trong
những nhà khoa học hàng đầu thế giới về ADN.
Ở toà Bạch Ốc, ngày ra mắt bản đồ gene người,
26-6-2000, đứng cạnh Francis S Collins, tổng thống Bill Clinton phát biểu :”Không
còn nghi ngờ gì nữa, đây là tấm bản đồ quan trọng và kỳ diệu nhất mà nhân loại
từng khám phá”.
Theo xác suất sinh học, bạn là kết quả của một
trong hàng triệu cơ hội mà thành. Chỉ cần một sơ sót nhỏ nhặt là bạn sẽ là con
số không.
Trong
đại dịch Covid 19, nhiều người cần đến bình oxy để thở, chỉ cần vài phút thôi
thì họ đã thấy hạnh phúc lắm. Trong khi ta có cả bầu trời để hít thở suốt cuộc
đời. Chúa nâng niu ta, vỗ về, ấp ủ ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Cho ta tất
cả từ không khí, nước, đến ánh nắng mặt trời, thiên nhiên phong phú và cả thân
xác ta cùng các giác quan để tận hưởng.
Thấy bầy chim sẻ ríu rít gọi nhau đi kiếm ăn,
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không
gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng” ( Mt 6, 26 ).
Tại sao ta không cám ơn Thượng Đế mà lại than
van.
Có phải
bạn không được “hạnh phúc”? Cuộc đời đem đến cho bạn nhiều đau khổ, ốm đau bệnh
tật, nghèo đói? Bạn bị muôn vàn giới hạn?
Theo suy nghĩ chủ quan của tôi: nhiều khổ đau đến
từ ý chí tự do của bạn và lực tương tác của bạn với đồng loại.
Nhiều
bất ưng là do bạn đã không hiểu hết ý nghĩa của nó. Bạn như con trẻ chỉ biết
cái gì đem lại thích thú, có lợi trước mắt, thoả mãn giác quan.
Có những
vô minh do bạn u mê lầm lạc; có những vô minh cần thiết nhưng chưa thích hợp với
sự tiến bộ, với thời đại; cũng có những điều bạn không nên biết vì sẽ không hữu
ích cho bạn.
Điều gì sẽ xảy ra, khi bạn có được con mắt
tinh tường hơn để thấy hàng triệu con bọ mát đang nằm trong chăn của bạn, đang
ăn da thừa của bạn và thải ra phân làm nhiều người bị dị ứng, hàng tỉ con vi
trùng và vi khuẩn nhung nhúc trong chén cơm của bạn. Bạn có thích thú với những
mùi hôi thối khắp nơi khi bạn có được khứu giác tinh tường như con chó.
Nhiều người khổ luyện để mong có được giác
quan thứ sáu. Nếu có thứ giác quan này, bạn có sẽ giao tế tốt, thoải mái với mọi
người, khi hiểu rõ chân tơ kẻ tóc tâm tưởng của họ đối với bạn.
Vậy thì giới hạn không phải luôn luôn là điều xấu.
Ngay lập tức bạn sẽ không còn hoan lạc, tận hưởng hạnh phúc cuộc sống, nếu bạn
đi ra ngoài cái gọi là ”thân phận”.
Đi tìm tuyệt đối.
Thời xưa đi học, thầy
giáo giảng: hai đường thẳng song song gặp nhau ở vô cực. Suy cho cùng, vô cực đồng
nghĩa ”không bao giờ”, làm gì có vô cực mà gặp ? Với thế giới vô cùng lớn, định
đề Euclide này không áp dụng được, nó là sản phẩm của tưởng tượng, phi thực tế.
Với hình học Phi Euclide, theo thuyết tương
đối của Einstein, vô cực này lại có và được khoa học chứng minh là đúng, trong
nghiên cứu không gian.
Nhà
thơ Lý Bạch vì say mà lầm tưởng bóng trăng dưới nước là thật. Ông đã nhảy xuống
sông một đêm trăng sáng, mong được ôm lấy trăng. Phải chi nhà thơ đã ngửa mặt
lên trời mà với lấy mặt trăng, tuy xa vời vợi, không thể tới được, nhưng còn là
một chút hiện thực và ít ra không chết đuối.
Mộng hay ảo đều bắt rễ từ hiện thực. Dù Thượng
Đế là vô hạn, con người chỉ có thể cảm nghiệm Ngài như một giềng mối không thể
thiếu để giải thích mọi sự.
Thượng Đế là một thực tại.
Tiếng Sa Mạc