Tin hay mê tín?
Câu chuyện được thuật lại trong sách Samuel
quyển I, chương 4, câu 1 đến 11 thật là “khủng khiếp” đối với dân Israel và có
lẽ cả với nhiều người Kitô hữu ngày nay nữa.
Chuyện
là
Khi Hòm Bia xuống trại,
“toàn dân
Thật là “khủng khiếp” cho Israel! Sao lại có thể như thế được? Thiên Chúa
của mình cũng chịu thua quân Phi-li-tinh sao? Lòng tin của họ bị thử thách nặng
nề.
Nhưng đó có phải là niềm tin thật không? Bề ngoài có vẻ là niềm tin khi cho
khiêng Hòm Bia ra ngay giữa trận địa nhưng kỳ thực đó là mê tín dị đoan. Hòm
Bia Thiên Chúa chỉ còn là một thứ bùa, một “vật cầu may” mà thôi bởi vì lòng dạ
Israel đã xa lìa Thiên Chúa từ lâu rồi. Trong các sách Tin Mừng sau này, chúng
ta thấy mỗi lần ra tay cứu giúp một người gặp cảnh cùng khốn ngặt nghèo đến kêu
xin Người, Chúa Giêsu thường giải thích: “Chính lòng tin của con đã cứu con!”.
Yếu tố quyết định là lòng tin, đến nỗi Tân Ước viết rằng có khi Chúa Giêsu
không làm được phép lạ nào cho người ta vì họ không tin (x. Mc 9,23-24; 6,5).
Và Chúa thì không muốn dùng phép lạ để ép cho người ta phải tin.
Con người gồm có xác và hồn, có bề ngoài và bề trong ; nói theo cách của
một số người học thức, con người là tinh thần nhập thể. Bề trong bề ngoài đều cần
thiết cả. Thường thì bề trong (ví dụ tâm tình của ta, ý nghĩ của ta) phải được
diễn tả ra bên ngoài trong lời nói, cử chỉ, hành động. Khi ta yêu mến ai, đương
nhiên ta sẽ tìm cách biểu lộ tâm tình đó ra bên ngoài, hơn nữa, lắm khi nó tự
bộc lộ ra dù ta không cố tình cố ý… Đức tin đích thực cũng thế. Thánh Gia-cô-bê
quả quyết: đức tin không hành động là đức tin chết (x. Gc 2,17). Không có
chuyện sống đạo hoàn toàn tại tâm. Nhưng nếu nói cách triệt để thì cái tâm, cái
thái độ bên trong mới có tầm quan trọng quyết định, chứ không phải cái bề
ngoài. Các cử chỉ, lời nói, hành động bề ngoài đôi khi phản bội ta, nghĩa là không
diễn tả hết hay diễn tả đúng những gì ta ấp ủ trong lòng; tệ hơn, không hiếm
khi chính ta dùng chúng để lừa dối kẻ khác. Thi hào Nguyễn Du viết trong Truyện
Kiều:
“Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà
trong nham hiểm giết người không gươm”
.
Nhưng loài người lừa dối nhau chứ không thể lừa dối Thiên Chúa được vì Người
thấu suốt lòng dạ chúng ta.
Câu chuyện dân Israel thảm bại dù đã đưa Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa
ra trận địa, nhắc nhở chúng ta hai điều trong đời sống đạo. Điều thứ nhất là một lời cảnh giác. Phải canh chừng đừng biến các hình thức, những dấu hiệu bề ngoài của lòng
tin, vốn luôn luôn cần thiết, thành cái vỏ không ruột, cái xác không hồn, nhất
là biến thành những thứ bùa chú, ma thuật, những cái máy tự động “ban ơn”, che
chở chúng ta. Ảnh đeo cổ, tượng thánh gắn trên xe hay đặt trong nhà ngoài ngõ,
nước thánh rảy trên mình hay trên đồ vật, làm tuần tam nhật hay cửu nhật, giữ
chín lần liên tiếp thánh lễ ngày thứ sáu đầu tháng, đi hành hương v.v. , tự bản
thân chúng không có sức thiêng nào cứu vớt chúng ta cả. Hiệu năng của chúng là
do tự Thiên Chúa ban cho khi ta làm những việc đó với lòng tin yêu Chúa.
Điều nhắc nhở thứ hai, chính là một lời động viên người tín hữu sống đức tin, chứ không chỉ giữ đạo. Người Kitô hữu tiên vàn là người tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết
và sống lại cho hết thảy mọi người. Họ sống niềm tin ấy bằng sự gắn bó trọn vẹn
với Người, hoàn toàn tín thác vào Người và, vì yêu mến Người, họ cố gắng tuân giữ
các điều Người dạy bằng cách ra sức đem Tin Mừng của Người ra thực hành trong
suốt cuộc đời. Họ biết rằng chính nhờ đức tin mà họ được cứu độ như Chúa đã
phán : “Ai tin Ta sẽ sống muôn đời” (Ga 6,47). Đức tin soi sáng cuộc đời họ, làm
cho nó có một ý nghĩa. Những việc sùng kính, những việc đạo đức có mục đích giúp
các môn đệ Chúa Kitô sống cho ra người Kitô hữu hơn, gia tăng đức ái trong họ
tức là lòng mến Chúa yêu người. Những việc đó đòi hỏi người ta phải có đức tin
trước đã. Thiếu đức tin, chúng sẽ chẳng có ý nghĩa gì và sẽ giống như những chiếc
bình rỗng.
Nên lưu ý rằng Giáo Hội không đặt các việc sùng kính ngang hàng với Lời Chúa
và các Bí Tích. Ta không thể bỏ qua Lời Chúa và các Bí Tích được, trái lại ta
vẫn có thể cầu nguyện với Đức Mẹ, mà không dùng tràng hạt, vẫn có thể sùng kính
Mẹ mà không đeo ảnh Ngài trên cổ, và hiển nhiên là việc tham dự tích cực thánh
lễ ngày Chúa Nhật vẫn có giá trị hơn tất cả mọi thứ sùng kính riêng tư. Các việc
sùng kính này không được phép trở thành một cánh rừng rậm trong đó người ta bị
lạc hướng và không nhìn thấy cái cốt yếu nữa. Đối tượng cốt yếu của lòng tin là
chính Thiên Chúa, Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con của Người, Đấng duy nhất
có thể cứu độ chúng ta, cùng với Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá chúng ta.
Tóm lại, nếu thiếu những tâm tình căn bản trên đây và chỉ quan tâm làm các
việc đạo đức bên ngoài, rồi nghĩ rằng nguyên các việc đó đã đủ để cho mình được
Chúa cứu giúp và ban ơn cứu độ, thậm chí mình có quyền được ơn ấy, nếu như thế
thì đó là bùa chú, là mê tín dị đoan, không phải là đức tin Kitô giáo.
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô