NHỮNG THÁCH ĐỐ MỚI CỦA GIÁO LÝ HÔM NAY
(giaolyductin.org12/09/13,
3:51 pm) – Công Đồng đã
1. Công
Đồng
Công Đồng đã không
trực tiếp đề cập đến chủ đề giáo lý và những tài liệu của Công Đồng quy chiếu
về giáo lý thì rất ít. Tuy nhiên, Công Đồng đã có một tác động sâu xa và mấu
chốt trên giáo lý. Sự đóng góp cốt yếu của Công Đồng hệ tại việc làm sáng tỏ
những yếu tố nền tảng của giáo lý về mục tiêu và nội dung của nó. Đối với Lời
Chúa, thì giáo lý là sự loan báo Lời và kêu gọi phục vụ Lời. Còn với đối tượng
là tín hữu, thì giáo lý được coi là sự giáo dục đức tin và trong chiều kích thể
chế thì chính Giáo Hội hành động và diễn tả trong giáo lý. Những tài liệu của
Công Đồng nói rất đầy về ba thực tại này là: Lời, đức tin và Giáo Hội (Hiến Chế
Mạc Khải, Sắc Lệnh Truyền Giáo, Hiến Chế Giáo Hội, Hiến Chế về Mục Vụ).
Thật ra, Công Đồng đã
công bố một sự hiểu biết mới về giáo lý cũng như thách thức mới để xem xét nó.
Đồng thời, Công Đồng cũng mời gọi tất cả hãy nhìn giáo lý trong viễn cảnh nguồn
gốc đầu tiên của nó, là Lời Chúa được khám phá một cách đặc biệt trong Kinh
Thánh và có liên quan trực tiếp với việc giáo dục đức tin mà nó nhấn mạnh vào
thái độ hiện hữu và toàn thể của cá nhân, đồng thời làm nổi bật một Giáo Hội
đang hướng nhiều hơn đến sự hiệp thông và phục vụ. Những điểm nhấn này, cũng
như một vài điều khác, đã được phát triển trong suốt thời kỳ hậu Công Đồng.
Thời kỳ hậu Công Đồng
này, ít ra cũng kéo dài cho đến năm 1980, có thể được xem là một thời kỳ nghiên
cứu sâu xa và gặt hái dồi dào về lĩnh vực giáo lý. Bối cảnh của Công Đồng đã
cho nhiều đề xuất mới và những sự xem xét lại trong đó có cả những khủng hoảng.
Thật khó để mà đánh giá đầy đủ về thời kỳ này vì tính phức tạp và sự phong phú
của nó. Tuy nhiên, người ta có thể phác thảo gương mặt mới của giáo lý sau Công
Đồng nhờ vào những đặc điểm sau đây: Ưu tiên cho việc Loan báo Tin Mừng, sự nổi
bật của Kinh Thánh, chiều kích nhân loại học, tính nhạy cảm về xã hội chính
trị, ưu tiên cho những người trưởng thành, chỗ đứng trung tâm của cộng đoàn, ý
nghĩa của các phương tiện truyền thông và ngôn ngữ không lời, vv. Hơn nữa, một
số lớn những hoạt động, những tài liệu, những hội nghị, những công bố đã biểu
lộ công khai mong muốn canh tân của Giáo Hội để đáp trả cho một thế giới đang
đi tìm những câu trả lời thích hợp trước những thách thức mới hơn trong một xã
hội đang chịu một sự thay đổi tận căn.
Nếu như thế, thì hôm
nay, đối với giáo lý, chúng ta đang ở đâu? Tất cả những cố gắng này có đem lại
hoa trái không? Một cái nhìn toàn cảnh, bao quát, mau lẹ sẽ giúp cho
chúng ta đánh giá được sự phong phú và phức tạp của việc thực hành giáo lý hôm
nay và phân biệt những điểm tối cũng như những mảng sáng, những yếu tố tích cực
cũng như là những yếu tố tiêu cực.
2. Tình
trạng giáo lý hiện nay như thế nào?
Nhìn chung, người ta
có thể thấy nhiều dấu hiệu tích cực, báo trước một tương lai tốt đẹp, ví dụ
như: sự bùng phát các giáo lý giáo dân, sự nở rộ các hình thức công đoàn mới,
sự tái xuất hiện các thừa tác viên giáo lý viên giáo dân, sự đòi hỏi gia tăng
của việc đào tạo tôn giáo, những hình thức mới để tái khám phá Kinh Thánh và
các bản văn truyền thống, sự lớn mạnh lạ lùng của những con đường dự tòng mang
nhiều vẻ đẹp, sự hiểu biết và chấp nhận vai trò cũng như chỗ đứng của người phụ
nữ, những kinh nghiệm đáng khích lệ của giáo lý gia đình, những khởi xướng mới
trong lãnh sự đối thoại liên tôn và văn hóa. Điều này thoáng cho thấy một Giáo
Hội mới đang lớn lên một cách âm thầm từ những gốc rễ riêng của nó.
Nhưng cũng phải biết
rằng dưới hình thức toàn vẹn và truyến thống, giáo lý của Giáo Hội hiện nay
cũng biểu lộ những dấu hiệu hiển nhiên về một cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Người ta không thể phủ nhận là hiện nay có nhiều triệu chứng bất ổn và không
thỏa đáng, đặc trưng của một tình trạng khủng hoảng chung. Phải nói rằng “hệ
thống” cổ truyền của giáo lý không hoạt động và không mang lại những hoa trái
như người ta mong đợi, đến nỗi một số những nhân tố, những vấn đề và những tình
trạng vẫn còn tồn tại. Hệ thống này tiếp tục xuất hiện cho đến một lúc nào đó
thì trở thành một hệ thống gây bận tâm quá đáng.
3. Đâu
là những khủng hoảng liên quan đến lãnh vực giáo lý?
3.1. Cuộc
khủng hoảng trong một Giáo Hội nhiều thế hệ
Người ta bắt đầu thấy
xuất hiện những suy tư nghiêm túc về bản chất thần học và mục vụ của những thế
hệ khác nhau. Những suy tư này cho thấy mỗi thế hệ đã nhận thức, đã hiểu và đã
sống đức tin phù hợp với bối cảnh triết lý của thế hệ ấy. Đàng khác, mỗi thế hệ
có những đòi hỏi tiên thiên, những phong thái và ngôn ngữ của nó. Những sự khác
nhau này được nối với các thế hệ thường dẫn tới hệ quả là có những cách nhìn
khác nhau trong tiến trình truyền đạt và truyền thống của đức tin Kitô, kể cả
những khái niệm truyền bá Tin Mừng và giáo lý.
Cuộc khủng hoảng này
cũng có thể nhận thức được về phương diện thể chế mà một số người gọi là
“schizophrenie ecclesiologique” (chứng tâm thần phân liệt của Giáo Hội) và
“partenariat inegalitaire” (sự cộng tác không đồng đều). Chứng “tâm thần phân
liệt của Giáo Hội” được thấy rõ qua sự kiện là các Giáo Hội địa phương hoạt
động theo Giáo Hội học trước Công Đồng Vatican II trong khi phong trào giáo lý
tìm cách quảng bá tinh thần Vat II trong giáo lý và trong giáo dục đức tin. Còn
vấn đề “cộng tác không đồng đều” được thấy rõ hơn qua sự kiện là các giáo
lý viên phải cố gắng thực hiện sứ mệnh phục vụ cộng đoàn trong khi họ đạo và
gia đình thì không góp phần tham gia của mình.
3.2. Cuộc khủng hoảng
và thất bại của tiến trình truyền thống khai tâm Kitô giáo
Đây là một lý do làm
nhiều người lo lắng. Rất cụ thể và rất thường, giáo lý khai tâm, xa “khai tâm”
và kết thúc ngược đời. Sự kiện này tỏ cho thấy là tiến trình khai tâm Kitô giáo
truyền thống là một thất bại. Rõ ràng bí tích thêm sức mà một số người gọi là
“bí tích giã từ” (sacrement de l’adieu) hoặc là “bí tích cuối cùng” (dernier
des sacrements) biểu lộ nơi nhiều người trẻ sự kết thúc thực hành tôn giáo và
cả đối với một số người là sự kết thúc chính đức tin Kitô giáo. Sự ngược đời và
thất bại này phát xuất từ tiến trình khai tâm Kitô giáo mà trong thực tế đã trở
thành tiến trình “kết thúc” đời sống Kitô giáo.
3.3. Khủng hoảng
ngôn ngữ giáo lý và sứ điệp của nó
Ngôn ngữ giáo lý và ý
nghĩa phong phú của nó tiếp tục tạo ra vấn đề. Khả năng trình bày sứ điệp Kitô
giáo cho người đương thời bằng một cách dễ hiểu và đầy ý nghĩa tiếp tục
đáng ngờ. Một tài liệu của Châu Mỹ Latinh diễn tả nó bằng một cách khác thường
khi nói rằng Giáo Hội bị tước đi hết vì cách loan truyền Tin Mừng thì nghèo nàn
và phẩm chất tồi tệ tiếp tục đáng ngờ, đến nỗi người ta có cảm tưởng rằng nói
một ngôn ngữ mà không ai hiểu nổi, gửi đến quảng đại quần chúng mà không có
thực, mang đến những câu trả lời cho những vấn đề mà không ai đặt ra và đề nghị
những giải pháp mà không ai thực hành.
Một số những vấn đề
ngôn ngữ và ý nghĩa tiếp tục ám ảnh giáo lý chúng ta. Một phần lớn vì tính
không hiệu quả của giáo lý là nó không truyền đạt một sứ điệp mà những người
của thời đại chúng ta có thể hiểu được và đem lại ý nghĩa cho họ. Người ta có
thể dễ dàng thẩm tra nó trong phần lớn những dụng cụ giáo lý đang sử dụng và
đôi khi cả trong những tài liệu chính thức. Tất nhiên là người ta không thể từ
chối nó vẫn có khả năng được trình bày tốt, thông mình mà nhiều người đánh giá
cao. Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu thì thiếu tính giáo lý, mặc dù nó có
những phẩm chất lớn những dụng cụ giáo lý đang sử dụng và đôi khi cả trong
những tài liệu chính thức về phương diện thánh kinh và thần học.
3.4. Tính bấp
bênh về giáo lý cho những người trưởng thành
Cả đến hôm nay, nhiều
Kitô hữu trong các cộng đoàn của chúng ta còn tin rằng giáo lý được dành ưu
tiên cho các trẻ em và mặc dù điều này người ta đã nhấn mạnh không ngừng từ bao
nhiêu năm về tính khẩn cấp của giáo lý dành cho người trưởng thành và sự cần
thiết bảo vệ một giáo lý thúc đẩy tăng trưởng đức tin nơi người trưởng thành
trong một Giáo Hội trưởng thành. Nhưng thực tế dường như vẫn còn rất xa những
tuyên bố chính thức về vấn đề này. Giáo lý dành cho người trưởng thành vẫn còn
đang ở điểm khởi đầu, trong khi ấy người ta tập trung hầu hết tất cả năng lực
cho giáo lý trẻ em và thiếu niên.
3.5. Những nhược
điểm trong việc đào tạo giáo lý viên, các tác nhân mục vụ và các linh mục
Nếu phải nhìn nhận
rằng đã có nhiều kinh nghiệm tích cực và cố gắng đáng để ý về lãnh vực đào tạo,
thì cách chung cũng phải công nhận rằng việc đào tạo mục vụ là không đủ và
không thích nghi. Tình trạng lo lắng đặc biệt là trong trường hợp các linh mục
và các chủng sinh chuẩn bị tác vụ mục vụ cách chung và cho giáo lý cách riêng
giống như một thói quen kéo dài rất không thích đáng. Hơn nữa, mặc dù có một số
cố gắng đáng khen, thì việc đào tạo các giáo lý viên vẫn còn nhiều điều chưa
tốt và thường bộc lộ sự thiếu khả năng trả lời cho những đòi hỏi hiện nay.
(Chuyển dịch từ Emilio
ALBERICH avec la collaboration de Henri Derroitte et Jerôme Vallabaraj, trong
“Les Fondamentaux de la Catechese”, Lumen Vitae, Bruxelles, 2006, pp.21-26).
Đây là tác phẩm mới
nhất được Cha Emilio ALBERICH, dòng DON BOSCO soạn thảo ( Ngài là một giáo sư
giàu kinh nghiệm về giáo lý của phân khoa khoa học giáo dục thuộc đại học giáo
hoàng Salesienne ở Roma. Ngài cũng từng là giám đốc học viện giáo lý của
đại học trong nhiều năm)
Cùng cộng tách với
Ngài là Cha Henri DERROITTE, người Bỉ (Giáo sư về môn giáo lý, sư phạm tôn giáo
và truyền giáo của học việc thần học thuộc đại học công giáo Louvain và Trung
tâm Lumen Vitae ở Bruxelles) và Cha Jerome VALLABARAJ, người Ấn Độ (Giáo sư về
giáo lý tại Học Viện khoa học giáo dục thuộc đại học Giáo Hoàng Salesienne ở
Roma, sáng lập trung tâm giáo lý Don Bosco ở Chennai (India).
Những phân tích và
nhận định của các Ngài dựa trên những tài liệu chính thức của Giáo Hội như
Vatican II, Tông Huấn Kitô hữu giáo dân, Tông Huấn về giáo lý, Thông Điệp Loan
Báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay của Đức Phaolô VI và những tài liệu của các
Giáo Hội địa phương, đặc biệt tại Châu Á, FABC từ năm 1970 đến năm 2001. Nó
phản ánh rất rõ tình hình giáo lý hiện nay nói chung và đặc biệt tại Việt
Người dịch Lm Vinh Sơn Nguyễn Văn Thanh (Gp
Long Xuyên)