Cha Đắc Lộ Từ Trần
AMÉ CHEZAUD, S.J.
NHÀ THỪA SAI
ALEXANDRE DE RHODES, S.J.
TỪ TRẦN 5.11.1660
Lễ giỗ thứ 339: 5.11.1999
ĐỖ QUANG CHÍNH, S.J. Phiên dịch và chú thích
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nửa thế kỷ nay, rất nhiều sách báo viết về Alexandre de Rhodes:
khen có chỉ trích cũng có. Họ tìm hiểu, giải thích từ nguồn gốc gia tộc
ông đến những hoạt động truyền giáo, những cách “hội nhập văn hoá” và công
trình chữ Quốc ngữ của ông. Tuy nhiên, hình như chưa ai công bố trên sách báo
về những giờ phút cuối cùng cuộc đời ông dựa theo các tư liệu lịch sử.
May mắn cho chúng tôi, vì cách đây 30 năm, chúng tôi đã vô cùng
sung sướng nhận được một tư liệu viết tay ngày 11.11.1660 do Amé Chezaud tường
thuật về cái chết của ông. Ame Chézaud, như bạn đọc sẽ thấy dưới đây, người
sống cùng một nhà, cùng ăn một mâm, cùng hoạt động truyền giáo với Alexandre de
Rhodes tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời đó; hơn nữa, Chezaud còn ở bên cạnh
Rhodes trong suốt cơn bệnh cuối cùng, vào chính giờ phút Rhodes tắt thở và tổ
chức lễ an táng cho ông.
Tư liệu này Chezaud viết đúng 6 ngày sau khi
Dù sao đi nữa, thiết tưởng đây cũng là một tư liệu đáng trân trọng
đối với những người quan tâm nghiên cứu về Alexandre de Rhodes. Riêng chúng
tôi, sau khi được đọc tư liệu này, chúng tôi có được cách nhìn rộng rãi hơn về
nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam thế kỷ 17, về người đã đóng góp rất nhiều cho
công trình sáng tạo chữ Quốc ngữ, hơn nữa là người cho xuất bản 3 sách chữ Quốc
ngữ đầu tiên. Bởi những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu cùng bạn đọc.
Đỗ Quang Chính, S.J.
I- Alexandre de Rhodes, ông là ai?
Tuy bạn đọc đều biết Alexandre de Rhodes là ai, có
liên hệ gì với Giáo hội và xã hội Việt Nam, nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc lại
cuộc đời của ông trên vài trang giấy, sau đó mới bàn đến những ngày cuối đời
của ông trên dương thế. Cũng xin bạn đọc lưu ý: Trong tập này chúng tôi xin
viết đúng tên Alexandre de Rhodes, hoặc viết ngắn gọn là
1. Thanh thiếu niên một nơi, thành nhân một chốn
Gốc gác Do Thái hay Pháp, Tây Ban Nha? Trước đây,
người ta cho rằng Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái, từ lâu đời có mặt tại Tây Ban
Nha, xứ
Sinh 15.3.1593, thuộc giáo xứ thánh Madalena tại
Avignon (từ năm 1960, Torralba chứng minh năm sinh 1591 của A. de Rhodes là
sai), A. de Rhodes cũng như những người trong gia đình sinh sống tại Avignon,
là công dân dưới quyền Đức Thánh Cha, mang quốc tịch Tòa thánh, mặc dù ông nói
tiếng Provençale và tiếng Pháp. Thân sinh của Alexandre là Bernardin II de
Rhodes, một quan chức giàu có, mang tước vị Ecuyer d’Avigiion, kết hôn với
Françoise de Raphaelis ngày 10.9.1590; anh của ông là Jean (1591-1621), Tiến sĩ
Luật học; em trai là Georges (1597-1661) tu trong Dòng Tên, nhiều năm làm Giáo
sư Thần học; ngoài ra còn 5 em ruột nữa: Gabrielle, Laure, Suzanne, François,
và em út là Hélène sinh năm 1607 .
Bảy tuổi, Alexandre cắp sách đến trường TrungTiểu
học
Tiểu hoc tức Cấp 1 (Petit Collège) tính từ dưới di
lên gồm các lớp 5, 4, 3, 2, 1, tuổi từ 7-13: Các lớp Tiểu học 5, 4, 3 học ngữ
pháp La văn, Hi Lạp, tập nói và viết cho đúng; về La văn theo Cicero, còn Hi
Lạp theo các tác giả Ovide, Catulle, Tibulle, Properce, Virgile. Lớp 2
(Humanités), tuổi 10 và 11, nhằm trau dồi văn chương, thi văn La ngữ, Hi Lạp;
về La văn theo các tác giả César, Tite-Live, Quinte-Curce, Horace, còn về Hi
Lạp theo Esope, thánh Chrysostome, các thư của Platon, Synésios, và Iliade của
Aristophane. Lớp 1 (Rhétorique), tuổi 12 và 13, nhằm trau chuốt văn chương
Hi-La trong khi nói cũng như viết, đồng thời học Sử Điạ, Luân lý tổng quát; về
La văn theo Cicero (Partitiones, De orạtore V.V.); về Hi Lạp theo Quintilien,
Tite-Live, Hésiode, Homère, Pindare -Démosthène. Bậc Tiểu học có khi thêm lớp
6, cũng vào lứa 7 tuổi.
Trung hoc: tức là cấp 2 (Moyen College, Cycle des
Arts), tuổi từ 14-16; bắt đầu học Triết trong hai môn Siêu hình học và Luận lý
học theo Aristote và Platon; về Khoa học gồm Vật lý, Vạn vật học, Thiên văn,
Toán học theo các tác phẩm của Aristote, Euclide, Sacro Bosco, Oronce Fine, các
lý thuyết về các hành tinh của Peurbach, lượng giác học của Regiomontanus (cũng
gọi là Johann Muller). Trong bậc này, các tu sĩ Dòng Tên (nếukhấn tạm độ tuổi
này) học 3 năm, học sinh giáo dân 2 năm.
Việc lên lớp ở Tiểu và Trung học không theo năm
học, nhưng theo khả năng.
Cao đẳng, hay Cấp 3 (Grand Collège), đây là cấp
Đại học, phải học đủ 4 năm chuyên về Thần học. Thường là do một Ban Giám đốc
riêng biệt điều khiển, trường cũng được đặt xa hai trường Trung Tiểu học; còn
Trung Tiểu học thường có một Ban Giám đốc chung .
Vậy, Rhodes học ở Collège d’Avignon được hiểu là
Trung Tiểu học, từ năm 1600-1612, tức 12 năm, lúc đó Rhodes được 19 tuổi. Nhờ
học với các cha Dòng Tên, nên ơn gọi tu Dòng Tên của
Tại sao phải sang tận Roma? – Chẳng phải vì ham
cái Roma cổ kính, nhưng chỉ vì khi gia nhập Tỉnh Dòng Tên Roma, sẽ dễ dàng được
vua Bồ Đào Nha chấp thuận cho ông đi truyền giáo ởxứ Mặt trời hơn, là xứ cũng
thuộc quyền vua Bồ Đào Nha theo chế dộ bảo trợ (padoado Portugués).
Chính thức vào Nhà Tập ngày 14.4.1612, tuổi 19;hai
năm sau, theo Hiến pháp Dòng Tên,
Rhodes vừa thụ phong linh mục xong, thì, đùng một
cái, chính trong ngày lễ Phục sinh năm 1618, Cha Bề trên Cả Vitelleschi gọi vị
tân linh mục nhà ta sang Trụ sở của Ngài, nói cho biết Ngài chấp thuận cho đi
Nhật Bản truyền bá Tin Mừng như ý nguyện. Vui quá là vui! Từ đây,
2. Đông – Tây xa cách mọi mặt
Các nhà truyền giáo thời ấy muốn đi từ châu Âu qua Đông Á, trừ
Philippin, thường phải theo ngả Lisbõa, để từ đó tàu vua Bồ sẽ chở đi. Cuối
tháng 1.1619 Rhodes tới thủ dô Lisbõa, sau khi rời bỏ Roma từ cuối nãm 1618,
ghé qua
3. Còn hơn cả những gì mong đợi
Cuộc cấm đạo ở Nhật do Tướng quân Phong Thần Tú Cát khởi đầu từ
1587, rồi đến Tướng quân Đức Xuyên Tú Trung năm 1614, làm
cho Giáo hội non trẻ ở đây tàn lụi dần. Giữa lúc ấy thì ở Đàng Trong xem ra
việc truyền bá Tin Mừng khá thành công; do đó bề trên Dòng Tên ở Áo Môn gửi
Rhodes đến xứ Chúa Nguyễn Phước Nguyên thời ấy. Thế là cuối năm 1624 Rhodes có
mặt tại Thành Chiêm (Thanh Chiêm, Kẻ Chăm) cách Hội An về phiá Tây chừng 4km,
để học tiếng Việt với linh mục Francisco de Pina, một tu sĩ Dòng Tên đầu tiên
thời điểm ấy thông thạo tiếng Việt nhất. Xem ra từ cuối năm 1624 đến tháng
6.1626, Rhodes được bề trên cho ở Đàng Trong với mục đích chính là học tiếng
Việt và làm quen dần với con người và xã hội Việt, để rồi tung ông ra Đàng
Ngoài. Vì vậy, theo các tài liệu của Rhodes, thì hơn một năm ở xứ Trầm hương
Yến sào,
Để chuẩn bị cho sứ vụ ở Đàng Ngoài, Rhodes phải về Áo Môn đã, không
thể trực tiếp từ xứ Chúa Nguyễn vào xứ của Chúa Trịnh được, vì hai nhà cầm
quyền đang thù nghịch nhau dữ dội.
Tháng 6.1626, Rhodes cùng với linh mục Pedro Marques bỏ Đàng Trong
về Áo Môn chờ gió mùa sang năm sẽ vào đất Chúa Trịnh. Vâng, ngày 12.3.1627,
Thế là những chuỗi ngày “xui xẻo” ập đến: 28.5.1628 hai cha bị quản
thúc tại chính ngôi nhà do Chúa Trịnh cung cấp; 10 tháng sau, 3.1629, hai vị bị
Chúa Trịnh ra lệnh đưa xuống Bố Chính. Nhưng hai cha cứ từ từ lần mò lên tới
Vinh, rồi cơ hội đến, hai cha theo tàu Bồ Đào Nha lại lên Thăng Long. Rốt cuộc,
tháng 5.1630, hai cha bị Chúa Trịnh trục xuất hoàn toàn khỏi xứ.
Tuy ở Đàng Ngoài hơn 3 năm, nhưng tính ra chỉ hơn một năm đầu là
được tự do. Vậy mà tổng cộng số người được rửa tội lên đến 5.602, chưa kể
Về Áo Môn,
4. Đùa với tử thần
Năm 1639 tất cả 6 Giêsu hữu bị chính quyền đuổi
khỏi Đàng Trong. Với tình hình này, bề trên phải tìm một người trước dây dã
quen thuộc với xã hội Đàng Trong để can đảm và mau lẹ ứng xử với mọi tình huống
về mặt tôn giáo. Ai dây? Phải chọn
Từ năm 1640-1645,
Tổng cộng trong giai đoạn này, 4 lần đi về giữa Áo
Môn – Đàng Trong thật là cực khổ; mỗi lần tạm rút lui khỏi Đàng Trong cũng có
nghĩa như bị chính quyền hoàn toàn trục xuất khỏi đây. Thời gian những lần đi
về:
tháng 2.1640 đến tháng 8.1640; tháng 12.1.640 đến
tháng 7.1641; tháng 1.1642 đến tháng 7.1643; tháng 1.1644 đến tháng 7.1645.
5. Bao la mà vẫn chật chội
Rhodes phải rời bỏ Đàng Trong ngày 3.7.1645 (nơi
khác Rhodes lại ghi là ngày 9.7.1645) , mang theo di tích thánh là sọ của thầy
giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Gò Xử ở Thành Chiêm ngày 26.7.1644 chính
Theo lời yêu cầu của bề trên Dòng Tên ở Áo Môn,
ngày 20.12.1645 Rhodes đáp tàu về Roma, dể trình bày với Bề trên Cả Dòng Tên về
tình hình Tỉnh Dòng Nhật Bản, với Tòa thánh về thực trạng Giáo hội Việt Nam.
Đường về Roma đốì với Rhodes còn nguy hiểm gian nan hơn cả những chuyến vượt
biển trước đây, bởi vừa lâu dài, vừa bị người Hà Lan bắt giam gần 3 tháng ở
Jakarta vì dám dâng Thánh Lễ ở đây là nơi do người Hà Lan theo đạo Tin Lành cai
quản. Ngày 27.6.1649 mới “vác xác” về tới “Kinh thành muôn thuở” sau một cuộc
hành trình 3 năm 6 tháng!
Bận việc quá! Tại Roma, nhà truyền giáo số 1 ở
Việt Nam vừa phải lo xuất bản 5 cuốn sách để nói cho Giáo hội Âu châu biết về
Giáo hội Việt, về thành quả chữ Quốc ngữ, lại phải vận động chạy ngược chạy
xuôi, đến cả xứ Piémont, Thụy Sĩ để tìm mấy ứng viên Giám mục cho xứ Con Rồng
Cháu Tiên theo ý Tòa thánh. In sách thì được rồi, nhưng chẳng ai muốn đi làm
Giám mục ở nơi xa xôi hẻo lánh quá là khác lạ với châu Âu.
Được sự chấp thuận của Thánh Bộ Truyền giáo,
6. Mênh mông nước Ba Tư
Phải vâng lời Đức Thánh Cha ngay lập tức, không
trì hoãn một giây. Cha Bề trên Cả thì đương nhiên rồi; còn
[…]. Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em
chúngtôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lầu dài, có thể còn nói nhiều
chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại
chính là điềm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên
đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩgiống như cây gậy của ông già như
thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha
sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy
(Je ne veus pas parler de son obéissance, et humilité, aussi ne le scaurois ce
faire qu’a ma confusion, si pourtant on en veut scauoir mon sentiment et celuy
denoz freres nous nous accordons ence poinct de dire, quil a esté très
excellent [… ]. Je masseure qz ceux des nostres parmi lesquels il a plus long
temps demeure et trauaillé pourront bien dire de choses plus remarquables le
subject de la pnte relaôn nest principalem que le dernier poinct de sa vie qui
monstre bien quelle en a esté toute la tissure. Jamais on n’a veu un religieux
plus semblable a vn baston d’un vieillard qz luy durant toute sa maladie
patient coe sil neùst este plus sensible quun baston, prest a setenir en la
posture quon vouloit coe sil neust eu plus de volonté quün baston).
Đưa cha
Đi Ba Tư, nhưng ở tại đâu? Thưa ở tại Ispahan
(Asfahan), thủ đô của Ba Tư thời ấy, phía Nam Téhéranngày nay (Từ năm 1788, Ba
Tư dời thủ đô từ Ispahan lên Téhéran).
Ngày 16.11.1654, Rhodes lên tàu từ cảng Marseille
để tới Malte; lại lên tàu từ đảo Malte để đi Syria; ngày 11.12.1654 tới Seyde
thuộc Syria; mừng lễ Chúa giáng sinh tại Thánh địa Palestine; mãi đến
1.11.1655, Rhodes mới đặt chân lên Ispahan. Thật ra, đối với con người xứ
Avignon này, thì Ispahan cũng chẳng lạ lẫm gì, bởi vì trong chuyến đi từ Áo Môn
về Roma, Rhodes đã ngừng tại Ispahan 2 tháng rưỡi kể từ ngày 13.4.1648 đến
28.6. Tại Ispahan có một cộng đoàn Dòng Tên, gồm
Vương quốc Ba Tư rộng lớn mênh mông, nhưng đối với
Rhodes cũng như các thừa sai khác (Augustinô, Capuxinô ) vẫn chật chội, bởi lẽ
dân chúng toàn làHồi giáo, giảng đạo ai chịu nghe, làm sao cho người Hồi giáo
chấp nhận Đức Giêsu Kitô chẳng những là ngôn sứ của Thiên Chúa mà còn là Thiên
Chúa thât. Dù gì đi nữa nhà thừa sai của chúng ta cũng phải học tiếng Ba Tư
đã.Sáu mươi hai tuổi rồi, dù Rhodes có tài về ngôn ngữ cũng chẳng phải như khi
học tiếng Bồ, tiếng Việt, về vấn đề học ngôn ngữ Ba Tư, trong thư Rhodes gửi
cho người em ruột là linh mục Dòng Tên Georges, ngày 20.5.1658: Từ khi anh đến
ở xứ này, Chúa đã ban ơn cho anh học được tiếng Ba Tư, anh biết tạm đủ để giảng
thuyết (Depuis que je suis en ce pays, Dieu m’a fait la grace d’apprendre la
langue persienne).
Đọc bức thư của Amé Chezaud, chúng ta thấy
cuộctruyền giảng Tin Mừng của
Tính dịu dàng của cha [Rhod.es] đã làm cha luôn
ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh
bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế,
đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc
lành (Quant a ?a douceur, certes au milieu des Loups il sest bien icy tousiours
comporté en brebis, supportant auec ioye, les maledictions, paroles de mespris
et mesmes les coups de pierres, dont on prend maintenant icy coustume de nous
accueìllir, donnant en recõpense du Laict de bonnes et douces paroles et de
benedictions).
Để tỏ lòng nhiệt thành, cha di khắp các làng chung
quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng Nước thanh tẩy khi các
em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người Lương dân chế nhạo,
cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể diễn
tả cho đúng trong tiếng Ba Tư; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những dịp
ích lợi cho phần rỗi người Lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào, hơn
nữa còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra cha
nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình đã
chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở các nước khác. Thật ra không
hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do
thiếu mầm mống vì không đượcchuẩn bị và kém sâu Lắng (Coe [Comme] pour
contenter son zele il alloit chercher par les villages d’alentour des enfans
malades dans lesperance de les lauer de Leau Lustrale, sil les trouuoit
moribonds, il ne s’impatientoit pas de se voir mocque des infldelles, et lassé
du chemin, et rebuté quelques fois pour ne pouuoir si bien sexpliquer en
persien aux discours qu’il ne se lassoit iamais de faire dans les occasions aux
Infîdelles pour leur salut, sans crainte ou appréhension aucune, voire poussé
du désir de mourir par cette voye, par zele qui sembloit quelques fois aller à
l’excez (sil y peut passer) tellement q [que] si bien il na pas icy apporté et
faict du fruict coe [comme] il auoit fai et ailleurs, ce nest pas quil se soit
épargné, ou q [que] son zele se soit rallenti, mais faute de matiere préparée
et desposée).
Sánh với cuộc thành công của Rhodes ỗ Việt
Ngày 5 tháng 11 năm 1660, Alexandre de Rhodes, nhà
thừa sai của chúng ta qua đời tại Ispahan, thọ 67 tuổi.
Liền đây, chúng tôi xin trình bày bức thư của cha
Amé Chezaud, thuật lại lúc cha
THƯ BÁO TIN CHA ALEXANDRE DE
Trong phần này, chúng tôi xin chia làm bốn mục:
• Vài điều cần lưu ý.
• Tờ thứ nhất của bức thư.
• Bức thư dịch sang tiếng Việt, từ nguyên bản Pháp ngữ.
• Nguyên bản Pháp ngữ (xin không đăng tải trong khuôn khổ bài này)
1. Vài diều cần lưu ý
Chính bức thư do cha Amé Chezaud viết trong 3 trang giấy khổ 20cm60
X 29cm50, chữ viết nhỏ li ti, văn dài lê thê, nhiều chỗ chấm câu không rõ ràng,
lại là thứ tiếng Pháp thế kỷ 17. Chính vì vậy, khi phiên dịch sang tiếng Việt,
chúng tôi không thể dịch theo nghĩa từng chữ; đàng khác cũng không thể chấm câu
hoàn toàn như nguyên bản. Chắc chắn trong bản dịch này có nhiều khiếm khuyết, mong
bạn đọc chỉ giáo.
2. Tờ thứ nhất của bức thư
Tờ thứ nhất của bức thư là tờ giấy trên đó viết mấy dòng chữ, đề
tên, địa chỉ người nhận và tên cùng địa chỉ của người mà tác giả muốn nhờ ông
chuyển cho người nhận thư. Chúng tôi tạm coi tờ giấy này như một bao thư, dù
không mang hình thức bao thư, không dán kín. Sau đó sang tờ thứ hai trở đi mới
chính thức là bức thư. Vậy chúng tôi xin mô tả chi tiết hơn mấy dòng chữ
tờ thứ nhất của của bức thư này.
Trên cùng trang giấy của tờ thứ nhất, có ba loại nét chữ khác nhau,
chứng tỏ do ba người viết: Amé Chezaud và hai người khác.
a- Trước hết là nét chữ của chính tác giả bức thư, cha Amé Chezaud:
Gửi cha đáng kính Jacques Renault/Giám Tình Dòng Tên Pháp/ tại
Parys.
(AMon Reuer. Pere/ Le p. Jacques Renault Pro=/ uincial de france de
la Compagnie/ de JESUS/ a Parys).
Nhờ cha đáng kính Georges I de Rhodes cũng thuộc Dòng Tên/ tại
(Recomandee au R p. Georges/ de Rhodes de la mesme Compi/ a
b- Tiếp đến là chữ của một người khác viêt bằng La ngữ, nhưng chúng
tôi không biết của ai; chỉ phỏng đoán của người làm việc nhà Kho lưu trữ:
Cha Alessander de/ Rodes/ qua đời/ tại Aspan tháng 11 ! 1660
(Obiit/ p Alessander de/ Rodes Aspani nouẽ/ 1660).
c- Sau cùng nét chữ của người thứ ba, trên cùng trang giấy; chúng
tôi cũng không biết do ai viết:
Thư này được viết do chính tay Cha Aymé Chezaud.
(Cette lettre esùescrite/ de la propre main/ du p. Aymé Chezaud).
Để bạn đọc hiểu biết rộng hơn, chúng tôi xin ghi lại tiểu sử hai
nhân vật mà chúng tôi có tư liệu: AméChezaud và Georges de Rhodes:
Amé CHEZAUD (1604-1664); chính cha Chezaud ký tên Amé Chezaud trên
bức thư cha viết tại Ispahan ngày 11.11.1660, đưa tin cha A. de Rhodes qua đời;
có người lại viết tên cha là Aymé Chezaud: còn cha Joseph Déhergne viết là Aimé
Chézaud. Cha Chezaud sinh năm 1604 tại Lyon; gia nhập Dòng Tên tại Avignon
22.9.1627; khấn trọng tại nhà thờ thánh Giacôbê của Dòng Tên tại Marseiile ngày
7,6.1637. Năm 1639 Chezaud đi truyền giáo tại Syria; năm 1652 cha lập cư sở
(residentia) Dòng Tên tại Julfa gần Ispahan; khi cha Alexandre de Rhodes đến
Ispahan làm bề trên cộng đoàn Dòng Tên ở đây, thì (có lẽ) chuyển cộng doàn ở
Julfa vào Ispahan. Từ khi A. de Rhodes có mặt tại Ispahan, 1655, cho đến khi
qua đời, 1660, Chezaud luôn ở với cha, trừ khoảng 11 tháng, 1658-1659, Chezaud
theo lời yêu cầu của A. de Rhodes, đi đường bộ theo ngả Khorassan đến vùng
Tartarie truyền giáo. Không thành công, Chezaud lại trở về Ispahan khoảng cuối
năm 1659 đầu 1660. Chezaud qua đời tại Ispahan ngày 14.9.1664 (Joseph DÉHERGNE,
Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800, Roma – Paris, 1973, tr. 54).
Georges de RHODES (1597-1661), sinh tại
DLsputationum Theologìae scholasticae in quibus Deus, angelus,
homo, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior,
Disputationum Theoỉogiae scỉioỉasticae in quibus Christus, Deipara,
Sacramenta, sex Tractatibus explicantur. Tomus posterior,
Philosophia peripatetica, ad veram Aristotelis mentem. Libris
quatuor digesta & disputata, pharus ad Theologiam scholasticam,
3. Bức thư phiên dịch sang tiếng Việt từ nguyên
bản Pháp ngữ, kèm theo chú thích
Thư Luân lưu về Cha. A. de Rhodes qua đời
Thưa Cha dáng kính. Bình an của Đức Kitô . Xin báo
tin cha-hay, cha Alexandre de Rhodes đã qua đời tại đây vào ngày 5 tháng mười
một, sau một cơn bệnh lâu dài và lên xuống thất thường. Bởi vì bệnh sưng bụng
làm cha yếu mệt hầu như trọn tháng chín, tiếp đến là bệnh nhức buốt tai hại làm
cha đôi khi không dâng Thánh Lễ được (điều này còn gây đau đớn cho cha hơn là
cơn bệnh). Tình trạng trên kéo dài đến giữa tháng mười, mà chẳng có phương
thuốc nào giúp cha dễ chịu hơn. Từ đó cha phải nằm liệt giường, không còn dâng
Thánh Lễ được, vì cha còn bị rơi vào một thứ bệnh rỉ máu mà như người ta xét
đoán do ung nhọt trong ruột. Chứng rỉ máu hay xảy ra, đã chẳng cho cha nghỉ yên
chút nào ngày cũng như đêm. Những cơn khó chịu ấy kèm theo sự chán ngấy, đúng
hơn là ăn chẳng biết ngon, rồi đến đau lá lách. Người ta đã chữa cha bằng mọi
thứ thuốc mà người ta đoán phải có lợi cho cha, nhưng tất cả những thứ bệnhấy
chẳng chịu một loại thuốc nào. Rõ ràng là sức khỏe của cha rất tàn tạ, suy
nhược. Tuy nhiên, nhờ tim cha còn tốt, nên ngay những ngày cuối cùng của cơn
bệnh, chúng tôi thấy cha ít khỉ lên cơn sốt. Hy vọng những thứ bệnh đang –tấn
công cha, sẽ không thể làm cha chết vào chiều thứ sáu 5 giờ trước khi cha tắt
thở. Vì lúc đó dường như sức khỏe tốt hơn, nên cha dùng bữa theo thường lệ. Đến
bốn hoặc 5 giờ sau, nhờ ơn Chúa, cha chịu các phép Bí tích, rồi linh hồn về với
Chúa cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Tôi muốn nói mà không thêm bớt chút nào, đó
là cha đã kết thúc cuộc đời như ngọn nến tàn dần.
Theo tôi, đã từ lâu chẳng những cha ước ao, mà còn
dự đoán và biết trước thời điểm định mệnh đó, Vì từ khi tu huynh George Berthe
và tôi trở lại đây, đến nay được một năm, thì cha đã nói với chúng tôi, cha tin
tưởng rằng Chúa đã cho phép chúng tôi trở về để giúp cha trong giờ chết, kẻ
giúp về phần thiêng liêng, người về phần xác. Từ đó cha chuẩn bị chết bằng cuộc
linh thao thường niên với một tâm hồn sốt sáng mới mẻ, đặc biệt cha xưng tội
chung về cả cuộc sống cũng vì ý ấy. Do đó, cha dọn mình kỹ lưỡng và lâu dài;
cha xét mình và viết ra cả những chi tiết cùng hoàn cảnh lầm lỗi bé nhỏ nhất.
Bởi đấy cha chỉ có thể hoàn thành trong nhiều ngày, luôn luôn với sự xúc động
bề trong cũng như bề ngoài khi ăn năn tội, một sự xúc động lâu dài như cuộc đời
của cha; mỗi lần xưng tội là mỗi lần cha xúc động. Cha xưng tội hàng ngày theo
thói quen bao nhiêu có thể, ít nhất từ khi cha có mặt ở đây [1655], Trong việc
xưng tội, cha tìm ra chất liệu [tội] để xưng với một lương tâm kính sợ Chúa tới
mức bối rối, coi là tội những thứ không phải là tội và cha dọn mình rất kỹ
lưỡngnhư tôi được biết, vì trong 5 năm 4 ngày tôi đượchân hạnh làm người giải
tội cho cha (trừ khoảng 11 tháng tôi vắng mặt).
Hầu hết và có thể nói là tất cả thư từ cha viết
trong năm nay [1660] chứng tỏ khá rõ cha đã dự đoán cái chết gần kề; những ai
nhận được thư cha viết trước khi phát cơn bệnh, đều có thể thấy điều đó.
Cha đã xin tôi cho cha biết khi cơn bệnh trở nên
nguy kịch, nếu người ta doán được thực là nguy. Nhưng khi chúng tôi biết được
thì chẳng còn thuốc nào chữa nổi.
Vào lúc hai giờ chiều, cha ngủ thiếp đi mà chúng
tôi lại nghĩ là tốt, vì xem ra giấc ngủ khá êm đềm vàmạch của cha lại không
giống với người chữa trị đã nhận định là mạch người sắp chết. Tuy thế tình
trạng này kéo dài tới khi cha tắt thở tức là khoảng tám giờ sau .
Cha dâng Thánh Lễ cuối cùng ngày 24 tháng mười,
sau đó phải liệt giường hoàn toàn và xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa nhiều
lần. Chính cha ước ao được năng rước Mình Thánh, nhưng vì lòng cung kính lại
không dám, bởi nghĩ mình chẳng xứng.
Bệnh rỉ máu hành hạ cha hầu như đêm ngày bất kể
giờ giấc. Trạng thái yếu liệt cuối cùng này gây bất lợi cho chúng tôi và làm
cho chúng tôi mất an ủi, vì chúng tôi hy vọng qua lời chúng tôi hứa với nhau,
cha sẽ được đóng ấn cuộc đời bằng việc chịu phép Xức dầu bệnh nhân; nhưng cơn yếu
liệt ấy đã cất khỏi cha không còn dịp tỏ lòng sốt sáng bằng việc lãnh nhận phép
Xức dầu, diều mà cha đã xin từ trước.
Đó, cái chết đã xảy ra với cha vào tuổi ngoài lục
tuần bắt đầu kể từ ngày tháng năm là lúc cha sinh tại
Cha qua đời để lại cho chúng tôi nhiều nuối tiếc
vàan ủi: Nuối tiếc vì mất cha, không những đối với chúng tôi, mà còn đối với
biết bao vị thừa sai rải rác trong khắp vùng Trung Đông này (Leuaủt) là những
nơi cha đã lay chuyển họ cách hữu hiệu và cha còn làm nhiều việc để chỉ đường
dẫn lối cho họ, tỏ ra săn sóc họ bằng tâm tình người cha, cho họ lời khuyên và
khuyến khích họ bằng lòng nhiệt tình của người cha; an ủi, vì người ta sẽ còn
tưởng nhớ đến cha lâu dài, chẳng những nhờ một số thư từ rất xây dựng mà cha đã
viết và soạn thảo do kiến thức của cha, mà còn nhờ các bản tường thuật và các
tác phẩm cha đã biên soạn để xây dựng cho mọi người . Cho nên chẳng cần tôi
phải viết lại cuộc đời của cha, vì chính cha đã làm khá nhiều cho người ta biết
công trình của mình.
Nước Ý và nước Pháp là những nơi cha dã từ đó đến
đây, tỏ ra tôn kính cũng như ngưỡng mộ cha và nhiều vị cao cấp ủng hộ cha .
Danh giá mà tất cả mọi người dành cho cha nói chung cũng là vì người ta cho
rằng cha có một đời sống thánh thiện. Quả thật tôi chưa thấy một ai rất đúng
mực như cha trong tất cả mọi việc cha làm. Nếu viết về các nhân đức của cha,
không biết phải bắt đầu từ nhân đức nào.
Xem ra nhân đức thứ nhất phải kể ra đây là cha
luôn hãm mình phạt xác, vì mọi ngày cha đều đánh tội trừ ngày Chúa nhật và Lễ
trọng; đó là thói quen cha hằng giữ cho đến cơn bệnh cuối cùng này. Trong tuần
lễ, có mấy ngày cha cũng mang một dây ngang thắt lưng, bện bằng sợi arrhal có
nhiều mũi nhọn, mà khi người ta tắm xác cha đã nhận ra nhiều dấu vết trên mình.
Cha kiêng thịt mọi ngày, thường chỉ ăn rau hay thứ gì giống như vậy thay cho
bữa tối.
Cùng với những hãm mình thể xác, cha còn nhiều hãm
mình nội tâm; vì khi còn khỏe mạnh, ngày nào cha cũng thức dậy một giờ trước
những người khác để cầu nguyện (ngoài thói quen cầu nguyện theo luật Dòng Tên).
Việc cha liên tục học hỏi đường thiêng liêng vẫn
không ngăn trở cha học tiếng Ba Tư. Để tiếp tục học được ngôn ngữ này, cha vận
dụng nhiều công sức như một chàng trai trẻ khỏe mạnh phải làm hết mình cho công
việc đó. Muốn được tiến bộ, cha tập viết không biết mệt mỏi.
Lòng nhiệt tình của cha không phải chỉ đóng khung
trong nước Ba Tư bao lâu cha còn có mặt tại đó, mà còn mở rộng ra khắp phương
Đông. Vì vậy, dù cha chẳng đi tới vùng rộng lớn Tartarie được, nơi Dòng Tênchưa
mở cuộc truyền giáo, cha lại cổ võ tôi đi tới đó, rồi phái một tu huynh
[Georges Berthe] đi cùng với tôi, mà không giữ chúng tôi ở lại cùng cha. Việc
truyền giáo ở đó không thành công (cũng do những bất toàn của tôi). Cha còn
muốn mở cuộc truyền giáo cho người xứ Géorgie, nhưng đâu có người để gửi đi.
Tính dịu dàng của cha đã làm cha luôn luôn ứng xử
như con chiên giữa đàn Sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh bỉ và
cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế; đáp
lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc lành.
Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng chung
quanh hầu tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng Nước Thanh tẩy khi
các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người Lương dân chế
nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể
diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư . Cha cũng chẳng bao giờ nản chí trongnhững
dịp ích lợi cho phần rỗi người Lương dân; khồng sợ sệt, không e ngại chút nào,
hơn nữa còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra
cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình
đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở các nước khác. Thật ra
không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ
do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng.
Tất cả các Kitô hữu và nhiều Lương dân tỏ lòng rất
kính phục cha, ngay cả những người không quen biết cha cũng thế, dù chỉ thấy
cha khi đi ngang qua. Nhiều người coi cha như một vị Giám chức vì cha nghiêm
trang, đĩnh đạc mà khiêm tốn. Những người khác lại gọi cha là nouroni, nghĩa là
sáng rực hay đầy ánh sáng; có những kẻ gọi cha là thánh, vì ngưỡng mộ cha có tư
cách thánh.
Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm tốn
của cha, vì nếu có nói tôi chỉ nói được cách mơ hồ. Tuy nhiên, nếu ai muốn biết
cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về diều đó thì chúng tôi đều đồng tâm
nhất trí về diều này, để nói rằng cha thật tuyệt vời. Ai đã biết cha nhờ sống
với cha thì chẳng hồ nghi về điều ấy.
Lòng bác ái của cha đối với người nghèo,
ngườibệnh, dù là người trong nhà hay người ngoài cũng được cha đối xử như nhau.
Đối với kẻ này cha như là người cha, với kẻ khác cha như là người mẹ. Bằng
chứng là, trong khi cha bệnh, cũng có một người phục vụ trong nhà cùng nằm bệnh
với cha, đã được-cha săn sóc còn hơn là săn sóc cho chính cha, vì cha không
chịu để cho anh ta thiếu thốn gì. Cha hạ mình làm những công việc thấp hèn
nhất, những việc càng khó thì cha càng tin tưởng vào Chúa. Cha theo ý Chúa coi
như ý mình, dù bất cứ sự gì xảy đến. Tính dịu dàng của cha trong khi chuyện trò
và sự hiện diện của Chúa, là hai yếu tố làm nên đức tính trên.
Đức trong sạch của cha lại không thể nào không
bằng các đức tính khác. Tôi không thấy người nào thận trọng hơn cha trong việc
gìn giữ giác quan nhất là sự nhìn xem; đối với các cuộc thăm viếng của phụ nữ,
cha tiếp đãi họ chỉ vì lòng bác ái.
Trong khi trò chuyện với người Hồi giáo, cha tìm
cách cho họ biết bao nhiêu có thể về hai mầu nhiệm chính của đức Tin chúng ta,
đó là Thiền Chúa ba ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Trong các lời chào hỏi của người
Hồi giáo, họ thường nói Kristus nigah darad. (Thiên Chúa gìn giữ anh chị),
nhưng cha lại chào họ Hhazaret eissé hay Christus nigah darad (Đức Giêsu Kitô
gìn giữ anh chị) để họ hiểu rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa .
Dù định viết vắn tắt, tôi cũng không được phép không
nói gì về lòng sùng kính của cha đối với phép Thánh Thể, với Đức Thánh Trinh
nữ, các Thiên thần và một số vị Thánh, cách riêng các Thánh trong Dòng chúng
ta, nhất là các đấng tử đạo mà cha biết mặt và cha còn ghi nhớ như mới tinh.
Khi nhớ tới các vị tử đạo trên dây, trong lòng cha pha lẫn một nỗi ưu phiền
thánh thiện, vì đã không có được giờ phút giống như các ngài, đổ máu mình ra
hay phải uống nước hoặc bị treo trên hố ở Nhật Bản như nhiều bạn bè của cha, mà
cha còn mang di tích thánh của các ngài trên mình cách rất tôn kính và ước mong
được kết thúc đời sống bằng cuộc tử đạo nếu Chúa ban ơn này cho cha mà cha hằng
khẩn thiết cầu xin. Vì tôn kính các đấng tử đạo, cha còn lưu ý đến việc hằng
ngày trong bữa ăn đọc truyện vài vị tử đạo, hoặc anh em trong Dòng qua đời nhờ
tin tức do các anh em gửi đến.
Lòng sùng kính của cha đối với Đức Mẹ Thiên Chúa
được nhận thấy mỗi khi cha nói với người tín hữu hay người Lương dân. Để tỏ
lòng tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa, hằng ngày cha còn lần hạt ngoài các việc sùng
kính khác.
Đàng khác, ngay từ khi còn nhỏ tuổi cha đã khấn
hứa cách riêng giữ đức khiết tịnh, cho nên cha không thể chịu đựng được khi
người đời nói chuyện với cha hay trước mặt cha mà nói tục. Những khi ấy cha
cảnh cáo họ cách nhẹ nhàng dể họ đừng nói như thế nữa, và thường là có hiệu
quả. Cha cũng hành xử như vậy đối với những ai vì bất cẩn hay vì lý do nào khác
mà buông lời gièm pha hay làm hại danh giá người thân cận.
Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em chúng tôi
đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều chi tiết
đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; đó lại chính là điểm
cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa
bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già như thấy cha
trong toàn cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở
tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy, chẳng tỏ
ra một dấu hiệu nào là đau đớn, cũng chẳng tỏ ra khó chịu khi phải dùng thuốc
hay đồ ăn người ta trao cho. về điều này chúng tôi phải ngưỡng mộ cha trong bữa
ăn cuối cùng, khoảng ba hoặc 4 giờ trước khi cha trút linh hồn, vì cha tỏ ra
vâng phục y tá của cha cách lạ lùng . Dù khi đó giác quan củacha bị suy nhược,
song cha chẳng quên chút nào việc làm phép và tạ ơn, hơn nữa còn làm dấu Thánh
giá theo thói quen của cha trên ly thuốc người ta trao cho cha uống.
Liền sau đó là cơn hấp hối nhẹ nhàng, rồi cha tắt
thở.
Đó là cái chết mà trước mặt Chúa còn cao quý hơn
việc chúng tôi xúc động vì mất cha. Nếu chúng tôi thường coi sự ra đi của cha
là mất mát, thì công phúc của cha làm cho chúng tôi, đúng hơn phải coi đó là
lợi ích. Chúng tôi hy vọng nói như thế mới phải, dù cha không còn hiện diện để
gầy dựng xứ truyền giáo này; chúng tôi vẫn tin một cách đạo đức như là cha đang
còn ở đây, nơi cha đã làm được nhiều việc, và cha còn hiện diện hơn nữa tại
chính nơi chúng tôi đang ở.
Vì nhiều lý do, chúng tôi không an táng cha trong
nhà chúng tôi, nhưng trong nghĩa trang chung cho các Kitô hữu, khu vực dành cho
những người Công giáo. Thứ nhất, chúng tôi chỉ có một nhà nguyện ở tầng hai nên
chẳng thể an táng cha ở đó, ngoài ra cũng chẳng còn nơi nào trong nhà chúng tôi
ở dành cho việc này được. Thứ hai, chúng tôi cũng chẳng dám chắc mình ở nhà này
lâu, vì có điều khá chắc, như chúng tôi phỏng đoán theo lờiThủ tướng Etemad
Dautet đã có lần nói với tôi là, người ta sẽ di đời tất cả các Tu sĩ ra ngoại
thành ; đó cũng là nơi người ta sẽ đưa mọi Kitô hữu xứ này ra ở đó, kể cả giáo
dân người Pháp. Thứ ba, chính cha cũng tỏ ra thích nếu được an táng nơi đó hơn
là trong nhà chúng ta.
Có lẽ vì lý do thứ hai trên đây mà chúng tôi cử
hành tang lễ cha vào ngày hôm sau. Tất cả Tu sĩ các Dòng có thể tham dự lễ an
táng được, đều có mặt, gồm các Tu sĩ Augutinh, Cát Minh, Capuxinô, cùng giáo
dân Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan và mấy người Arméniens. Chưa bao giờ thấy tại
đây một đoàn người như thế dự lễ an táng. Họ tiễn biệt cha tới nghĩa trang xa
nhà chúng tôi khoảng một dặm rưỡi. Cha Tu viện trưởng Dòng Augutinh, Đại diện Tông
Toà, cử hành nghi lễ(Le RP Prieur des Augustins,Vicaire Aptq [Apostolique] fit
l’office); rồi 7 ngày sau cha còn cử hành Lễ hát trọng thể trong nhà nguyện
chúng tôi, cũng có mặt Tu sĩ các Dòng trên đây.
Phần đông người Arméniens đều cảm thấy vui mừng và
vinh dự vì đã an táng cha gần với các ngôi mộ của thân nhân họ, bởi vi họ nghĩ
rằng cha là đấng thánh và có lẽ (họ nói thế) còn là thánh duy nhất nằm tại đó.
Đàng khác, cũng là ngôi mộ duy nhất của các Tu sĩ Pháp, vì Tu sĩ các Dòng khác
qua đời tại đây, đã được an tángtrong nhà thờ của họ. Từ ngày an táng cha,
nhiều Kitô hữu của chính xứ này, các linh mục và Giám mục đã đến cầu nguyện bên
phần mộ cha, xin cha bầu cử cùng Chúa cho mình. Họ cũng đã nói với tôi và
khuyên tôi sau một năm thử mở mộ cha xem thế nào, vì nghĩ rằng xác cha sẽ còn
nguyên vẹn không bị hư nát.
Sinh thời ít khi ra ngoài mà cha không mang trong
mình cuốn Tin Mừng bằng tiếng Ba Tư để sử dụng khi có dịp; đến lúc chết cha lại
mang cách vẻ vang từ nội thành ra ngoại thành, điều mà chưa ai làm bao giờ.
Quan tài cha được phủ bằng tấm nhung đen trên có hình Thánh giá bằng nhung
trắng nhìn thấy khá rõ. Làm như thế rất xứng đáng với đời sống của cha. Vậy là
ngay cả khi chết, cha còn rao giảng Thánh giá như thế cho những người Lương dân
này.
Nếu tiếng dân là tiếng Chúa, người ta không còn hồ
nghi cha không phải là một vĩ nhân (nếu không nói là ông thánh). Cảm nghĩ đó vì
công trạng của cha, là cảm nghĩ chung của cả những người ở nước Ý và Pháp, khi
cha đi qua đấy để tới đây [Rhodes ở Ý và Pháp từ 1649-1654]; ngay những người
láng giềng với chúng tôi, dù là Hồi giáo cũng tỏ ra có cùng cảm nghĩ ấy.
Về phần chúng tôi còn ở lại đây, chúng tôi có thể
nói chắc rằng: chiếc cột nâng đỡ nhà chúng tôi đã dổ, ngọn đuốc soi sáng cho
chúng tôi đã tắt, người khởi sự và phát triển công việc truyền giáo xứ này được
an táng như vậy sẽ là viên đá tảng cho chúng tôi, người trung gian của chúng
tôi đã rời bỏ chức vụ ở đời này để thihành việc đó trên trời bằng cách bầu cử
cho biết bao xứ truyền giáo đã coi cha như người cha, cách riêng xứ truyền giáo
này tự coi mình như con út của cha, nên đã làm những bổn phận bình thường cuối
cùng đối với cha.
Xin cha đáng kính hãy dâng niệm kỳ kinh
(suffrages) cho cha theo thói quen, hy vọng nhờ cha trợ giúp một ngày kia chúng
ta sẽ được dự phần triều thiên với cha, dù chúng ta chẳng có công trạng xứng
đáng và còn thuộc hạng rất thấp. Cũng vì mục đích ấy, chúng tôi và riêng tôi
còn khẩn nài cha và tất cả anh em chúng ta [Giêsu hữu] ở bên ấy [Tỉnh Dòng Tên
Paris] cầu nguyện cho cha trong các Thánh Lễ.
Tại Ispahan ngày 11 tháng mười một năm 1660
Người tôi tớ rất hèn mọn và người con vâng phục
của cha đáng kính trong Chúa chúng ta.
(dongten.net)