PHẠM TRÙ ĐỨC TIN VÀ KHOA HỌC
Vấn đề đức tin và khoa học là một trong những đề tài tranh luận
nhiều nhất với nhiều quan điểm, nhiều góc độ của con người với nhau, đặc biệt
là từ khi những phát minh lớn của khoa học từ TK 16, và khoa học ứng dụng phát
triển từ TK 18 đến nay. Đến nỗi nhiều người có cảm giác rằng, khoa học là tất
cả, nó thay thế hay ít ra cũng đẩy lùi mọi niềm tin tôn giáo, chôn vùi vào dĩ
vãng của lịch sử. Như Berthelot (1827-1907), nhà khoa học, nhà
chính trị và hóa học Pháp, đã ngang nhiên xác quyết:
“Thế giới này không còn huyền bí nữa… Khái niệm phép lạ và siêu nhiên tan
biến như một ảo ảnh vô ích, một thiên kiến lỗi thời”.
Sự
thật khách quan lịch sử có thể minh chứng. Nhưng nhìn lại vấn đề, có lẽ chẳng
khó khăn để hiểu được những nguyên do dẫn đến những tình trạng hồ đồ, lẫn lộn
giữa đức tin và khoa học. Tất cả đều có nguyên nhân của nó.
KHÁI NIỆM VỀ PHẠM TRÙ (Tổng hợp theo từ điển)
Phạm trù là một trong những phương tiện nhận thức thế giới
dùng trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn.
Phạm trù là một khái
niệm chung nhất, khái quát nhất của một ngành khoa học (xã hội hay tự nhiên)
nào đó, phản ánh những đặc tính cơ bản, những thuộc tính và mối quan hệ chung
phổ biến nhất của hiện tượng trong đời sống thực tế, nhờ đó ta mới phân biệt
được bản chất, đặc tính của sự vật, sự việc khác nhau của vấn đề, của lãnh vực
trong thế giới và đời sống. Như phạm trù của ngành triết học, phạm trù của
ngành toán học, phạm trù của tôn giáo, phạm trù của các ngành khoa học v.v… Nó
còn là khái niệm để biểu thị loại sự vật, hiện tượng hay những đặc trưng chung
nhất của chúng, như phạm trù giáo dục, tâm lý, tự nhiên, siêu nhiên, phạm trù
ngữ pháp v.v…
Như vậy phạm trù của
một điều nào đó bao gồm khái niệm về điều đó và nội dung của nó. Khái niệm được
xác định bởi định nghĩa chung nhất với những đặc điểm chung nhất. Phạm trù là
thành phần kết cấu nên lý thuyết
của vấn đề trên lãnh vực của nó.
Vấn đề phạm trù đã rõ
ràng, người nghiên cứu, người làm khoa học hẳn phải biết hơn ai hết về vấn đề
này, dù rằng đứng dưới những góc độ khác nhau, con người có thể không đồng ý một
số đặc tính hay bản chất của vấn đề, nhưng nói chung nó vẫn là một phạm trù
riêng biệt, không thể lẫn lộn lãnh vực này sang lãnh vực khác được, mà ngay từ
xa xưa, Khổng Tử đã dạy người ta muốn biện biệt được vấn đề gì thì đầu tiên
phải biết: “Cách Vật, Trí Chi”(sách
Đại Học-Tăng tử), tức là phân biệt được phạm trù của chúng .
Nhưng
người ta, cách riêng một số những người làm khoa học– vô ý hoặc cố tình – quên
đi cái phạm trù của đức tin và khoa học, để rồi đánh đồng giữa cái tâm linh của
niềm tin tôn giáo với khoa học, hoặc coi cái tự nhiên như là cái siêu nhiên, cái
vô hình giống như cái hữu hình, cái tinh thần cũng là cái vật chất… Mặc dù
chẳng mâu thuẫn nhau, nhưng đức tin và khoa học, mỗi thứ đều có phạm trù riêng,
làm nên những khái niệm riêng biệt rõ rệt, chứ chẳng có cái nào bác bỏ hoặc
loại trừ nhau. Do thành kiến, tự mãn,
ngông cuồng nên mới có tình trạng hỗn loạn đến nỗi không phân biệt được tự
nhiên và siêu nhiên, sự lạ và phép lạ là những phạm trù khác nhau, như Berthelot
đã tuyên bố, mà nhà Phật gọi là “Sở tri
chướng”, hao tổn không biết bao khí
lực, nước bọt, giấy bút và thời giờ cho cái chuyện lộn xộn, của những người tự
mãn không có thiện chí đi tìm chân lý mà chỉ cho cái hiểu của mình là vô song.
Không như thiên tài bác học
Con
người chưa hiểu và chẳng tạo được cái nguyên nhân và sự sống nào cả, (dù một
cọng cỏ, con vi khuẩn), mà chỉ mày mò tìm được phần nào những cái đã có sẵn
trong những quy luật của vạn vật, của vũ trụ để ứng dụng (gọi là phát minh,
sáng tạo). Cũng như con người nhận ra những quy luật của tinh thần và siêu
hình, đặc biệt là đức tin, là những chân lý trong đạo, mà khoa học tự nhiên,
thực nghiêm hay khoa học xã hội không phải là đối tượng và không thể vươn tới
được.
Vậy
phạm trù đức tin và khoa học như thế nào ?
PHẠM TRÙ ĐỨC TIN
Đức tin là
một hồng ân siêu nhiên được Thiên Chúa ban cho tín hữu để họ gắn bó trọn vẹn trong
sự tự do và đón nhận những chân lý do Ngài mặc khải trong Đức Kitô”. Như sách
Giáo Lý định nghĩa: Đức Tin là sự gắn bó bản thân con người với Thiên
Chúa, là tự do ưng thuận tất
cả chân lý mà Thiên Chúa đã mặc khải (Sách GLGHCG, số 150).
Như
vậy Đức tin thuộc về siêu nhiên, nghĩa là lấy siêu nhiên làm gốc, làm cơ sở để
căn cứ, chứ không phải dựa trên lý trí hay giác quan, mặc dù đức tin vẫn diễn
tiến qua trí năng và cảm giác hay cảm tính của con tim. Nhân đức siêu nhiên này
được Thiên Chúa ban cho con người không điều kiện một khi con người khao khát
tìm kiếm, dù rằng chỉ một sự ước muốn tiềm tàng diễn ra trong vô thức, trong
một lương tâm ngay chính. Nó khác với niềm tin, là cái hoàn toàn lệ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, điều kiện của giáo dục, văn hóa, diễn ra nơi tinh thần tự
nhiên và nơi tâm lý con người. Nhân đức siêu nhiên này được tiếp nạp qua trí
tuệ (sự nhận thức), trong ý chí, trong ý hướng, trong những cảm thức siêu hình
(siêu thức phú bẩm) và trong sự tự do của con người.
Do bản chất của nó, Đức tin, trước tiên, là thái độ gắn bó trong
tinh thần phó thác, là cuộc dấn thân của bản thân cho Thiên Chúa. Đối tượng của đức tin chính là Thiên
Chúa, Đấng đã tự mạc khải mình ra. Nhờ Đức tin, con người sẽ tìm gặp được ý nghĩa cho đời của mình, ý nghĩa
của các sự việc, sự vật trong cuộc sống, tất cả đều hướng tới mục đích tối hậu
là gặp được Thiên Chúa ở đời này và được hạnh phúc viên mãn đời sau. Ai có kinh
nghiệm trong Đức tin sẽ thấy rằng, Đức tin soi sáng cho trí tuệ người
tin: điều đó tất đòi phải có kinh nghiệm về đời sống Kitô đích
thực. Đức tin lo tìm hiểu về Thiên Chúa và về những gì Ngài nói với con
người nhằm giúp con người đạt được được mục đích đó. Như Nhà khoa học nổi
tiếng
Bởi lẽ đối tượng của đức tin là chính
Thiên Chúa, và vì Thiên Chúa vô biên vô tận không sao trí tuệ con
người hiểu thấu được, nên “bất khả tri”.
Vì vậy, người tin phải biết chấp nhận đặt trọn niềm tín thác vào
một Đấng thiêng liêng vô hình, không tỏ hiện ra bên ngoài như một thực tại
hữu hình, có thể thấy, đụng chạm và nắm bắt được. Những điều này chính là thuộc
tính, là bản chất, là bản thể của đạo, bắt nguồn từ Thiên Chúa, được Ngài ban
tặng cho con người, nó thuộc về tâm linh, siêu hình, thiêng liêng, siêu nhiên,
nằm trên và nằm ngoài mọi hiện tượng của khoa học vật chất, khoa học thực
nghiệm. Dù bất cứ ai chấp nhận nó hay không, thì phạm trù của Đức tin tôn giáo
vẫn không thể thay đổi, nó chính là nó chứ không là gì khác được. Chân lý khoa
học cũng như chân lý trong đạo đã có sẵn, con người chỉ có thể tiếp nhận nó mà
thôi, chứ không ai mảy may tạo dựng hay sửa đổi được gì cả. Chỉ có sự nhận thức
là dễ sai lầm mà thôi.
Phạm trù Đức tin dù
trình bày hay diễn tả bằng cách nào, cũng không nằm ngoài yếu tố ân sủng của
Thiên Chúa, nó thuộc lãnh vực siêu nhiên, được thụ hưởng do ân điển từ trời cao,
được tác động bởi Thánh Thần của Thiên Chúa, như Triết gia Pascal nói: “Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối
xuống và cầu nguyện”. Kho tàng Đức
tin này thì chỉ duy Giáo Hội là cơ sở đủ uy tín, đủ quyền năng – nhờ Thánh Thần
– để suy xét và phán định mà thôi, chứ không phải những cá nhân, vì cá nhân
thường bị giới hạn trong lãnh vực nào đó mang tính riêng lẻ, có may mắn cũng
chỉ là giỏi về một số khía cạnh nào đó, chứ chưa thể quán thông được những khái
niệm xuyên suốt mọi sự, nhất là về tâm linh và siêu hình.
Năm 1907, bác sĩ Duncan
MacDougall, bang
Chỉ cần một người thông
thường, có tâm lý quân bình, dù có niềm tin tâm linh nào đó hay không, cũng có
thể kết luận ngay rằng, đây là một thí nghiệm nực cười, quái gở, ấu trĩ, còn mù
mịt hơn cả người cổ sơ. Sự hồ đồ lẫn lộn giữa thiêng liêng và vật chất lên tới
cực điểm. Ngay cả vật chất như các phân tử và nguyên tử còn chưa cân được, nói
chi đến cân tính thiêng liêng, nó hồ đồ mê muội như đi cân tình yêu, tình dục
hay cân những dục vọng vậy. Không những nhà khoa học này không phân biệt được
một chút nào về phạm trù của những sự vật, sự việc, mà còn ngây ngô đến thảm
hại của một thứ u mê không còn lối thoát, gọi là sự mù lòa hoàn toàn về tâm linh.
Đây không phải là “bệnh nghề nghiệp”, mà là một thứ tư duy quái dị, đẻ ra những
quái thai như chính nó.
PHẠM TRÙ KHOA HỌC
Khoa học bao hàm một lãnh vực rộng lớn của tri thức con người, là toàn
bộ lượng thông tin mà con người đã nghiên cứu và tích lũy được. Nó trải dài từ
các khoa toán học trừu tượng cho tới các ngành khoa học xã hội và
nhân văn, khoa học ứng dụng, thực nghiệm, cho đến các khoa học tự nhiên, nghiên
cứu về vật chất và sự sống, và đối tượng nghiên cứu của nó là những hiện tượng,
sự việc, sự vật thể cụ thể, được xác định rõ ràng, và có thể thí
nghiệm hay chứng minh được.
Mục đích của Khoa học là thực hiện những phát minh,
sáng tạo và tăng cường tri thức cho con người về cách thức hoạt động của thế giới
vật chất
xung quanh. Kết quả của khoa học được cô đọng thành những công thức, những định
lý, định luật và những nguyên tắc, những phương pháp nghiên cứu hay ứng dụng.
Song song với mục đích đó là phục vụ lợi ích, cải thiện đời sống, khắc phục khó
khăn trong môi trường tự nhiên, sáng tạo cái mới cho con người hưởng dùng, nó
thuộc về khoa học kỹ thuật và ứng dụng, công nghệ sản xuất…
Như thế, nhà khoa học
chọn đối tượng cho mình
nghiên cứu, rồi vạch rõ phạm vi cho nó, xác định và nghiên cứu nó theo một
phương diện riêng. Nhưng bất cứ nhà khoa học nào, cuối cùng vẫn phải chứng minh
được một cách khách quan đối tượng mình đã nghiên cứu.
Muốn vậy, nhà khoa học
phải theo từng bước để đến kết quả:
1. Quan sát
2. So sánh
3. phân tích
4. Tổng hợp
5. Đặt giả
thuyết
6. Chứng
minh
Từ sự quan sát cho tới
chứng minh, mỗi bước đi là một tiến trình thu thập thông tin khách quan và đầy
đủ. Nhà khoa học làm việc trong sự cần cù kiên nhẫn, đòi hỏi sự nghiêm túc và
khắt khe với tinh thần khoa học cao, mới mong có được một kết quả đúng đắn qua
sự chứng minh hay thí nghiệm xác thực.
Giả thuyết là tổng kết
những thông tin và dữ liệu thành một hệ thống hợp lý để tạm thời kết luận một
công trình nghiên cứu để có thể đi đến thử nghiệm hay chứng minh. Charles
Robert Darwin (1809 – 1882) đã từng bước để đi kết kết luận của “thuyết tiến
hóa”, trong đó loài khỉ có những yếu tố giống với người nhất, chứ không phải
gien bất di dịch của người hay khỉ, gọi là một giả thuyết mà không thể chứng minh. Nhưng một số người lại nhầm
tưởng đây là một chân lý khoa học. Khoa học với khoa học mà còn dễ nhầm lẫn như
vậy, nói chi đến đức tin và khoa học.
Những điều kiện hay
những yếu tố của khoa học cho thấy rằng, tính chất và đối tượng của khoa học là
vật chất và những hiện tượng xảy ra trong đời sống hay trong thế giới mà con
người có thể quan sát được. Nhà khoa học nghiên cứu về nó để hiểu, cũng như để
ứng dụng vào đời sống phục vụ tiện ích, cải thiện và khắc phục những vấn đề
thuộc về thế giới vật chất cho con người.
Đó là phạm trù của khoa
học, khác hẳn với phạm trù của Đức tin. Nói một cách khác, đó là hai lãnh vực,
một bên là tự nhiên, nghiên cứu để chứng minh và thực nghiêm, đối tượng là vật
chất hay hiện tượng, mục đích là lý giải những định luật, nguyên lý hoạt động của
vật chất, phục vụ tiệc ích cho con người, và phải đi theo tiến trình từng bước
để chứng minh. Còn bên kia là vấn đề tâm linh và siêu nhiên, đối tượng là Thiên
Chúa, mục đích là tìm ra ý nghĩa của cuộc đời, tìm được hạnh phúc trong đới
sống và sự giải thoát cho con người mai sau, nó đến trực tiếp từ Thiên Chúa,
chứ không lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên như những phương pháp của tri thức
khoa học.
Cũng như vào ngày
12-04-1961, Yuri Gagarin trở thành
phi hành gia người Nga đầu tiên thành công bay quanh qũy đạo trái đất. Chiếc phi thuyền Vostok-1 bay được một
vòng quanh qũy đạo trái đất trong 1
giờ 48 phút, với vận tốc 17,000 miles một giờ. Anh trở thành một anh hùng của
dân tộc Nga vào lúc đó vì đã làm cho cả nước Nga hãnh diện vì sự tiến bộ của
họ.
Khi trở về trái đất, anh tuyên bố: "Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng
thấy Thiên Chúa đâu.” (I’ve been to space, but I didn’t see God).
Yuri Gagarin cho thiên Chúa là một hành
tinh, định tinh, hoặc một dải thiên hà ? Hay ông có ý nói vũ trụ này chẳng có
gì là lạ lùng cả, cần gì phải có một đấng tạo dựng, tự nó có thôi ? Hoặc ông
cho rằng khi hiểu biết khoa học, khi nhìn thấy không gian (hạn hẹp như ông
thấy) thì tư tưởng về một đấng vô hình là ấu trĩ, là mê muội ? v.v… Câu nói để
đời của ông như thế nào chắc rằng mọi người, mọi thời sẽ đánh giá và nực cười
như chuyện Duncan MacDougall cân linh
hồn vậy.
Người ta nghiên cứu và
thấy rằng, đặc điểm tư duy của người cổ sơ là không phân biệt được các phạm trù
của mọi sự vật, phạm trù chủ quan và khách quan, chủ thể và khách thể, lý tính,
cảm tính, bản chất sự vật và tên gọi, thuộc tính và hiện tượng, niềm tin và
chân lý khách quan, họ lẫn lộn thế giới tự nhiên và siêu nhiên, gán những thuộc
tính của con người cho một vị thần thiêng qua những hiện tượng của thế giới mà
họ chưa hiểu… Khi khoa học phát triển, một số người làm khoa học tưởng rằng tôn
giáo chính là lối tư duy của người cổ sơ. Nhưng lại xảy một sự tương phản khá
kỳ diệu, đó là một số nhà khoa học đó lại trở nên như người cổ sơ, bằng chứng
là họ lại mắc phải sự hồ đồ lẫn lộn giữa những phạm trù khác nhau, nhất là không
phân biệt được phạm trù Đức tin hay niềm tin tôn giáo với những phạm trù khác của
khoa học.
Không như chuyện nhầm
lẫn của Tòa án Giáo hội đối với Galilêô, gọi là vụ án
Galilêô. Năm 1610, Galilêô nhận định rằng: "Theo
khoa học mà nói, thì ít nhất hệ thống Copernic (Trái đất quay quanh Mặt
trời) cũng có giá trị để có thể chấp nhận được”. Rất tiếc, các nhà xử
án của Giáo hội bắt Galilêô phải đính chính lại. Điều này thì các “công tố viên”
của tòa án đã bị nhầm lẫn giữa ngôn ngữ mạc khải Thánh Kinh với ngôn ngữ khoa
học. Nhưng đây chỉ là vấn đề nhất thời mang tính cơ cấu cục bộ của giai đoạn
lịch sử, chứ không phải là bản chất của Giáo hội. Nhưng một số người đã lợi
dụng để chê bai và cho Đạo Công Giáo là như thế - lại một chuyện ấu trĩ về Đạo
và về Giáo hội (xin đọc bài: Hội Thánh Và Sự Dữ).
Ngay Charles Dickens
(1812 – 1870) cũng thừa nhận: "Kinh
thánh Tân Ước chính là cuốn sách tốt nhất đã từng hoặc sẽ được biết đến trên
thế giới”. Và Victor Hugo (1802-1885)
viết: "Nước Anh có hai cuốn
sách, Kinh Thánh và Shakespeare. Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh
làm nên nước Anh."
KẾT LUẬN
Lý giải là bất đắc dĩ,
vì lý giải mang tính cưỡng bức, chẳng hợp với con tim, hợp với niềm tin hay đức
tin trong đạo. Nhưng không lý giải để biện biệt được mỗi sự vật, sự việc, nhất
là những phạm trù của vấn đề thì lại thiếu sót trầm trọng. Đức Giêsu chỉ lý
luận với Pharisêu là những người cố tình gây chuyện “lý sự”, ngoài ra, Ngài chỉ
khai mở về chân lý Nước Trời cho những ai khiêm tốn muốn đi tìm kiếm. Ngài thấy
và nói rằng: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín
không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho
những người bé mọn” (Lc 10,21).
Thực sự không nhất thiết phải
hiểu phạm trù của mỗi lãnh vực, vì mỗi người bình thường với lương tâm ngay
chính, đều dễ dàng nhận ra những sự khác biệt giữa lãnh vực này với lãnh vực
kia, chứ không nhất thiết phải hiểu hay nói được lý thuyết của nó. Vấn đề là
người càng học hỏi nhiều thì có cơ hội lớn hơn để đào sâu hơn, thâm hậu hơn.
Chỉ tiếc cho những người làm khoa học, nhiều khi do “bệnh nghề nghiệp” nên nhìn
đâu cũng chỉ thấy cái biết của mình qua lăng kính học hiểu đó. Ví như anh công
an điều tra thì nhìn ai cũng nghi ngờ là tội phạm; nhà vi trùng học thì nhìn
đâu cũng thấy vi trùng; nhà kinh doanh thì nhìn đâu cũng thấy khách hàng và mặt
hàng; nhà báo thì nhìn đâu cũng thấy thông tin; nhà chính trị thì nhìn đâu cũng
thấy kế hoạch và sách lược điều hành cơ cấu xã hội vv… Đây là sự hạn hẹp của
con người, dẫn đến sự phiến diện, chủ quan, thiển cận, mà đỉnh cao của nó mang
tính “duy”, tính “cuồng”.
Thực sự khoa học và tôn giáo cần nhau như xác với hồn, như Albert Einstein, nhà
vật lý học được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu: "Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, tôn
giáo thiếu khoa học là què quặt." Nó gắn
liền với lý trí con người như Đức Gioan Phaolô II nói: “Đức tin và Lý trí được ví như đôi cánh giúp tâm trí con người
vươn cao lên trong sự chiêm nghiệm chân lý. Chính Thiên Chúa đã in đặt nơi tâm
khảm con người ước vọng tìm biết chân lý để cuối cùng con người được nhận biết
Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ nhận biết và yêu mến Người, con người sẽ đạt thấu được
sự thật về mình cách đầy đủ” (Thông Điệp về Đức Tin và Lý Trí (Fides et
ratio). Và như Blaise Pascal (1623–1662) nói: “Tất cả mọi cố gắng của khoa học không thể
làm suy yếu những chân lý của tôn
giáo, nhưng chỉ làm cho những chân lý ấy cất cánh cao hơn”.
Sự thật đã rõ như gói
gọn trong hai phạm trù của nó:
Người làm khoa học cũng
chứng tỏ và chứng minh, dùng phương tiện và sự hiểu biết của mình để phục vụ
con người hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, chứ không phải để thỏa mãn chính
nó, vì khoa học không mục đích, đồng nghĩa với khoa học không ngày mai, có thể
đi đến sự hủy diệt, như tàn phá thiên nhiên, vũ khí, tác hại đến lãnh vực khác ….
Nếu không nó sẽ chẳng còn giá trị như sự cao quý của nó nữa. Nhà
khoa học đại tài Edison, lúc ghi vào sổ vàng của tháp Eiffel, đã viết: “
Còn Đức tin được biểu
hiện qua đời sống, hướng tới Chân-Thiện-Mỹ là Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của
con người. Đức tin Kitô giáo được tỏ hiện bằng sự thiện, tức tình yêu, và để
chứng minh, người có đức tin sẵn sàng hy sinh và có thể chết vì nó, nhưng là
chết trong bình an, trong yêu thương, trong tha thứ. Đó là đặc điểm của Đức tin
Kitô giáo, đã được chúng minh qua lịch sử. Và như thế: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng,
là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1).
Hàn Cư Sĩ