TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC
Tự do và hạnh phúc là niềm mơ ước muôn thủa của con người. Nhưng đâu là bản chất,
là giải pháp, và đâu là con đường của tự do và hạnh phúc. Nhiều triết thuyết
xưa nay đã lý giải và giải quyết vấn đề, nhưng dường như nó vẫn còn bỏ ngõ chưa
có đoạn kết, qua sự tranh luận với nhiều quan điểm, dưới nhiều góc độ khác
nhau, có khi đi tới mâu thuẫn hoặc có sự khác biệt thật xa lạ với nhau. Vấn đề
này đã trở thành cương lĩnh, thành mục tiêu cho các chính trị gia và các thủ
lãnh chính trị, dù vô thần hay hữu thần, dùng làm chiêu bài cho những động cơ
hoạt động. Đây là một thách đố lớn lao cho con người, nó cần một ánh sáng của một
chân lý cội nguồn chiếu soi, để con người không phải mò mầm đi trong bóng đêm
hay bóng mây mù của sự hỗn độn vây hãm.
Thực trạng cho thấy con người còn quá nhiều vướng mắc, quá nhiều sự ràng buộc,
từ tinh thần cho tới vật chất, ràng buộc trong những tổ chức đời sống cá nhân,
gia đình và xã hội, nên tự do và hạnh phúc chẳng thấy, cũng chẳng có cách giải
quyết, nó chỉ là ước mơ mang tính lý tưởng. Từ đó có những quan niệm về tự do
và hạnh phúc mang tính nửa vời, tạm bợ, phiến diện.
QUAN
NIỆM XÃ HỘI:
Với xã hội, người ta đã quá quen với từ “tự do”, còn từ “hạnh phúc” thì nó nhuốm
màu tôn giáo hay một triết thuyết nào đó. Thực ra tự do là nền tảng, còn hạnh
phúc là mục đích, nên tôn giáo hay dùng cụm từ “tự do và hạnh phúc”, hoặc “tự
do và giải thoát”, để mang nghĩa trọn vẹn và triệt để nhất, nó chân nhận xác thực
của nghĩa tự do, trên nền tảng bất di dịch, đã được Tạo Hóa ban tặng cho con
người mà không một ai có quyền và có thể lấy mất được.
Khi nói đến tự
do, con người thường hay liên tưởng tới một sự thoải mái, không bị ràng buộc
hay bị một sự áp bức nào. Cảm giác con người lúc đầu thường hướng về sự thô thiển
mang tính bản năng, tìm đến sự thoải mái hưởng thụ, phục vụ cho chính bản thân
theo như bản năng đòi hỏi. Qua quá trình nhận thức, qua văn hóa và giáo dục,
con người đã nhận ra những yếu tố cơ bản của vấn đề tự do, được đúc kết trong bản
“Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền”, cũng như trên Hiến pháp của nhiều quốc gia,
trên tiêu đề trong đường lối làm việc của những tổ chức chính trị và xã hội
trên khắp thế giới. Nhưng thật trớ trêu, mỗi định chế xã hội, mỗi thể chế chính
trị lại có quan điểm và đường lối thực hành về tự do khác nhau, khiến con người
luôn luôn bất đồng và tranh cãi liên tục giữa mọi thời đại. Cũng là “tự do tín
ngưỡng”, cũng là “tự do ngôn luận”, nhưng mỗi nơi, mỗi nước hiểu và áp dụng
khác nhau, khiến cho mỗi người dù đồng ý hay không, có cảm tưởng rằng, tự do và
hạnh phúc chỉ là là cái bóng hoặc như cái bánh vẽ, hình như nó không hiện diện
trên đời. Dù vậy, qua mọi thời đại, mọi thể chế chính trị xã hội, con người vẫn
khao khát và đi tìm kiếm nó.
Trong lịch sử, từ các
nước theo chế độ lấy tôn giáo làm quốc giáo, như Nho giáo, Hồi giáo, Ấn giáo,
Thiên Chúa giáo (một số nước phương Tây thời trung cổ)…, cho đến những thể chế
chính trị, như chế độ vua chúa, Quân Chủ, Dân Chủ, Cộng Hòa, Chủ Nghĩa Xã Hội…,
con người đã áp dụng đủ cách để tổ chức xã hội cho có tự do và hạnh phúc. Nhưng
tất cả vẫn chỉ là lý tưởng, ngay tự trong thâm tâm của mỗi người dù thời đại
nào, cũng đều cảm thấy tự do và hạnh phúc nó không hiện diện đúng nghĩa như ước
mong của mình. Rồi người ta tự an ủi mình và an ủi nhau: “tự do và hạnh phúc chỉ
tương đối thôi”, để rồi lại một lần nữa, mỗi người lại hiểu tự do và hạnh phúc
theo cái “tương đối” của mình. Bóng mây mù của vấn đề lại tiếp tục phủ lấp ở
đây. Sự đau khổ và bất hạnh của con người vẫn chồng chất giữa cuộc đời, đến nỗi
Đức Phật gọi: “đời là bể khổ”.
Đối với cá nhân, con
người thường nghĩ đến tiện nghi vật chất, sắm xe cộ, nhà cửa, đồ dùng, máy móc,
trang phục… hoặc chức vụ, lương tháng, bề thế xã hội, học thức… là có hạnh
phúc. Trong hôn nhân, thì chỉ dựa vào những cảm xúc yêu đương là đủ hạnh phúc.
Nhưng thực tế cho thấy, mọi sự đều mau chán và mau qua, tâm trạng lại thèm khát
cái mới, cái hơn, để rồi nỗi bất hạnh vẫn triền miên dai dẳng.
DƯỚI GÓC ĐỘ ĐẠO HỌC:
Đạo học ở đây mang nghĩa
đạo lý Á đông, mà Phật, Lão, Khổng xưa nay vẫn được chọn làm tiêu biểu cho Đạo
học Đông phương, gọi là “Tam giáo Đồng nguyên”.
Đức Phật thấy đời người
là bể khổ, nên đi tìm con đường giải thoát bằng cách thoát khỏi mọi nô lệ của dục
vọng và sự dữ (diệt dục), nó có mầm mống xuất xứ từ chính nơi mỗi người, gỡ bỏ được sự ràng buộc đó thì sẽ tìm được tự do và hạnh
phúc… Con người có tính tham lam ích kỷ, ham hưởng thụ, chiều theo dục vọng, có
tính thù hằn, đố kỵ, ghét ghen, vì vậy chủ thể lại trở thành một tên nô lệ, bị
những thứ đó sai khiến, quấy rầy, gây bao phiền muộn bất an, tạo nên nghiệp chướng
đau khổ. Ngay khi “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai” (một
ý hằn thù ghét ghen nổi lên, thì cả trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra), nói
chi đến những vũng lầy đen tối của dục vọng và mầm mống sự dữ nơi con người. Nếu
con người bám vào sự vật để tìm tự do và hạnh phúc thì không bao giờ gặp được,
vì tất cả chỉ là “vô thường” (không có tự tánh thường hằng nên luôn thay đổi,
vì nó không phải là chính nó, chỉ do con người gán cho nó cái gì đó thôi). Tự
do và hạnh phúc chính là giải thoát khỏi vòng nô lệ đó, cũng là giải thoát khỏi
cõi “vô minh” trong vòng xoáy của Tham-Sân-Si.
Lão tử cũng không khác,
cũng lấy sự từ bỏ để gặp được Đạo, nói cách khác, Đạo cũng chính là sự từ bỏ. Từ
bỏ ở đây tạm hiểu là “vô vi”, chính là bản thể của Đạo. Vì: “Vi
học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn nhi hựu tổn, dĩ chí vô vi. Vô vi nhi vô bất
vi” (theo
học thì mỗi ngày một tăng, theo đạo thì mỗi ngày một giảm. Giảm rồi lại giảm
cho tới mức vô vi. Không làm mà không gì mà không làm). Vô vi có thể hiểu là
không hành động theo dục vọng và đấu tranh theo khí huyết (thần khí con người).
Vì tự những điều đó nó nghiêng về sự dữ, sinh muôn điều tai hại, nên cứ thuận
theo lẽ của Đạo thì biết phải làm như thế nào, và tự nó sẽ thuận xuôi, có được
sự an nhiên tự tại (tự do), an lành và hạnh phúc. Và khi đã có được Đạo rồi
thì: “
Khổng giáo lấy sự tu
thân làm nền, để có được sự an vui hạnh phúc:”Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân,
nhất thị giai dĩ tu thân vi bản” (từ vua cho đến thứ dân, ai
cũng lấy việc tu thân làm gốc). Tu thân con người sẽ trở nên người quân tử, chất
chứa đầy hoan lạc: “Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trường thích
thích” (quân
tử trong lòng bằng an lồng lộng, tiểu nhân lo buồn ngay ngáy). Cũng như: “Quân
tử bất ưu bất cụ” (người quân tử không buồn không lo sợ). Muốn
có tự do và hạnh phúc thì phải biết tuân theo trật tự của trời đất, đó là lễ,
như hình ảnh 3 con khỉ ngồi bó gối, con bịt mắt, con bịt tai, con bịt miệng,
nghĩa là: “phi
lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (
không phải lễ thì chớ nhìn, chớ nghe, chớ nói, chớ hành động). Đó là sự từ bỏ
những đam mê, những kích thích của dục vọng. Người quân tử luôn vui vì đạo,
không lo vì giàu nghèo: “Quân tử ưu đạo bất ưu bần”. Lúc
đó, “đạo” là niềm vui và hạnh phúc, chứ không phải cái thế lực của người ngoài:
“Lạc kỳ đạo, nhi vong nhân chi thế”.
Như vậy, dưới góc độ của
Đạo học thì tự do và hạnh phúc được khởi sự trong ý niệm, được diễn ra trong
tinh thần, biểu hiện và sống động nơi tâm hồn, mà chỉ có chủ thể mới có thể cảm
thức được, vì nó hiển hiện, sống và hòa nhập với người hội đủ yếu tố để kết nạp
nó, chung quy vào sự tu thân và sự từ bỏ. Cũng như: “Để
được tự do, không cần phải thêm gì nhưng cần phải bớt đi” (S.
Peck), hoặc: “Tôi
học được cách tìm thấy hạnh phúc của mình, bằng cách giới hạn những ước vọng
hơn là cố thỏa mãn chúng” (John Stuart Mill).
Vì vậy tự do và hạnh
phúc hiện diện và xuất phát từ trong con người, chứ không phải từ bên ngoài,
như Platon nói: “Người
ta không thể bắt một người tự do trở thành nô lệ được, vì ngay cả khi ở trong
tù, người tự do vẫn cứ tự do”.
DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KITÔ
GIÁO:
Qua mạc khải, Kitô giáo
nhận ra rằng, con người không còn tự do và hạnh phúc nữa chỉ vì bị nô lệ vào
vòng tội lỗi. Tự do là quà tặng cao quý nhất mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con
người, mà mãi mãi không bao giờ Người lấy lại, còn hạnh phúc là hệ quả của sự tự
do, vì mất tự do cũng có nghĩa là mất hạnh phúc (nô lệ làm sao có hạnh phúc). Mạc
khải Kinh Thánh cho thấy, từ khi con người phạm tội, vườn Địa đàng biến mất, tự
do và hạnh phúc không còn, lúc đó xuất hiện đau khổ và bất hạnh, với những dục
vọng và yếu hèn, những đam mê và sự xấu hoành hành. Khi phạm tội, sự dữ hiện diện,
dẫn con người vào sự nô lệ mù tối, đến nỗi họ chỉ thích đắm mình trong cõi mê
muội lầm lạc, để được ngủ yên trong cái vỏ ốc, quên đi và tìm cho mình một thứ
hạnh phúc giả tạo, một cách để tự bào chữa, tự đánh lừa nỗi bất lực và sự yếu
hèn của mình.
Ai theo đạo cũng đều biết
rằng, vào thời gian trong lịch sử, với tình yêu muôn thủa của Thiên Chúa, Đức
Kitô xuất hiện để tái tạo sự bình an, tự do và hạnh phúc cho con người, bằng
cách chuộc lại những sa ngã, đồng thời giải thoát cho con người khỏi ách nô lệ
của tội lỗi. Người đã minh chứng bằng cách chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự
dữ và sự chết. Để từ đó, ai theo Người sẽ được tự do, hạnh phúc từ đời này cho
đến hạnh phúc viên mãn đời sau. Theo Đức Kitô là đi theo con đường Người đã đi,
con đường đó ai cũng biết, là con đường từ bỏ, con đường thánh giá (đau khổ), “Ai
muốn theo thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt
24). Nhưng
lại là con đường tìm được tự do, bằng an và hạnh phúc, “Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của thầy. Thầy ban cho
anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga
14, 27), một sự nghịch lý mà chỉ có được nơi những chân lý trong đạo, “chính
ngôn nhược phản” (lời hợp đạo nghe như ngược đời) là vậy. Đi theo Đức
Kitô để được tự do và hạnh phúc thì phải trải qua một cuộc giải phẫu thật đau đớn
để cắt bỏ những khối u, là cái giá phải trả, đó là sự từ bỏ như Người đã khẳng
định: “
Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống
mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc
26). Từ bỏ đây là dứt bỏ sự nô lệ chứ không phải theo nghĩa đen kiểu “ly dị”.
Bài giảng trên núi của
Đức Giêsu về Tám Mối Phúc Thật, được mệnh danh là Hiến Chương Nước Trời, là những
điều nghe có vẻ ngược đời, nhưng lại là sự giải thoát để có được hạnh phúc. Điều
đầu tiên, giống như “của lễ nhập môn” là: “Tinh thần nghèo khó”. Tinh
thần này là sự từ bỏ triệt để nhất, bỏ đi hết thì lại có tất cả. Về mô thể nó cũng
gần giống như “vô vi” của Lão tử. Tinh thần đó là: “Có
vợ như không có vợ, khóc lóc như không khóc, vui như chẳng vui, mua sắm như chẳng
có gì, hưởng dùng của cải như chẳng hưởng” (1Cr 7, 29-31). Cũng như: “Khi
bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3) .
Tinh thần này giải
thoát con người khỏi mọi ràng buộc, nhất là sự nô lệ vào tội lỗi, vào vật chất,
vào những cảm xúc của dục tình, của sự chiếm hữu vốn tinh thần, vốn tri thức, vốn
đạo đức v.v…“Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị
em, mẹ, con, hay ruộng đất, vì thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ, ngay ở đời này,
lại không được gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời sau” (Mc
10, 29). Khi
tâm hồn trở nên trống rỗng, thì sự sống phong phú của chân lý sẽ lấp đầy, và sẽ
được dư tràn sự bằng an và hạnh phúc. Thật lạ kỳ, tinh thần khó nghèo này có đặc
tính như đức khiêm nhường, nếu ai thấy nắm bắt được nó thì lập tức nó biến mất,
vì lúc đó không còn là nghèo khó nữa. Không ai được phép sở hữu nhân đức này,
vì nó xuất phát và thuộc về Thiên Chúa, nên các thánh hơn người chính là mọi sự
đều quy chiếu về Thiên Chúa chứ không quy chiếu về mình, và các ngài bỏ tất cả
thì lại được tất cả. Tinh thần khó nghèo chỉ hiện diện khi nội tâm có được sự tự
do, có sự yên bình thẳm sâu nơi linh hồn, có bầu trời trong sáng chìm sâu và
tan biến trong sự hư không, trong sự tĩnh lặng êm ả khi đối diện với Thiên
Chúa.
Đó là sự tự do và hạnh
phúc đích thực mà chính Thiên Chúa đã ban tặng cho những ai không bị nô lệ vào
thế gian, vào “cái thần tôi”, vào sự chiếm đoạt, vào dục vọng, vào tội lỗi và
những sự dữ. Đây cũng là: “Chính lúc quên mình là lúc
gặp lại bản thân…” (Phanxicô Assisi), nghĩa là tìm lại được chính
mình đã mất khi còn bị nô lệ vào cái vị kỷ, cái tôi của mình, cho nên lúc quên
mình là lúc giải thoát khỏi ách nô lệ, không còn bị “vong thân” bất hạnh nữa.
PHẦN KẾT
Mọi vấn đề đã được sáng
tỏ, dù là Tinh Thần Khó Nghèo của Kitô giáo, dù rằng Vô Vi như Đạo giáo, Hữu Vi
làm người quân tử như Khổng giáo, Diệt Dục như Phật giáo, và có thể thêm nhiều
hệ luân lý của các tín ngưỡng và tôn giáo khác, chúng ta đều nhận thấy rằng,
các tôn giáo và đạo lý đều gặp nhau ở hệ luân lý (nhưng cứu cánh khác nhau), dẫn
dắt con người đến tự do và hạnh phúc, chính là sự tu thân, là sự từ bỏ, là sự
khắc kỷ, là cởi trói cho mọi ràng buộc, là sự dấn thân quên mình (cái tôi) để
tìm lại cái “bản thể” hồn nhiên như nhiên của thủa ban đầu khi con người chưa bị
nô lệ vào dục vọng và tội lỗi.
Nhưng thực tế cho thấy,
con người lại hay đi tìm tự do và hạnh phúc ở những hình thái bên ngoài, là nơi
không có nó. Họ quên rằng tự do và hạnh phúc xuất phát từ bên trong, nơi tâm hồn
mỗi người. Người ta tổ chức xã hội, xây dựng xã hội thật hiện đại, biến mỗi người
thành một con Robot làm việc, theo một nguyên tắc chặt chẽ , hợp lý và đắc dụng.
Rồi mỗi người lại tổ chức cho mình một “thế giới” thật tiện nghi, sống theo một
công thức đã được lập trình, rồi yên tâm và hãnh diện với những ràng buộc (lập
trình) chặt chẽ bất di dịch đó. Con người luôn có một cảm giác rằng, càng vơ
vào cho mình nhiều thì sự an toàn và hạnh phúc càng được bảo đảm. Chân lý lại dạy
rằng, càng ôm nhiều thì sự ràng buộc và nô lệ càng lớn, nó tỷ lệ nghịch với sự
tự do và hạnh phúc. Khi cái Tôi của con người được nhập thân với vật thể nào
đó, hoặc với danh lợi, hoặc với những ý niệm về giá trị sự vật nào, là lúc cái
tôi lập tức bị nô lệ, từ đó sẽ phát sinh sự lo lắng và bất an, vì luôn phải
chay theo sự biến động của nó, phải bảo vệ vì sợ mất nó. Và như thế là tự do và
hạnh phúc biến mất. Cũng như nếu con người hưởng dùng một đồ vật thô sơ không
đáng giá thì sẽ ung dung chẳng lo sợ gì, nhưng với một đồ vật đắt tiền lên tới
nhiều triệu, thì luôn bị nó sai khiến, phải gìn giữ, chăm sóc, nương nhẹ, vuốt
ve, xót xa, tiếc nuối, sợ hư hại, sợ mất nó… và còn thờ ngắm nó, lại còn phải
khoe khoang (chia sẻ) cho càng nhiều người biết càng tốt. Ôi thôi một chuỗi
ràng buộc luẩn quẩn nhiễu nhương phức tạp, chỉ mang đến sự lo lắng và bất an,
biến chủ thể trở nên kẻ nô lệ. Ngày nay không phải một thứ mà mọi thứ đều như vậy.
Xã hội hiện đại luôn được
ca tụng bởi sự tiện nghi và hào nhoáng, nhưng liệu nó có đưa lại tự do và hạnh
phúc cho con người hay không thì phải xem lại. Tội ác, mafia, nạn ly dị, nạn tự
tử, phá thai (trên 50 triệu thai nhi bị giết mỗi năm), hợp thức đồng tính luyến
ái, kỹ nghệ sex, hiệp hội trao đổi vợ chồng, bạo lực trong gia đình và xã hội,
kích dục trong phim ảnh và quảng cáo, những trang Web đen, vũ khí hủy diệt hàng
loạt, ô nhiễm và tàn phá thiên nhiên, hàng ngàn giáo phái thần bí phi nhân bản
ra đời, chủ nghỉa cực đoan, “văn hóa sự chết” (Đức Gioan Phaolô II), vô minh
văn hóa (Phật), khủng hoảng và tha hóa tinh thần (không tìm thấy niềm tin và ý
nghĩa của cuộc sống), sự tục hóa tâm linh, làn sóng bỏ đạo, chủ nghĩa thực dụng,
duy hưởng thụ… Toàn cảnh đã tạo cho thế giới một bức tranh ảm đạm, xám xịt, lên
tới báo động đỏ, như đang sống trên vùng hỏa diêm sơn, nhưng mấy ai quan tâm.
Con người ngày nay có
thấy được tự do và hạnh phúc hơn các xã hội truyền thống (chưa công nghiệp)
không?
Câu trả lời đã có sẵn,
xin để dành suy gẫm.
Hàn Cư Sĩ