Kinh Hòa Bình: Nguồn Gốc Và Suy Tư
LỜI
KINH ĐƠN SƠ hay cũng gọi là KINH HÒA BÌNH
Nhiều người trong chúng
ta có lẽ đã thuộc lòng hay ít ra hát được cách dễ dàng Lời Kinh được dịch sang
tiếng Việt với tựa đề là “Kinh Hòa Bình” và được nhạc sĩ Linh mục Kim Long phổ
nhạc. Ở đây tôi muốn nói một vài điểm về Lời Kinh rất phổ thông này, cũng có
tên là LỜI KINH ĐƠN SƠ hay KINH HÒA BÌNH.
I. BẢN VĂN
Chúng tôi ghi lại đây
bản văn Kinh Hòa Bình bằng tiếng Ý và được coi như là bản văn gốc dùng để phân
tích và học hỏi. Bản văn tiếng Việt được dùng để đối chiếu.
Bản văn tiếng Ý được
tìm hiểu từ các nguồn ghi lại cho chúng ta như sau:
Bản văn năm 1916
Signore, fate di
me
uno strumento della
vostra pace:
Phần I.
Dove è l’odio, che io
ponga l’amore,
Dove è l’offesa, che io
ponga il perdono,
Dove è la discordia,
che io ponga l’uonione,
Dove è l’errore, che io
ponga la verità,
Dove è il dubbio, che
io ponga la Fede,
Dove è la disperazione,
che ponga la speranza,
Dove è la tristezza,
che io ponga la gioa,
Dove sono le tenebre,
che io ponga la luce.
Phần II.
Phần III.
Imparo che è nel donare
che si riceve;
nel dimenticare se
stessi che si si è perdonati,
nel morire che si
risuscita all’eterna vita!”
Bản văn năm 2005
Signore, fa’ di me
uno strumento della tua
pace:
Phần I.
Dove è odio, fa’ ch’io
porti l’amore,
Dove è offesa, ch’io
porti il perdono
Dove è discordia, ch’io
porti l’unione
Dove è dubbio, ch’io
porti la fede
Dove è errore, ch’io
porti la verità
Dove è disperazione,
che io porti la speranza
Dove è tristezza, ch’io
porti la gioa
Dov’è tenebra, ch’io
porti la luce.
Phần II.
Maestro, fa che io non
cherchi tanto
Di esser consolato,
quanto di consolare;
Di essere compreso,
quanto di comprendere;
Di essere amato, quanto
di amare.
Phần III.
Poichè, così è
Dando, che si riceve;
Perdonando, che sì è
perdonati;
Morendo, che si
risuscita a Vita eterna.
Bản dịch tiếng Việt
dịch theo bản tiếng Ý năm 2005:
1. “Lạy Chúa,
2. xin hãy làm con nên
khí cụ bình an của Chúa:
3. Ở đâu có ghét ghen,
xin làm cho con được mang đến đó tình yêu thương,
4. Ở đâu có xúc phạm,
xin làm cho con mang đến sự thứ tha,
5. Ở đâu có bất hòa,
xin làm cho con mang đến sự hiệp nhất,
6. Ở đâu có nghi nan,
xin làm cho con đem đến đức tin.
7. Ở đâu có sai lầm,
xin làm cho con đem đến sự thật,
8. Ở đâu có thất vọng,
xin làm cho con đem đến hy vọng,
9. Ở đâu có buồn sầu,
xin làm cho con đem đến niềm vui.
10. Ở đâu có bóng tối,
xin làm cho con đượcc mang đến đó ánh sáng.
11. Lạy Thày, xin làm
cho con
12. không lo tìm kiếm
để được an ủi, mà lại lo an ủi;
13. Không lo được hiểu
biết, mà lại lo để hiểu biết;
14. Không lo tìm được
yêu mến, mà lại lo yêu thương.
Bởi vì, có như thế,
thì khi cho đi, là
người ta lãnh nhận,
khi thứ tha, thì được
tha thứ;
khi chết đi, thì sẽ
sống lại tới tự sống đời đời”
Chúng tôi cũng ghi ở
đây bản dịch Lời Kinh, như trong bài ca Kinh Hòa Bình do nhạc sĩ Linh mục Kim
Long phổ nhạc. Lời Kinh đọc lên như sau:
[“Lạy Chúa từ nhân!
Xin cho con biết mến
yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.]
Lạy Chúa xin hãy dùng
con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ
tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi
lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng.
Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin
hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người hơn được
người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến
thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì
chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chếtt đi là khi vui sống muôn
đời.
[Ôi Thần Linh thánh ái,
Xin mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí Ơn an
bình.” ]
Chúng ta phải nói rằng
bản văn nguyên thủy đăng trong Báo L’Osservatore Romano năm 1916 và Bản văn
tiếng Ý năm 2005 được ghi trên đây, không có câu mở đầu: [Lạy Chúa từ nhân! Xin
cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.] và câu kết : [Ôi Thần
Linh thánh ái Xin mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy
thiện chí Ơn an bình], như chúng ta thấy trong bản văn mà Linh mục nhạc sĩ Kim
Long đã phổ nhạc. Bản văn năm 1916 không có phần thứ II như thấy xuất hiện
trong Bản Kinh năm 2005: Maestro, fa che io non cherchi tanto Di esser
consolato, quanto di consolare; Di essere compreso, quanto di comprendere; Di
essere amato, quanto di amare (Lạy Thày, xin làm cho con không lo tìm kiếm để
được an ủi, mà lại lo an ủi; không lo được hiểu biết, mà lại lo để hiểu biết;
không lo tìm được yêu mến, mà lại lo yêu thương).
II. TÍNH CÁCH PHỔ THÔNG
CỦA KINH HÒA BÌNH
Lời Kinh này đơn sơ và
được gán cho Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) là tác giả. Cho tới nay vấn đề
chưa được làm sáng tỏ. Trong sách Preghiere di San Francesco e Santa Chiara,
Cha Bruno Giannini, OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC., Suor Chiara Carla
Cabras, OSC., trong tập sưu tầm xuất bản năm 2005, đã đặt Kinh Đơn Sơ vào trong
phần các Kinh rút ra từ các tác phẩm của Thánh Phanxicô, sau phần các Kinh của
chính Thánh Phanxicô sáng tác. Rồi trong chính bản Kinh các tác giả có lời chỉ
dẫn như sau: “Bản Kinh thời danh này được gán cho Thánh Phanxicô thành Assisi
là tác giả. Dầu sao tất cả những gì mà Kinh này diễn tả, người ta có thể thấy
được thể hiện trong đời sống của Thánh nhân và trong niềm mong muốn được trở
nên khí cụ bình an và vui tươi của Thánh nhân”. Như vậy vấn đề nguồn gốc coi
Thánh Phanxicô Assisi lá tác giả chưa được xác định rõ ràng và còn cần được tìm
hiểu thêm. Theo tác giả Salvatore Pricoco và Manlio Simonetti, trong cuốn sưu
tập của hai ông “La Preghiera dei Cristiani, Fondazione Lorenzo Valla”Arnoldo
Mondadori Editore, 2000, tr. 483, thì thánh nhân có sáng tác một vài kinh,
nhưng thời danh nhất là Laudes creaturarum (Bài Ca Vạn Vật) nhưng không có KINH
ĐƠN SƠ. Bài Ca Vạn Vật này được thánh nhân sáng tác sau một đêm đầy đau đau đớn.
Nói về tính cách phổ
thông của Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình, người ta nhận thấy rằng Kinh này
được phổ biến rộng rãi một cách thật khác thường.
Tác giả Egidio Picucci,
bài báo trong Báo L’Osservatore Romano, ngày 20-1-2009, đã được trích dẫn, đã
ghi nhận điều này. Lời kinh được đọc lên trong những dịp khá đặc biệt, như năm
1975, tại Nairobi, trong một cuộc Họp Đại Kết giữa các Giáo Hội Kitô Giáo và
Công Giáo.
Năm 1986, trong cuộc
gặp gỡ các tôn giáo tại Assisi, được tổ chức theo ý của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, và có sự hiện diện của Ngài, Kinh này là một trong những Kinh được
chọn đọc lên. Rồi năm 1989 tại Basilea (Thụy Sĩ) Kinh này cũng được đọc lên
trong một cuộc họp đại kết.
Kinh Hòa Bình này có
sức gây ngạc nhiên không nhỏ đối với Chân phước Têrêsa Calcutta. Mẹ đã giải
thích vắn tắt Kinh này và đã xin mọi người đọc lên trong dịp Chân phước nhận
Giải thưởng Nobel Hòa Bình tại Oslo vào năm 1979. Mẹ cũng cho biết trong Dòng
Các Thừa Sai Bác Ái của Mẹ, Kinh này được đọc mỗi ngày sau khi rước lễ. Đức
Tổng Giám Mục Helder Pessoa Câmara của Tổng Giáo phận Olinda và Recife (Brazil)
đã đem Kinh này vào trong “Tờ đi đường cho các cộng đoàn Abraham” .
Với các nhân vật dân sự
và chính trị khác, Kinh Hòa Bình cũng gợi hứng nhiều cho các vị, như Bà Thủ
Tướng Margaret Thatcher (Anh Quốc) đã đem một phần Kinh này vào trong bài diễn
văn đọc khi được bổ nhiệm làm Thủ Tướng, ngày 4-5-1979.
Đức Tổng Giám Mục Anh
Giáo Desmond Tutu, (Nam Phi, giải thưởng Nobel Hoà Bình 1984), đã nói rằng Kinh
Hòa Bình có một tầm mức đặc biệt trong toàn thể đời sống của mình. Vào năm
1995, Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã đem một khúc của Kinh Hòa Bình vào
trong bài diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại phi trường New
York. Ông còn nói một cách hiên ngang không ngần ngại rằng “nhiều người dân Hoa
Kỳ, Công Giáo hay không Công Giáo, đã bỏ Kinh này trong túi áo, trong bị xách
tay hay trong sổ tay của mình”.
III. NGUỒN GỐC KINH HÒA
BÌNH
Nhật báo của Tòa Thánh
Vatican L’Osservatore Romano, ngày 20 tháng 1 năm 1916, vào ngay trang đầu, có
cho đăng một Bản Kinh, mang tên là “Bản Kinh Đơn Sơ”, với một tựa đề nhỏ “Le
preghiere del “Souvenir Normand” per la pace” (Các lời Kinh của Báo “Souvenir
Normand” cầu cho hòa bình). Như vậy Bản Kinh Hòa Bình này đã được phổ biến vào
những ngày trước thế chiến thứ I, thời Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV. Năm 1915,
trước hiểm họa cuộc thế chiến vừa bùng nổ, chính Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV
cũng đã sáng tác một kinh cầu cho hòa bình thế giới, được dịch ra tiếng Pháp,
Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Nga và Ba Lan. Bản Kinh này là những
lời cầu xin ơn hòa bình, nhất là với Thánh Tâm Chúa Giêsu, vì Đức Thánh Cha
Bênêđictô XV rất sùng mộ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha cũng mời các tín
hữu tại Âu Châu hãy cùng đọc với Ngài vào ngày 7-1-1915, trong khi Ngài đọc
Kinh này cùng với các vị Hồng Y và các chức sắc trong Giáo Triều Rôma, trước
bàn thờ chính tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Vào thời này, nhiều
đoàn thể công giáo cũng đã hoạt động để chấm dứt chiến tranh và cầu xin cho hòa
bình trở lại trên phần đất Âu Châu. Trong các đoàn thể này, người ta phải nói
tới sáng kiến của Công tước Stanislas de la Rochethulon, chủ tịch hiệp hội
người Anh và Pháp mang tên Souvenir Normand, có mục đích hoạt động cho hòa bình
và công lý. Hiệp Hội Souvenir Normand đã thu thập một số bản kinh cầu cho hòa
bình và đã đệ trình lên Đức Thánh Cha Bênêđictô XV hai bản kinh cầu cho hòa
bình và một bài thánh ca dâng lên Đức Mẹ vùng Normandie (Pháp). Bản kinh thứ
nhất là lời cầu khẩn dâng lên Đức Mẹ của những người Normand và các thánh quan
thày của vùng này. Lời kinh thứ hai là một lời kinh rất đẹp và ý nghĩa để đọc
trong Thánh Lễ. Vào năm 1912 các bản kinh này được xuất bản trong Báo La Croix
d’Orne và Báo La Clochette. Bản Kinh sau là bản Kinh Đơn Sơ và được đem vào
nước Ý. Chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XV và Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
Pietro Gasparri cũng thích bản Kinh Đơn Sơ này. Theo lệnh truyền của Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XV Kinh Đơn Sơ này được in trong Báo L’Osservatore Romano, số
ngày 20-1-1916, có kèm theo mấy lời giải thích, như chúng ta ghi lại và nói
trên đây.
Vào ngày 20-1-1917 Báo
La Croix đã cho in lại tất cả Bản Kinh Đơn Sơ này và các tài liệu khác liên hệ
như đã đăng trong báo L’Osservatore Romano ngày 20-1-1916.
Chúng ta có thể xác
định rằng, Bản Kinh Hòa Bình đã được phổ biến thật rộng rãi trong toàn thế giới
ngay từ đầu khi mới được phổ biến và cả ngày nay nữa, như chúng ta nói trên
đây. Trong một thư Đức Hồng Y Pietro Gasparri gửi Công tước Stanislas de La
Rochethulon, được đăng trong báo La Croix, đã viết như sau: “Đức Thánh Cha rất
hài lòng vì Bản Kinh thật cảm động này và Ngài mong rằng lời kinh này vang vọng
tới mọi tâm hồn và là một biểu lộ tâm tình phổ quát của mọi người”.
IV. MỘT VÀI SUY TƯ VỀ
LỜI KINH HÒA BÌNH
Bây giờ chúng ta thử
tìm hiểu thêm một số điểm từ chính lời Kinh Hòa Bình này.
1) Về bản văn
Trước tiên, Kinh Đơn Sơ
này còn mang tên là Kinh Hòa Bình, và bây giờ thường được gọi như vậy trong các
tài liệu, các sách hát. Lời kinh mang tên LỜI KINH HÒA BÌNH, có lẽ vì câu đầu
của nó có từ ngữ “hòa bình” trong câu “Xin hãy làm cho con nên khí cụ hòa bình
của Chúa”. Vì thế từ đây về sau, trong bài này, tôi sẽ dùng cả hai tên “Kinh
Đơn Sơ” hoặc “Kinh Hòa Bình”, và có tác dụng ngang nhau.
Chúng ta phân biệt hai
loại bản văn có phần nào liên hệ với nhau: loại thứ nhất là Bản văn gốc của
Kinh Hòa Bình. Bản văn gốc là chính bản văn được truyền tụng lại từ thời kỳ
đầu; loại thứ hai là các bài ca phát khởi từ Lời Kinh Đơn Sơ, là bản văn được
dịch hay soạn thảo gợi hứng từ Bản văn Kinh Hòa Bình, có thêm những câu hay
những chữ khác, để đáp ứng với nhu cầu sáng tác âm nhạc, hoặc làm cho rõ nghĩa
thêm, hoặc do nhu cầu mục vụ.
Chúng ta phải nói lại
rằng bản văn nguyên thủy đăng trong Báo L’Osservatore Romano năm 1916 không có
câu mở đầu: [Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong
mọi người.] và câu kết : [Ôi Thần Linh thánh ái Xin mở rộng lòng con. Xin
thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí Ơn an bình.], như chúng ta thấy
trong bản văn mà Linh mục nhạc sĩ Kim Long đã phổ nhạc. Đàng khác bản văn năm
1916 không có phần thứ II như trong bản văn in trong tuyển tập năm 2005, tức là
phần Maestro, fa che io non cherchi tanto Di esser consolato, quanto di
consolare; Di essere compreso, quanto di comprendere; Di essere amato, quanto
di amare (Lạy Thày, xin làm cho con. không lo tìm kiếm để được an ủi, mà lại lo
an ủi; Không lo được hiểu biết, mà lại lo để hiểu biết; Không lo tìm được yêu
mến, mà lại lo yêu thương).
Lời Kinh Hòa Bình này
đã được sáng tác trước năm 1916 và được phổ biến tại Pháp, và khi thế chiến thứ
I bùng nổ, thì Kinh Đơn Sơ này được chọn như là một trong hai Kinh trình lên
Đức Thánh Cha để các tín hữu Âu Châu đọc mà cầu nguyện cho chiến tranh chấm
dứt. Người ta nói là Kinh Đơn Sơ này được đọc trong Thánh Lễ, nhưng không rõ đọc
vào lúc nào. Theo Sách Lễ Rôma trước Công đồng chung Vaticanô II, thì không
thấy có dấu vết của Kinh Đơn Sơ này. Có lẽ thói lệ đọc Kinh Đơn Sơ này chỉ tồn
tại ở một số vùng bên Pháp và có tính cách địa phương rất hạn hẹp.
Về sau này một số tác
giả khác đã tìm hiểu thêm về nguồn gốc của Bản văn Kinh Đơn Sơ này và đã cho
chúng ta có được bản văn chính xác của bản Kinh này.
2. Về bố cục của Kinh
Đơn Sơ
Theo bản văn tiếng Ý
trong tuyển tập năm 2005 trên đây, bản văn được chia ra làm ba phần, ngoài câu
mở đầu:
Phần mở đầu: là lời cầu
xin dâng lên Thiên Chúa: “Lạy Chúa xin hãy làm con nên khí cụ bình an của Chúa”
(trong bản có phổ nhạc của nhạc sĩ Kim Long, còn thêm một câu như sau: “Lạy
Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”).
Phần thứ I: quảng diễn
thứ I cách cụ thể ơn hòa bình hoặc khí cụ hòa bình: “Ở đâu có ghét ghen, xin
làm cho con được mang đến đó tình yêu thương... Ở đâu có bóng tối, xin làm cho
con đượcc mang đến đó ánh sáng” (Kim Long: Để con đem yêu thương vào nơi oán
thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý
vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi
thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, Đem niềm vui đến chốn u sầu).
Ở đây chúng ta thấy có
sự đảo lộn thứ tự giữa câu áp cuối của phần này trong bản văn của nhạc sĩ Kim
Long: câu “Đem niềm vui đến chốn u sầu” đặt sau câu: “Để con dọi ánh sáng vào
nơi tối tăm”. Không rõ vì lý do gì!
Phần thứ II: Quảng diễn
thứ II của lời cầu xin ơn hòa bình: “Lạy Thày, xin làm cho con không lo tìm
kiếm để được an ủi, mà lại lo tìm an ủi; không lo được hiểu biết, mà lại lo để
hiểu biết; không lo tìm được yêu mến, mà lại lo yêu thương” (Kim Long: “Lạy
Chúa xin hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an. Tìm hiểu biết người
hơn được người hiểu biết. Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu”).
Phần thứ III: giải
thích ý nghĩa của lời xin ơn hòa bình: “Bởi vì, có như thế, thì khi cho đi, là
người ta lãnh nhận, khi thứ tha, thì được tha thứ; khi chếtt đi, thì sẽ sống
lại tới tự sống đời đời” (Kim Long: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận
lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi
được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”). Chúng ta có thể cho
phần này như là phần kết của lời Kinh.
Khi nhìn vào bố cục
này, chúng ta thấy không có sự cân đối giữa các phần, vì phần thứ I dài hơn hai
phần thứ II và thứ III.
Rồi trong phần thứ I có
một tước hiệu của Chúa; “Lạy Chúa”; và trong phần thứ II có tước hiệu gọi Chúa:
“Lạy Thày”. Còn phần thứ III thì không có mà bắt đầu bằng một liên từ : “Vì như
thế”. Do đó qua bố cục này, chúng ta nhận ra Lời Kinh là một loạt những tâm
tình tự phát của một tâm hồn đã lâu ngày suy tư về ơn hòa bình, trong chính bản
thân mình, trong môi trường sống, trong hành động phải làm và trong phần thưởng
sau cùng là “Sự sống đời đời” trong ngày sống lại. Tất cả những điều này chúng
ta sẽ nhận ra cách rõ ràng hơn trong phần còn lại sau đây.
3. Về cách hành văn
Về cách hành văn chúng
ta cũng nhận thấy không cân xứng: vì ở phần đầu Lời Kinh luôn bắt đầu với từ “Ở
đâu”, trong phần thứ II, thì dùng kiểu nói: “Không lo...”. Sang phân thứ ba,
thì lại dùng ngay chính động từ ở thể phân từ thay cho một câu trọn vẹn.
Nhưng tác giả Lời Kinh
có một biệt tài hành văn đối ngược nhau giữa các từ với nhau:
“ghét ghen” – “tình yêu
thương”(câu 3); “xúc phạm” – “sự thứ tha” (c. 4);
“bất hòa” – “sự hiệp
nhất” (c. 5); “nghi nan” – “đức tin” (c. 6);
“sai lầm” – “sự thật”
(c. 7); “thất vọng” – “hy vọng” (c. 8);
“buồn sầu” – “niềm vui”
(c. 9); “bóng tối” – “ánh sáng” (c. 10);
“cho đi” – “lãnh nhận”
(c. 19); “chết đi” – “sống lại tới tự sống đời đời” (c. 21).
Đối ngược nhau giữa
cách thể hiện cùng một hành động: từ hình thức chủ động sang hình thức thụ
động, hoặc ngược lại:
“được an ủi” – “lo an ủi”
(c. 12); “được hiểu biết” – “để hiểu biết” (c. 13); “được yêu mến” – “lo yêu
thương” (c. 14); “thứ tha” – “được tha thứ” (c. 20).
Lối văn đối ngược này,
không chỉ được dùng một lần, nhưng tới 14 lần khác nhau, làm cho ý tưởng được
nhấn mạnh và cho thấy rõ tâm hồn của tác giả thực sự đã sẵn sàng trong tư thế
làm điều thiện, đối ngược với những hành động làm điều ác. Tất cả được thực
hiện trong khung cảnh một cá nhân, nhưng còn cả trong khung cảnh xã hội, cộng
đoàn. Người ta có thể đoán được rằng, tác giả đang sống trong một xã hội, một
cộng đoàn thực sự đang chất chứa nhiều hận thù, ghen ghét... và trước tất cả
những điều này, tác giả tỏ ra bất lực, và chỉ sáng tác một Lời Kinh để cho
nhiều người đọc và khi cầu nguyện Chúa sẽ nhậm lời và mỗi tâm hồn sẽ được cải
hóa. Như vậy hoàn cảnh sẽ thay đổi dần dần. Do đó vào thời gian khi bùng nổ thế
chiến thứ hai, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV cũng dã cho đăng Lời Kinh này trong
báo L’Osservatore Romano, và muốn Kinh này được đọc lên trong các Giáo Hội tại
Âu Châu.
4. Ý nghĩa của Kinh Đơn
Sơ
Đây là một lời kinh
thật đơn sơ đúng như tên gọi của nó ngay từ đầu. Nhưng chính cái đơn sơ này đã
làm cho thấy diễn tả các tâm tình sâu thẳm của con người và vì thế nó đã đánh
động nhiều tâm hồn đơn sơ và của cả những người làm chính trị như chúng ta ghi
lại trên đây. Do đó việc tìm hiểu nội dung siêu nhiên lại là một vấn đề khó
khăn. Ở đây tôi thử đưa ra một số điểm giúp phần nào việc cảm nghiệm cái sâu xa
của Kinh Đơn Sơ này.
Lời cầu khẩn và xưng
tụng Thiên Chúa
Bản văn Kinh Hòa Bình
đã dùng hai từ ngữ để tuyên xưng với Thiên Chúa, đó là từ “Chúa” (Signore) và
từ “Thày” (Maestro). Hai từ này không kèm theo một thuộc từ nào khác như “toàn
năng”, “hằng hữu”, “thương xót”..., và điều này cho thấy Lời Kinh này không
giống các lời kinh dùng trong phụng vụ, thường có kèm theo một thuộc từ đi kèm.
Đàng khác, Lời Kinh bắt đầu ngay với động từ ở ngôi thứ hai “xin làm cho
con...”, mà không có một thuật ngữ như “chúng con cầu xin Chúa”, hoặc “xin ban
cho con”... như thường có trong các lời cầu nguyện của phụng vụ. Như vậy Lời
Kinh Hòa Bình được coi như một lời kinh, một sáng tác của cá nhân dâng lên
Thiên Chúa để cầu cho chính mình hoặc cho xã hội mà tác giả đang sống.
Hai từ “Chúa” và “Thày”
nói lên thái độ tùng phục hoàn toàn với Thiên Chúa, Đấng mà tác giả tin kính và
tôn thờ. Từ thái độ tùy thuộc nền tảng này, tác giả dâng lên những lời khẩn
nguyện.
Xin hãy làm con nên khí
cụ bình an của Chúa
Ở đây chúng ta lưu ý
tới thuật ngữ “Khí cụ bình an”. Thuật ngữ này đem chúng ta vào trong lịch sử Nghi
thức cử hành Thánh lễ. Thời xưa, từ thế kỷ thứ 13 trở đi, khi ban bình an lúc
trước rước lễ, người ta dùng một đồ dùng bình an hay khí cụ bình an, để trao
ban bình an cho nhau (Instrumentum pacis). Khí cụ bình an này là một tấm thẻ
nhỏ hình bầu dục hay dài. Một mặt có khắc hình Chúa, Đức Mẹ, các thánh. Mặt sau
thường có một tay để cầm hay một giá để đựng tấm thẻ này. Khi ban bình an,
người ta trao thẻ này cho nhau để trao ban bình an và nói lên lời chúc lành
bình an cho nhau. Lần đầu tiên thẻ này được dùng bên Anh vào năm 1246. Sách Lễ
Rôma do Đức Giáo Hoàng Piô V ban hành năm 1570 và Sách Nghi thức các Giám mục
năm 1600, cũng thấy có ghi việc dùng thẻ Khí cụ bình an này. Tuy nhiên việc
dùng khí cụ bình an này không có tính cách bắt buộc. Dần dần việc sử dụng khí
cụ bình an này biến đi trong Nghi thức Thánh Lễ.
Theo hình ảnh này, mỗi
người trở nên khí cụ bình an, trở nên biểu tượng của bình an của Chúa đối với
người khác. Họ cũng phải có tràn đầy sự bình an để chia thông ban cho người
khác. Rồi sự bình an đó phải được tràn đầy sung mãn và còn tiếp tục ảnh hưởng
tới người khác. Nhưng sự bình an này phải là sự bình an của Chúa Kitô, vì Ngài
chính là sự bình an làm giao hòa hai bên thù địch với nhau và giao hòa con
người với Thiên Chúa; Ngài phá đổ mọi bức tường ngăn cách các dân tộc, các nhóm
người, các cá nhân với nhau (x. Ep 2, 13-16). Trước kia, để có khả năng giao
hòa, Chúa Kitô đã phải đổ máu mình ra, Chúa Kitô đã phải chết trên thập giá vì
chúng ta, vì chính Thiên Chúa đã muốn dùng thập giá của Chúa Kitô mà phá tan
mọi thù địch. Do đó người tín hữu, để có thể trở nên khí cụ bình an của Chúa
Kitô, cũng phải đón nhận thập giá, cũng phải đổ máu đào ra vì anh em mình, khi
họ phải tha thứ, phải vứt bỏ mọi oán thù với người khác, trong gia đình, trong
đoàn thể, giữa các cá nhân. Kinh nghiệm hằng ngày dạy chúng ta chân lý này. Khí
cụ này phải thực sự nằm trong tay Chúa và hoàn toàn để Thiên Chúa sử dụng, như
dụng cụ của người thợ gốm nằm trong tay Thiên Chúa (x. Gr 18, 1-11). Khí cụ
không thể hành động theo ý của mình và làm trái ý của Thiên Chúa.
Đây không phải là điều
dễ thực hiện. Nên tín hữu phải cầu nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành
khí cụ bình an của Chúa.
Ở đâu có ghét ghen, xin
làm cho con được mang đặt nơi đó tình yêu thương... Ở đâu có bóng tối, xin làm
cho con được mang đến đó ánh sáng.
Lời Kinh đã dùng những
từ ngữ đối nghịch nhau, những kiểu nói đối chọi nhau, như chúng ta đã phân tích
trên đây.
Trong Sáck Kinh chúng
ta có một Kinh cũng được sáng tác theo lối đối ngẫu này: đó là Kinh Cải tội bảy
mối. Kinh đọc như sau:
Cải tội bảy mối co bảy
đức:
Thứ nhất: khiêm nhường
chớ kiêu ngạo.
Thứ hai: rộng rãi chớ
hà tiện.
Thứ ba: giữ gìn sạch sẽ
chớ mê dâm dục.
Thứ bốn: hay nhịn chớ
hờn giận.
Thứ năm: kiêng bớt chớ
mê ăn uống.
Thứ sáu: yêu người chớ
ghen ghét.
Thứ bảy: siêng năng
việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng.
Lời Kinh Cải tội bảy
mối đã dùng cách đối nghịch giữa các tính xấu và các nhân đức: tính xấu trái
ngược với nhân đức, và trái ngược với Tin Mừng; đồng thời Lời Kinh cũng giới
thiệu những nhân đức phải thực hành để chừa bỏ các tính xấu. Như lời mở đầu nói
rõ: Cải tội bảy mối có bảy đức.
Chúng ta có một thí dụ
khác về hình thức đối nghịch các hành động như trong lời kinh tận hiến phục vụ
của Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556). Lời Kinh đọc lên như sau:
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy
con:
Biết phụng sự Chúa cho
xứng đáng
Biết cho đi mà không
tính toán
Biết làm việc mà không
lo tìm an nhàn
Biết chiến đấu mà không
sợ vết thương
Biết tiêu hao mình đi
mà không lo tìm một
phần thưởng nào khác
ngoài việc biết rằng con
đã thi hành ý Chúa. Amen.
Trong thư gửi tín hữu
Galata, thánh Phaolô cũng đã so sánh đối nghịch giữa các hoa quả của xác thịt
và hoa quả của Thánh Thần. Hoa quả của xác thịt là: “Các việc của xác thịt thì
rõ ràng, đó là gian dâm, ô uế, phóng đãng, thờ tà thần, quỷ thuật, thù oán, đố
kỵ, hiềm khích, giận ghét, cãi cọ, bất thuận, bè phái, ghen tị, giết người, say
sưa, mê ăn uống và các nết xấu tương tự... Còn hoa quả của Chúa Thánh Thần là
bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, trung
trực, khiêm tốn, tiết độ” (Gl 5, 19-23). Phaolô kể ra 16 công việc của xác thịt
và 10 hoa quả của Chúa Thánh Thần. Tất cả đối ngược nhau. Phaolô khuyên tín hữu
Galata phải tránh những công việc của xác thịt; và phải hoạt động theo những
hoa trái của Chúa Thánh Thần. Nhưng Phaolô không đặt cạnh nhau từng cặp công
việc của xác thịt với công việc của Chúa Thánh Thần.
Trở lại với Lời Kinh
Đơn Sơ, chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của các thái độ phải tránh và các lối
sống phải có nơi người tín hữu.
“ghét ghen” – “tình yêu
thương”(câu 3); “xúc phạm” – “sự thứ tha” (c. 4); “bất hòa” – “sự hiệp nhất”
(c. 5); “nghi nan” – “đức tin” (c. 6); “sai lầm” – “sự thật” (c. 7); “thất
vọng” – “hy vọng” (c. 8); “buồn sầu” – “niềm vui” (c. 9); “bóng tối” – “ ánh
sáng” (c. 10); “cho đi” - “lãnh nhận” (c. 19); “chết đi” – “sống lại tới tự
sống đời đời” (c. 21); “được an ủi” – “lo an ủi” (c. 12); “được hiểu biết” –
“để hiểu biết” (c. 13); “được yêu mến” – “ lo yêu thương” (c. 14); “thứ tha” –
“được tha thứ” (c. 20).
Trong đời sống thiêng
liêng chúng ta có những điều phải tập tành, phải loại bỏ như là căn bản để có
thể tiến tới. Rồi tiến lên, người tín hữu còn cần đi xa hơn nữa, đó là sống
đúng theo tinh thần Phúc Âm Chúa Giêsu dạy, để rồi chuẩn bị đi vào con đường
kết hiệp với Thiên Chúa trong một sự kết hiệp với Thiên Chúa cách trọn vẹn và
sâu xa.
Kinh Cải tội bảy mối
được coi như là con đường thanh luyện căn bản.
Và chúng ta có thể coi
những điều tác giả Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình, đưa ra như là những lối sống
đi vào tinh thần Phúc Âm trọn vẹn. Để thấy rõ điều này, để thấy được cách dễ
dàng điều này, chúng ta đọc lại Bài giảng trên núi nói về những phúc thật của
Chúa Giêsu (x. Mt 5-6).
Chúa Giêsu nói về việc
sống khó nghèo, về lời than khóc, về việc an ủi, sống hiền lành, bị đói khát,
về công chính, việc được no đầy, lòng xót thương, lòng trong sạch, bình an, bị
bách hại, bị sỉ nhục, bị vu khống đủ điều xấu. Hãy trở nên ánh sáng cho mọi
người; đưa cả má kia cho kẻ vả má này; xin áo thường, thì cho cả áo choàng; xin
đi một dặm, thì sẵn sàng đi thêm hai dặm; yêu thân nhân, và yêu cả thù địch;
cầu nguyện cho cả người bách hại ngươi; chào cả người không chào ngươi; cho cả
người không có gì để cho lại bạn.
Còn tác giả Kinh Đơn Sơ
hay Kinh Hoà Bình đã gợi ý từ lời Chúa để cầu nguyện và xin ơn sống những gì
Chúa dạy trong Bài Giảng trên núi trong chính bản thân mình và trong tương quan
với người khác; như sống bình an, tránh ghen ghét, biết yêu thương, không xúc
phạm, luôn tha thứ, tránh bất hòa, gây tình hiệp nhất, loại bỏ nghi nan, sống
đức tin, tránh lỗi lầm, tìm chân lý, không thất vọng, nhưng tràn đầy hy vọng,
buồn sầu, niềm vui, tối tăm, ánh sáng, biết an ủi, ủi an người khác, biết hiểu
biết thông cảm, luôn cho đi mà không tìm lãnh nhận, biết tha thứ, và cái đối
chọi sâu xa nhất là chết đi trong thân xác con người, để sống lại trong đời
sống vĩnh cửu.
Đọc bản liệt kê đối
chiếu giữa Bài giảng của Chúa Giêsu trên núi, với Lời Kinh Đơn Sơ, chúng ta
nhận thấy một sự hài hòa lớn lao, và Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình như là một
lời quảng diễn những gì Chúa Giêsu nói và dạy chúng ta trong Bài giảng trên
núi. Chúa Giêsu nói với chúng ta trong sự tự do con người: “nếu”, “khi chúng
con làm”... Chúa đề nghị với con người, để họ được hạnh phúc: Phúc cho những
ai... ; còn Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hoà Bình cầu xin trong tấm lòng khát khao thực
hiện và ý thức sự yếu đuối của mình để có khả năng thực hành những giáo huấn
của Chúa. Ngày nay những ai đọc hay hát đến từ “nếu”, hoặc câu “khi chúng con
làm”... cũng cần đi vào trong tinh thần của Các Mối Phúc Thật và của lời cầu:
Xin hãy làm con nên dụng cụ bình an của Chúa. Đọc như thế mỗi ngày con người
được thanh luyện hơn và được ánh sáng chiếu soi vào trong chốn thẳm sâu của họ.
Họ sẽ xác tín hơn về những tâm tình phải có để sống đúng Tin Mừng của Chúa Kitô.
Họ sẽ không còn oán thù, nhưng sẽ yêu thương...
Trong Kinh Thánh
Phanxicô Assisi đọc trước tượng Thánh Giá tại nhà thờ San Damiano ở Assisi,
chúng ta có một số từ giống như trong Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình: “Lạy
Đấng tối cao, Thiên Chúa vinh hiển, xin chiếu soi vào bóng tối của lòng con.
Xin cho con đức tin ngay thẳng, đức cậy vững vàng và đức ái toàn vẹn, sự khôn
ngoan và khả năng để hiểu biết và để phụng sự thánh ý Chúa. Amen” (gạch dưới là
của tôi).
Lạy Thày, xin làm cho
con, không lo tìm kiếm, để được an ủi, mà lại lo an ủi. Không lo được hiểu
biết, mà lại lo để hiểu biết; không lo tìm được yêu mến, mà lại lo yêu thương.
Chúng ta sang phần thứ
II của Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình. Chúng ta nhớ phần thứ II này không có
trong bản văn năm 1916. Bản văn Phần thứ II nói tới niềm an ủi, sự hiểu biết
cảm thông, việc yêu mến. Ba hành động này là những yếu tố tích cực và tất cả
chúng ta đều mong muốn thể hiện cho chính mình và muốn người khác thể hiện cho
mình nữa. Vì trong con người chúng ta, bản sinh chúng ta muốn thể hiện bản ngã
của mình, “cái tôi” nơi ta, cách trọn vẹn và còn muốn hơn cả người khác. Chúng
ta cũng muốn có được thật nhiều của cải vật chất và đức tính tự nhiên, khả năng
tinh thần, để làm giầu cuộc sống của chúng ta. Tự nhiên chúng ta không nghĩ tới
người khác và cũng không muốn nhường cho người khác những gì chúng ta có theo
bản tính tự nhiên hay do sở hữu và công việc làm của chúng ta. Tất cả những
điều này tự nó không xấu, nhưng nếu không ý thức điều hòa, chúng sẽ là cản trở
lớn cho sự thăng tiến về cuộc sống siêu nhiên. Vì thế tác giả Lời Kinh Đơn Sơ
hay Kinh Hòa Bình đã xin Chúa cho được sống ngược lại với bản năng và ước muốn
tự nhiên: Muốn an ủi người khác thay vì để người khác an ủi mình; muốn cảm
thông hiểu biết người khác thay vì đòi hỏi người khác cảm thông và hiểu biêt
chính mình; muốn yêu mến người khác, thay vì để người khác yêu thương mình và
làm tất cả cho mình vì tình yêu thương này. Quả thật đó là một ước muốn lớn
lao, khó thực hiện. Vì thế nó trở nên một lời cầu khẩn thiết tha dâng lên Thiên
Chúa. Ngài là Thày của tất cả và có sức làm được tất cả cho chúng ta. Các thánh
cảm nghiệm được điều này. Các ngài đã sống và thực hành điều này trong đời sống
của mình. Các ngài quả thực không còn sống cho chính mình nữa, nhưng sống cho
Thiên Chúa và cho người khác hoàn toàn. Các ngài làm hết mọi điều cho người
khác, còn phần mình thì không kể gì tới. Thánh Inhaxiô thì xin Chúa cho mình
“được ơn cho đi mà không tính toán”.
Bởi vì, có như thế, thì
khi cho đi, là người ta lãnh nhận, khi thứ tha, thì được tha thứ; khi chết đi,
thì sẽ sống lại tới tự sống đời đời”
Đây là phần thứ III và
cuối cùng của Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình. Bản văn đặt từ “sự sống muôn
đời” ở cuối Lời Kinh này, như thường thấy trong các kinh khác. Phần này có thể
được coi là phần nói về những phần thưởng dành cho những ai sống các đòi hỏi
trên đây. Nhưng điều này cũng được diễn ra trong lối văn cầu xin và dưới hình
thức giải thích lý do cho việc sống những đòi hỏi siêu nhiên trên đây. Bản văn
nói tới 3 động từ “cho đi”, “thứ tha” và “sống” cũng như “sống lại”, và một
danh từ kết cho tất cả Lời Kinh, đó là “sự sống muôn đời”. Ở đây Lời Kinh cũng
có những kiểu nói đối ngược lại, nhưng lại là tích cực đem lại hậu quả đích
thực trong chính các hành động đã thực hiện. Chúng ta có thể xác quyết rằng,
bản văn đã gợi hứng từ Phúc âm khi Chúa Giêsu nói: “Ai muốn giữ mạng sống mình
thì sẽ mất sống. Ai hy sinh mạng sống mình vì Thầy sẽ được sống” (Mt 10, 39).
Nhưng khác một điều là trong bản văn Phúc âm, có nói tới lý do của việc hy sinh
sự sống: “vì Thày”. Còn trong Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình, với cả ba
trường hợp “cho đi”, “tha thứ” và “chết đi”, thì chỉ nói trống mà thôi. Như vậy
chúng ta phải hiểu trước tiên là theo hướng của Phúc âm, nghĩa là khi tín hữu
“cho đi”, “tha thứ”, “chết đi”, họ làm tất cả vì Chúa Kitô. Nhưng người ta cũng
có thể hiểu thêm rằng, tất cả các hành động này tự nó có tác động nơi người
khác và có tác động nơi chính người chủ động. Về phạm vi tâm lý, đó là một hành
động giải phóng, có sức thăng tiến con người và làm cho họ nên sung mãn hơn.
Khi “cho đi”, con người cảm thấy một mối liên hệ với người khác, và ràng buộc
họ với người khác; làm cho họ có được ý thức về nguồn tài năng phong phú nơi
mình về phạm vi thể lý cũng như tinh thần. Đó chính là điều họ nhận lãnh được
từ hành động cho đi. Rồi khi họ “tha thứ”, thì hành động này tác dụng vào con
người họ cũng đang cần được tha thứ vì nhữnbg thiếu sót và yếu kém của mình. Họ
ý thức về cái không phải là mình qua các hành động lỗi phạm, để nhận ra một nhu
cầu được tha thứ. Như thế họ chia sẻ cái cảm nghiệm thiếu sót và nhu cầu cần
được tha thứ để hoàn thiện cả hai bên. Còn khi “chết đi”, đây là một luật của
sự sống, vì nếu hạt giống gieo xuống mà không hư nát đi thì sẽ không mọc lên
cây và sinh hoa trái. Chính Chúa Giêsu đã nói như thế trong cuộc nói chuyện với
những người Hy Lạp đến dự lễ tại Giêrusalem (x. Ga 12, 24).
Sự sống muôn đời là
phần thưởng cho những ai biết tha thứ, biết cho đi và biết chết đi, nhưng không
chỉ có thế mà thôi, mà còn cho tất cả những ai đã thực hành các việc vừa nói
trên đây, ở phần I và phần II của Lời Kinh. Tuy nhiên sự sống mnuôn đời này chỉ
có thể do Thiên Chúa ban cho con ngườii. Chắc chắn các việc con người làm, cho
dù có quảng đại đến đâu, có hăng say đến đâu, có kết quả thế nào đi nữa, thì
không thể tương xứng với sự sống muôn đời và Đấng ban sự sống này cho ta, nhưng
lại khó thực hiện vì sự sống này là điều nằm trong phạm vi của Thiên Chúa, và
lại là chính Thiên Chúa. Vậy từ ngữ “sự sống muôn đời” là một nguyện ước thật
sâu xa của tác giả Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình, và cũng là một lời tuyên
xưng hoàn toàn tin cẩn vào Thiên Chúa.
Kết luận
Với mấy lời chú giải
trên đây, chúng ta nhận ra được giá trị, ý nghĩa và nội dung của Lời Kinh Đơn
Sơ hay Kinh Hòa Bình, mà chúng ta đã quá quen thuộc. Lời Kinh này là kết quả
của một con người đã sống sâu xa Phúc âm của Chúa Kitô, nhất những mối phúc
thật của Chúa rao giảng. Lời Kinh này xuất phát từ một tâm hồn đang muốn đi sâu
vào con đường đi theo Chúa Kitô và hiệp thông với Ngài. Đồng thời tác giả cũng
thao thức cầu xin cho mình cho mọi người sống thực tinh thần hòa bình của Phúc
âm. Lời Kinh này là một áng văn chương được sáng tác cách tuyệt vời do một tay
bút đã sống trong nguồn văn chương thi phú, đã quen với các lời cầu nguyện của
các giáo phụ và các tác giả tu đức thời danh. Tác giả để lại cho chúng ta một
áng văn chương thật dễ đọc, dễ thuộc và dễ thấm vào tâm khảm chúng ta, vì những
gì được trình bày trong Lời Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình cũng rất gần gũi với
tâm tình của chúng ta, với những ước muốn siêu nhiên của chúng ta. Ước gì Lời
Kinh Đơn Sơ hay Kinh Hòa Bình được đọc và suy tư sâu xa hơn, để rồi có sức biến
đổi con người thời nay đang bị xâu xé vì chiến tranh, hận thù, oán hờn, ích kỷ.
Với ơn Chúa Lời Kinh dần dần biến đổi mỗi người chúng ta thành Khí cụ bình an
của Chúa Kitô và hoàn toàn để Chúa Thánh Thần dùng khí cụ này trong công việc
xây dựng Giáo Hội và hòa bình.
Lm. Phanxicô Borgia
Trần Văn Khả
---------------------------------
- L’Osservatore Romano,
ngày 20-1-2009, có cho in lại trang đầu của Nhật báo của Tòa Thánh Vatican
L’Osservatore Romano, ngày 20 tháng 1 năm 1916, trong đó có in lại bản văn Kinh
Đơn Sơ đăng trong báo “Souvenir Normand”.
- Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC., và Suor Chiara Carla Cabras, OSC.,
Shalom 2005, Editrici Francescane 2005, tr.128.
- Ngoài Bản Kinh Hòa
Bình, chúng ta cũng có những bài thánh ca được sáng tác gợi ý từ bản văn nguyên
thủy, nhưng đôi khi có thêm một vài chữ, vài câu, hay có khi thêm cả một đoạn
văn nữa, x. Preghiere di San Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập
sau đây: P. Bruno Giannini, OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC và Suor Chiara
Carla Cabras, OSC., Editrici Francescane 2005, tr. 470-471.
- X. Phụng ca III, do
Các Linh mục và Tu Sĩ Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức xuất bản năm 1998,
tr. 920.922.
- Xem Indice, trang 5-6
và 105.
- Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM., Suor Cjhiara Augusta Lainati, OSC và Suor Chiara Carla Cabras, OSC.,
Editrici Francescane 2005, tr. 128.
- Egidio Picucci, Le
origini del testo auttirbuito a San Francesco d’Assisi, “L’Osservatore Romano”,
e la vera storia della Preghiera semplice, trong L’Osservatore Romani, 19-20
gennaio 2009, p. 6.
- Xem Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC và Suor Chiara Carla Cabras, OSC.,
Editrici Francescane 2005, tr. 128.
- Lời kinh trong ngoặc
là bản dịch trong bài hát của Nhạc sĩ Kim Long dùng.
- Về lối hành văn đối
ngược nhau, chúng ta có thí dụ điển hình trong Kinh kính chào các Nhân Đức, của
Thánh Phanxicô Assisi: xem Preghiere di San Francesco e Santa Chiara, tr.
61-62: như đối ngược giữa sự khôn ngoan như nữ hoàng và sự đơn sơ toàn vẹn; sự
khó nghèo – sự khiêm nhường; sự bác ái – sự vâng lời; một nhân đức – bao gồm
tất cả các nhân đức khác, thiếu một nhân đức – thì thiếu hết các nhân đức khác,
sự khôn ngoan – thắng lướt các mưu chước của Satan; sự đơn sơ nguyên tuyền –
làm lộn xộn sự khôn ngoan của cả thế giới...
- X, Joseph A.
Jungmann, S.J., The Mass of the Roman Rite (Missarum Solemnia), A Christian
Classic Reprint, New York 1980, tr. 483; xem thêm Enciclopedia Cattolica, vol.
XX, Città del Vaticano, 1952, cột 499-500.
- Phụng Ca III, như
trên, tr. 356-357.
- Đây có lẽ là lời kinh
cổ xưa nhất mà Thánh Phanxicô Assisi đã sáng tác. Xem Preghiere di San
Francesco e Santa Chiara, do các tác giả sưu tập sau đây: P. Bruno Giannini,
OFM., Suor Chiara Augusta Lainati, OSC và Suor Chiara Carla Cabras, OSC.,
Editrici Francescane 2005, tr. 47.
- Sau phần này, các bài
thánh ca gợi hứng từ đây có thêm một câu nữa, như : “Ôi Thần Linh thánh ái Xin
mở rộng lòng con. Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí Ơn an bình.”
Nguồn: daminhvn