ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT
Đau
khổ và sự chết, một thực tại hiển nhiên mà không ai dám chối cãi, nhưng tâm
lý chung thì ai cũng sợ và muốn quên nó. Chân lý hiển nhiên nhất lại là chân
lý dễ quên nhất, để đến khi con người đối diện với sự chết thì mới giật mình
tỉnh thức, như một khẩu ngữ trong dân gian: “chưa thấy quan tài thì chưa
đổ lệ”. Đau khổ và Sự chết gắn liền với nhau như hình với bóng, nó là
mối dây hệ lụy với nhau như nhân với quả hoặc như quả với nhân. Vậy con người
nói chung nhìn vào đau khổ và sự chết như thế nào, nó có ý nghĩa và giá
trị ra sao, cũng như con người cần phải chấp nhận đau khổ và sự chết bằng
cách nào?
NHẬN THỨC CHUNG CỦA CON NGƯỜI
Với cách nhìn nhận
thông thường thì chết là một cuộc vĩnh biệt đơn độc và hãi hùng nhất. Không
ai có thể đau khổ và chết thế cho nhau, cho dù đó là người thân yêu nhất.
Các triết gia xưa nay đều mải miết đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Con người
từ đâu đến và đi về đâu? Tại sao con người lại đau khổ và phải chết? Nhiều
triết thuyết đã ra đời để lý giải cho câu hỏi này. Những triết thuyết mang chữ
“duy” không giải đáp được gì về nguyên lý của sự chết. Những thuyết không tìm
ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và sự chết thì thấy cuộc đời chỉ
toàn bế tắc, có muôn vàn mâu thuẫn và
xáo trộn. Khi con người không nhận thức đúng đắn về nó thì tất nhiên họ
chỉ lao vào danh lợi, lao vào sự tranh
chấp để được thỏa mãn những khát vọng về thống trị và hưởng thụ,
hoặc khinh thường sự sống đi đến sự khắc kỷ lệch lạc mất quân bình.
Dù là tổng thống, là tỉ phú hay ăn mày thì cũng chỉ là kiếp người, để
khi đối diện với sự chết cũng phải run giùng sợ hãi trở về tay không với bao
tiếng khen chê, tốt xấu hay đáng nguyền rủa.
Đời được gắn liền với
nước mắt:”Thoắt sinh ra thì đà khóc choé / Trần có vui sao chẳng cười khì”
(Nguyễn Công Trứ), ngay từ lúc sinh ra là đã phải đối diện với đau
khổ rồi. Có lẽ không có sách nào suy xét, phân tích kỹ lưỡng và sâu
sắc về đau khổ của con người cho bằng “Tứ Diệu Đế” trong kinh điển
nhà Phật, nó xoay quanh một kiếp sống trong “Sinh-lão-bệnh-tử”, để rồi phải kết luận bằng một câu bất
hủ: “nước mắt chúng sinh nhiều hơn
đại dương”. Con người luôn luôn gặp đau khổ hằng ngày, trong mọi nơi
mọi lúc, và đau khổ tột cùng là sự chết. Đau khổ do mình bị lầm
lỡ, do con người làm khổ lẫn nhau, do không được như ý muốn, do bị
chia lìa người thân yêu, do tính toán thất bại, thất vọng, do bị hiểu
lầm, bị phản bội, do tai nạn, do Tham-Sân-Si hoành hành… Đau khổ do
nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, động đất, chiến tranh, do quy luật sinh
tồn, luật đào thải, do muôn vàn những khắc nghiệt của nhiều sự dữ đang
hiện diện.
Có sống được trăm tuổi cũng
chẳng ra sao: Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy / cảnh phù du trông thấy cũng
nực cười (C.B.Quát). Như Hoàng đế
Napoleon bị đày ở đảo
Xưa nay, con
người tìm đủ cách để chấp nhận
hoặc để giải thoát đau khổ. Đạo gia Á đông đã thấy quy luật rất tổng quát
và tương đối: “Hữu sinh tất hữu diệt;
Hữu thành tất hữu huỷ”, và “Thuận
thiên tri thiên mệnh”. Đức Phật muốn giải thoát chúng sinh qua
khỏi biển khổ bằng cách tiêu diệt mọi ước muốn (diệt dục) để vào
Niết Bàn, vì Ngài thấy rằng sự vật, sự việc ở đời chỉ là “giả huyễn”,
để rồi sinh sinh tử tử nối tiếp nhau trong một đại dương đầy nước mắt do bị nô
lệ vào dục vọng. Trang tử nhìn cuộc sống hư hư thực thực, ông thấy mình là
bướm rồi lại thấy bướm là mình. Khi vợ chết, Trang tử lấy đàn ra gảy, ông thấy
có cũng như không và không cũng như có. Lão tử lại thấy cuộc sống đầy rẫy những
mầm loạn trong cái mê muội, nên ông chống lại mọi ý chí đấu tranh để chủ trương
một đạo “vô vi”, tìm đến một lẽ sống tự nhiên về đạo an tịnh, để sống
cũng như chết, mọi sự không thể tác động để gây đau khổ cho con người. Còn Khổng
tử thì chủ trương một lối sống thực tế rất nhân bản và cao đẹp, một lối sống
quân tử, vì “quân tử bất ưu bất cụ”
(người quân tử không buồn lo, không sợ) và “quân tử thản đãng đãng” (người quân tử có sự bằng an
thanh thản lồng lộng), nhờ đó tạo nên một trật tự mang lại an hoà cho con
người và xã hội. Hiền triết Sorcates suốt đời tranh đấu cho sự thật, mong
muốn cho con người thoát khỏi mê muội bằng cách “hãy tự biết mình”, ông rất thản nhiên trước đau khổ và sự
chết. Ông tình nguyện (bị ép) uống thuốc độc rồi nhìn cái chết đến từ từ như
nhìn một công việc đến hồi kết thúc phải có trong cái quy luật của nó.
Và dĩ nhiên, còn nhiều
cá nhân, tín ngưỡng, tôn giáo từ đông tây kim cổ có những quan điểm hoặc niềm
tin khác nhau về đau khổ và sự chết qua những ý niệm với nhãn quan riêng
biệt.
ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT CÓ Ý NGHĨA VÀ GIÁ
TRỊ KHÔNG
Con người đã
tốn rất nhiều nước bọt và giấy bút để bàn về vấn đề này, nhưng đề
tài này vẫn không có đoạn kết. Xét rằng con người hầu như bất lực
để hiểu thấu hay ít ra cũng không thể nói về nó một cách rốt ráo,
dù rằng qua lịch sử, nhiều triết thuyết, nhiều tôn giáo đã tung hứng
đủ lý lẽ để lý giải về vấn nạn này. Con người chỉ biết rằng nó
đang hiện diện, như một chân lý không thể chối cãi. Con người chưa
biết rằng hai với hai là bốn từ đâu mà có, cũng như bóng tối xuất
hiện vì không có ánh sáng, đau khổ hiện diện vì thiếu hạnh phúc,
sự dữ có mặt vì vắng bóng sự thiện… Nào ai có thể chứng minh được
nó từ đâu mà có? nó xuất hiện với mục đích gì? có phải để tàn
phá? để hủy diệt? để tồn tại và phát triển? để làm quân bình hay
xáo trộn như trong quy luật đào thải? Và muôn vàn vấn nạn trong những
chuyện tương tự.
Con người
nhận thấy rõ rằng, quy luật sinh tồn, quy luật đào thải là vô cùng
khắc nghiệt, sinh muôn vàn đau khổ và sự chết cho mọi sinh vật. Ngay cả
vũ trụ được ổn định cũng nhờ tiếng nổ vĩ đại làm vỡ tung khối
hỗn mang (Big Ben), và thiên nhiên cũng chẳng khác: Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn.
Mỗi bước chuyển tiếp là một cơn đau đớn, trong cái đã đến, đang đến và sẽ đến. Từ vi sinh vật, côn trùng, thú vật cho tới con người đều nằm
trong quy luật sát phạt này. Nhưng đặc biệt, ai cũng nhận thấy rằng
quy luật này rất hợp lý và hữu ích, vì nếu chỉ có yên lặng trong
sự tĩnh mịch thì đồng nghĩa với sự chết, chẳng sản sinh ra được
điều gì. Cá lớn nuốt cá bé, sinh vật này giết sinh vật kia để sống,
nhờ thế hệ sinh thái mới được quân bình. Ai cũng thấy rằng, muốn
đạt được điều gì tốt, phải vượt qua những khó khăn thử thách. Mỗi
cá nhân muốn đạt được ước mong nào thì buôc phải trải qua gian nan
thử thách, sau đó mới gặt hái được hạnh phúc của điều mà mình đã
trả giá (ai nên khôn không khốn một lần). Người giàu có, người thành
công hay thành đạt thì buộc phải chiến đấu qua gian khổ. Thế giới
được nhiều thành quả và tốt đẹp như hôm nay, chính nhờ vào bao cố
gắng, bao gian nan, bao đau khổ của nhiều cá nhân, của những cộng đồng
tập thể qua nhiều thế hệ… Nếu không có đau khổ, chắc rằng con người
không cần cải thiện, như thế sẽ bất chấp tất cả, sẽ tự bị hủy
diệt, vì đâu còn lý do để khắc phục và xây dựng nữa. Nhất là không
có đau khổ và sự chết thì con người sẽ mặc sức sống theo thú tính
để thỏa mãn mọi sự ngạo mạn của mình, mọi dục vọng nơi con người
sẽ ngự trị, và như thế con người thành nô lệ, tàn sát lẫn nhau, trở thành sự nghịch lý không thể
có được.
Song song với
nó là những dục vọng nơi con người, mà nhà Phật cho rằng đây là
nguyên nhân chính tạo nên mọi nghiệp, mọi kiếp. Những thất tình
(hỉ, nộ, ái, ố, ai, cụ, dục), lục dục-lục tặc (sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp) dẫn con người đến đau khổ và sự tiêu ma.
Quy luật sinh
tồn và đào thải từ đâu mà ra, cũng như dục vọng nơi con người từ đâu
mà có? Có thể nói đó là một bí nhiệm. Bí nhiệm như ánh sáng và
bóng tối từ đâu. Chỉ biết chắc rằng quy luật mâu thuẫn luôn phải có
thì mới sản sinh ra được điều kỳ diệu, nó nương tựa và đun đẩy nhau
để phát triển(âm thịnh dương suy và dương thịnh âm suy). Đối cực này
giải nghĩa và làm rõ cho đối cực kia chứ không thể lý giải hơn
được. Triết lý Á đông nhận rằng đây là sự khiếm khuyết của trời
đất nhưng lại mang được ý nghĩa để chấp nhận cặp đối lập trong niềm
lạc quan tích cực. Nếu đứng ở góc độ lý trí con người, thì Đức Phật
được xưng tụng là đại trí, Khổng tử là “vạn thế sư biểu”, Lão tử có trí huệ nhìn xuyên suốt
được mọi quy luật để thấy được
cái “Đạo” là nguyên ủy và cứu
cánh của mọi sinh vật, dù rằng bản thể của “Đạo” chưa ai giải thích
và hiểu thấu được…, chỉ biết rằng đau khổ và sự chết bởi chính cặp
mâu thuẫn mà ra, chứ không nhất thiết phải giải thích, càng không thể
giải thích hơn được nữa, “ra sống thì
vào chết; vào chết thì ra sống” (Lão) chính là vậy. Cũng như “Vật cùng tắc biến, biến tắc thông,
thông tắc cửu” (kinh dịch) là như thế.
CON NGƯỜI CẦN PHẢI CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ VÀ
SỰ CHẾT BẰNG CÁCH NÀO
Như trên đã
đề cập đến sự nhận thức và quan điểm của con người xuyên qua những
cảm nhận và lý lẽ trong triết lý, trong đạo học cũng như trong những
sắc thái của tôn giáo Á đông. Dù sao ta cũng nên nhìn nhận tính chất
ưu việt từ trong các tôn giáo, vì chỉ có tôn giáo mới có đủ uy tín
và thẩm quyền để xác nhận những vấn đề thuộc tâm linh như việc chấp
nhận đau khổ và sự chết bằng niềm tin nào đó, nhờ đấy biến nó
thành niềm vui cho cuôc sống, còn hơn thế nữa, là tìm được hạnh phúc
trong chính cái đau khổ và sự chết.
Dù chủ quan
hay khách quan (theo niềm tin hay lý trí), nếu tìm hiểu kỹ lưỡng, ta nhận
thấy rằng, đức tin trong Kitô giáo rất coi trọng giá trị của đau khổ
và sự chết. Coi đây là một ân huệ, một phúc lộc của Thiên Chúa ban
cho con người. Đau khổ và sự chết là hậu quả của tội lỗi: “lương bổng mà tội
lỗi trả cho người ta là cái chết” (Rom 5, 12).Nhưng chính nhờ đau khổ, cái chết và sự phục sinh, Đức Kitô đã
biến nó thành hi vọng, thành niềm vui, thành niềm hoan lạc trong sự sống đời
đời cho tất cả nhũng ai theo Người: “Ai muốn theo thầy, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt, 24). Trong niềm tin, qua đau
khổ và sự chết, chắc chắn con người sẽ được vinh quang và hưởng
phúc lạc đời đời, vì “Nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng
sống minh, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.(Ga 12,24-25).Trong cựu
ước, ông Giop là người đau khổ tột cùng khó ai có thể chịu đựng
được, nhưng ông vẫn vui lòng chấp nhận nó trong niềm tin yêu vững bền:
“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ. Tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Chúa (G 1:21), và kết quả là ông gặt hái được những
thành quả mỹ mãn không ngờ được. Bởi
vậy một trong những điều kiện để đo lường sự thánh thiện trong đạo
Chúa là xem người đó có bằng lòng chịu đau khổ hay không. Thiếu điều
kiện này là chưa thể bảo đảm được sự thánh thiện.
Đau khổ và sự
chết không ai có thể trốn tránh và chống lại nó, nếu chống lại, con người
sẽ trở nên trống rỗng trong mọi sự, vì:“Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối
với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những
người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1,
18). Khi chống lại đau khổ, con người chỉ tìm cách ngủ yên
trong cái vỏ ốc để bảo vệ cho mình được thoải mái, tránh mọi phiền phức bất cứ
từ đâu đến. Lúc đó con người biến thành ích kỷ vô cùng, là điều nguy hiểm dẫn con
người đến sự hư mất.
Người Kitô hữu dễ dàng
chấp nhận những đau khổ và sự chết nhờ tin vào Đức Kitô và biết được mục đích
cuộc sống ở trần gian này để làm gì (Sinh Ký Tử Quy là như vậy). Nếu con người
bám vào tiền tài, danh vọng và chạy theo nó thì sẽ mắc vào sự mù tối (vô
minh) tai hại, lúc đau khổ và thần chết đến, họ sẽ vô cùng hoảng hốt kinh
hãi.
Sự sống đời đời nếu sánh với đời này thì như
thánh Giacôbê nói: “Đời người chỉ như một chút hơi nước bay đi rồi
biến mất”. Bởi vậy không lạ gì các thánh rất coi thường danh lợi thế gian,
các ngài coi đau khổ và sự chết đời này là một phương tiện cần thiết quí báu để
đến được cõi hoan lạc viên mãn. Thật cũng không lạ gì có bao vị thánh sung
sướng chịu chết vì đạo, các ngài biết rõ”Quê hương chúng ta ở trên
trời”(Pl3,20). Vì thế, chết là thay đổi chứ không mất đi, được biến đổi từ
trạng thái này sang trạng thái khác tốt hơn, hoàn hảo hơn, có được hạnh phúc bất
diệt : “Tôi nói anh em biết mầu nhiệm này là, không phải tất cả chúng ta sẽ
chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi”(1 cr 15, 51).
Đức
tin của người Kitô hữu vượt trên lẽ thường tình đến nỗi người ta nhận thấy một
sự nghịch lý : “khi Chúa thương gọi con về, lòng con hân hoan như trong một
giấc mơ”. Đó là nhờ Đức Kitô đã dành cho những ai tin và sống trong người. Đau
khổ và sự chết trở thành một bí nhiệm nên “bất khả tri”, như bác
học
Nếu con người nhìn
nhận được giá trị, và nhất là có được niềm tin vào một Đấng là nguồn của sự thiện,
là cứu cánh thông qua đau khổ và sự chết, thì chắc rằng con người
sẽ được thanh thản trước cuộc sống trong bất cứ hoàn cảnh hay tình
huống nào. Đấy là con người đã được giải thoát và tìm được hạnh
phúc ngay từ cuộc sống đời này rồi. Nếu không nó sẽ làm cớ vấp
phạm cho con người, để rồi đau khổ trở thành án phạt, từ đau khổ
này sẽ chồng chất lên đau khổ khác, cho đến lúc phải quằn quại trong
sự chết để chấm dứt một kiếp sống nô lệ và đọa đày.
Tuần Thánh 2014
Hàn Cư Sĩ