Chân Phước Gioan XXIII và Gioan Phaolô II: Lòng nhân hậu
và đời sống cầu nguyện
(dongten.net) 09/04/2014 –
Vào ngày 27 tháng 4 năm nay (2014), hai vị Giáo Hoàng vĩ đại sẽ được ghi vào Sổ
bộ các Thánh: Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hai
vị Giáo hoàng rất được yêu mến và nổi tiếng vẫn còn lưu lại nơi trái tim các tín hữu; và với những tài năng lỗi lạc, hai vị đã mở
ra những hướng đi mới cho Giáo Hội và tạo ra một ảnh hưởng mạnh mẽ trong lịch
sử thế giới. Dù khác nhau về nguồn gốc và huấn luyện, nhưng cả hai đều vĩ đại vì có một tâm hồn cao thượng, một nhân cách phong
phú, một đời sống thiêng liêng và trí thức trổi vượt.
Vậy, đâu là bí mật của
những tình cảm lớn lao mà ĐTC Gioan XXIII đã để lại
nơi những người nam và người nữ nơi mọi dân tộc, mọi điều kiện xã hội dù khác
nhau về tôn giáo và chính trị?
Vị ĐTC thuộc vùng Sotto
di Monte này đã lôi cuốn người lớn cũng như trẻ nhỏ với một lòng tốt trào tràn,
được diễn tả ngay cả nơi những cử chỉ yêu thương đầy tự nhiên và cảm động, như
trong buổi chiều khai mạc Thượng hội đồng, ngài đã nói với dân chúng tại quảng
trường thánh Phê-rô hãy chăm sóc con cái mình, và khi quay về nhà, hãy nhớ nói
với các em rằng đây chính là sự chăm sóc của Đức Thánh Cha. Con người khao khát
lòng tốt, tình yêu và hơi ấm của tình người, và nếu như ai đó đã sống những giá
trị này với sự nồng nhiệt nhất, thì đó chính là Đức Thánh Cha Gioan XXIII.
Lòng nhân hậu mà nhờ đó
ĐTC Gioan XXIII đã chinh phục thế giới xuất phát từ tính cách của ngài, sự vui
tươi, thanh thản và lạc quan, nhưng cũng đừng quên rằng những tính cách ấy là
kết quả của một sự dấn thân và củng cố liên lỉ các nhân đức cá nhân vốn được
rút ra từ ngôi trường của Tin Mừng. Nói cách khác, cách sống và hiện hữu của
ngài là hoa trái của một đời sống cầu nguyện sâu sắc, một sự cố gắng hãm mình
để hoàn thiện chính mình, vốn đã được đón nhận từ những năm đầu đời tại gia
đình và sau đó trưởng thành và lớn lên. Khi làm sứ thần tòa thánh tại Bulgari,
Gioan XXIII đã viết cho cha mẹ của ngài như sau: “Mới đó mà đã mười năm kể từ
khi con rời xa gia đình, con đã đọc rất nhiều sách và học được nhiều điều mà
cha mẹ không thể dạy con. Nhưng những điều nhỏ bé mà con đã học được từ cha mẹ
vẫn là những điều quý giá và quan trọng nhất, và đó chính là nguồn mạch phát
sinh và trao ban nhiều giá trị khác”.
Lòng tốt đã mang lại
cho ĐTC Gioan XXIII những thành công lớn lao, bởi vì
đồng hành với sự tốt lành ấy chính là sự khôn ngoan và khả năng phán đoán tốt.
Lòng nhân hậu của ngài được soi sáng bởi trí thông minh nên ngài luôn biết nhìn
xa. Khi được bầu làm giáo hoàng, Roncalli đã đưa ra những sáng kiến thay đổi
thế giới, nổi bật nhất là quyết định triệu tập công đồng. Ngài luôn nỗ lực để
có một mối tương quan tình bạn thân mật với những người lìa xa Giáo hội và đức
tin Ki-tô giáo. Trong đời sống của mình, chắc chắn ngài là
một con người xây dựng nhịp cầu chứ không phải người xây lên những bức tường.
Thực tế, công đồng Vaticano II là một nhịp cầu vĩ đại
mà ngài đã bắt vào thế giới hiện đại. Hai thông điệp đáng nhớ của ngài cũng vậy,
Mater et magistra và Pacem in terris, là hai nhịp cầu đặc biệt hướng đến
tất cả những ai có thiện chí trong các lĩnh vực kinh tế, lao động, công bình xã
hội và hòa bình. Với một tấm lòng nhân ái – từ khi làm Sứ Thần Tòa Thánh, rồi
đến Tổng giám mục Venezia và Đức Thánh Cha, khi nào ngài cũng thành công trong
việc giải quyết các vấn đề, bởi vì lòng nhân ái của ngài đã mở ra những cánh
cửa đối thoại và điều này giúp tìm ra các giải pháp đúng đắn. Ngài luôn đoan chắc rằng, dù con người có khuynh chiều về sự dữ,
thì nơi con người vẫn luôn tồn tại dấu vết của sự thiện và một yếu tố của con
người. Ngài nói rằng, mỗi người nam và người nữ luôn
có một điều gì đó tốt lành, kể cả những người xem ra là xấu xa nhất. Vì lẽ đó, ngài không chỉ tin tưởng vào Thiên Chúa mà còn đặt niềm
tin nơi con người.
Khi Giáo hội tuyên bố
phong thánh cho ĐTC Gioan XXIII, những lời ca tụng tuôn trào một cách bộc phát
từ trái tim nhiều người: Danh dự và vinh quang cho vị
Giáo hoàng đã mở công đồng. Phúc cho vị Giáo hoàng đã trao ban cho thế giới
hình ảnh của sự thiện và đã chỉ ra cho mọi người con đường duy nhất dẫn đến một
tương lai tốt đẹp hơn là con đường của chân lý, công bình, liên đới và tình
yêu. Phúc cho vị Giáo hoàng đã dạy cho thế giới biết rằng điều con người cần
nhất là tình yêu và lòng nhân ái.
Thế giới tôn kính ĐTC
Gioan Phaolô II vì những điều ngài đã làm trong triều đại Giáo hoàng kéo dài 26
năm rưỡi của mình, và quả thực đây là điều nổi bật nhất. Tuy
nhiên, không ai nghi ngờ rằng, chiều kích trổi vượt nhất nơi ngài chính là việc
cầu nguyện. Đời sống trường thọ của ngài là một sự kết
hợp tuyệt diệu giữa việc cầu nguyện và hoạt động, nhưng nơi tâm hồn ngài, nơi
viễn tượng cá nhân của ngài, điều trổi vượt vẫn là việc cầu nguyện. Từ thuở thiếu thời, Karol Wojtyla đã yêu mến và dành ưu tiên cho
việc cầu nguyện; đời sống cầu nguyện là một phần thiết yếu trong cuộc sống của
ngài. Chúng ta có thể nói rằng, đời sống cầu nguyện là
nguồn mạch của sự năng động và của những hoạt động tông đồ không mệt mỏi của
ngài. Và dĩ nhiên, cầu nguyện cũng chính là nguồn mạch
của đời sống chứng tá hữu hiệu của ngài.
Những
ai làm việc bên cạnh ngài thường được đánh động bởi nhiều điều. Trên
hết, ngài là một con người quyết đoán. Ngài cũng là một con người có suy
tư sâu sắc, có khả năng nói chuyện với đám đông, dễ dàng sử dụng nhiều ngôn
ngữ, sẵn sàng thích ứng với hoàn cảnh. Tuy nhiên, với tôi,
điều gây ấn tượng sâu sắc nhất chính là đời sống cầu nguyện liên lỉ của ngài,
diễn tả sự kết hợp sâu sắc và sống động với Thiên Chúa. Khi ngài đắm chìm trong cầu nguyện, người ta nhìn thấy nơi ngài một
sự rung động thắm đượm lấy ngài như thể không có công việc và bổn phận khẩn
thiết nào khiến ngài phải dấn thân vào. Thái độ của ngài trong cầu
nguyện là một sự hồi tâm sâu xa đồng thời rất nhẹ nhàng và thanh thản: điều này
làm chứng về một sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa được cắm rễ sâu nơi tâm trí
ngài, là sự diễn tả của một đời sống cầu nguyện đầy xác tín, được cảm nhận và
được nhìn thấy.
Khi
nhìn thấy ngài cầu nguyện một mình, ta liền nhận ra ngài đang kết hợp với Thiên
Chúa, và với ngài, đó chính là hơi thở của linh hồn và là nguồn mạch của sự
dâng hiến. Người ta thật sự bị đánh động khi ngài dễ dàng và nhanh chóng
chuyển hóa những mối tương quan nhân loại với con người vào cuộc đối thoại thân
mật sâu xa với Thiên Chúa. Ngài có khả năng tập trung cao độ.
Khi cầu nguyện, những gì xảy ra xung quanh thường không thể
tác động đến ngài và như thể không liên quan gì đến ngài. Trong ngày
sống, bước chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác được ghi dấu bởi một lời
nguyện vắn tắt. Khi ngài viết, với những dòng chữ viết tay nhỏ xíu, các bài nói
chuyện, bài giảng, các giáo huấn bằng tiếng Balan của ngài thường được mở đầu
với một lời khẩn nguyện hay lời cầu nguyện ngắn bằng tiếng Latinh bên lề phải
của trang giấy và rồi lặp lại ở trang tiếp theo. Ví dụ, Totus tuus ego sum
(con thuộc trọn về Mẹ) và ở trang tiếp theo
sẽ là et omnia mea tua sunt (và mọi sự của con là của Mẹ) và trong
các trang tiếp theo cũng vậy. Ngài cũng chuẩn bị các cuộc gặp
gỡ trong ngày và trong tuần bằng lời cầu nguyện. Đôi
khi ngài minh nhiên nói ra điều đó. Ví dụ, trong cuộc gặp với Gorbaciov
vào năm 1989, Đức Giáo Hoàng bắt đầu cuộc gặp bằng cách thổ lộ với người đối
thoại với mình rằng ngài đã chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này bằng cách cầu nguyện
cho ông cũng như cho cuộc gặp gỡ.
Với
ngài, tất cả những chọn lựa quan trọng đều chín muồi trong cầu nguyện. Trước
mỗi quyết định quan trọng, Đức Gioan Phaolô II thường cầu nguyện rất lâu,
thường là hơn một ngày, và đôi lúc có thể kéo dài hơn một tuần. Quyết định càng quan trọng, thời gian cầu nguyện càng kéo dài.
Khi những người đối thoại với ngài hỏi ngài hoặc đề nghị một
điều gì, ngài thường đáp lại rằng, ngài muốn họ suy nghĩ cho kỹ trước khi đưa
ra quyết định. Thực vậy, ngài cần thời gian để lắng nghe ý kiến, nhưng
trên hết ngài cần thời gian để cầu nguyện và xin ánh sáng từ trên cao trước khi
quyết định. Tôi nhớ nhiều hơn một lần trong những năm cuối khi tôi làm việc tại
Tòa Thánh, lúc đó, tôi nghĩ rằng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ủng hộ một
chọn lựa dứt khoát. Tôi hỏi ngài xem liệu có thể tiến hành
đưa tin về quyết định đó. Ngài đáp lại rằng: “Chúng ta phải chờ xem đã,
tôi muốn cầu nguyện thêm về chọn lựa này trước khi quyết định dứt khoát”. Khi
đang tìm hiểu một vấn đề nào đó và chưa tìm thấy giải pháp, ĐTC thường kết thúc
bằng cách nói rằng: “Chúng ta phải cầu nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta”.
Đức Gioan Phaolô II phó thác vào Thiên Chúa trong cầu nguyện để tìm thấy con
đường bước theo.
Hai tuần sau khi được
bầu làm Đấng kế vị thánh Phêrô, ĐTC đã đi đến đền thánh Mentorella, cách Rôma
60 km, và ngài đã nói về cầu nguyện và xác nhận rằng, giữa các điều khác, cầu
nguyện là nhiệm vụ đầu tiên của Giáo hoàng đối với Giáo hội và đối với thế
giới. Ngài nói rằng: “Cầu nguyện (…) là bổn phận hàng đầu và dường như là lời
công bố đầu tiên của ĐTC, là điều kiện đầu tiên để ngài phục vụ giáo hội và thế
giới”. Ngài thêm rằng: “cầu nguyện là điều kiện của sự tự do thiêng liêng và
đặt con người vào trong mối liên hệ với Thiên Chúa hằng sống và do đó, mang lại
ý nghĩa cho tất cả cuộc sống, trong mọi khoảnh khắc, mọi hoàn cảnh (bài giảng
tại đền thánh Mentorella, “Quan sát viên Roma”, 30-31 tháng 10 năm 1978, trang
2).
Đối với ngài, một cách
nào đó, cầu nguyện là một điều gì đó tự phát, nhưng đồng thời, cầu nguyện gắn
liền với việc thực hành các việc đạo đức truyền thống, trong đó, có việc Chầu
Thánh Thể vào mỗi thứ năm, đi đường Thánh Giá vào mỗi thứ sáu và việc lần chuỗi
hàng ngày. Thánh lễ, chặng đường thánh giá và Đức Maria là ba
trung tâm điểm của đời sống thiêng liêng của ngài. Với ngài, Thánh lễ là
một thực tại cao trọng và thánh thiêng nhất: là trái tim
của mỗi ngày sống. Trong một cuộc gặp gỡ với các linh mục vào năm 1995, ngài
nói: “Thánh lễ quả thực là trung tâm của cuộc sống và của mỗi ngày sống”. Khi ở tại nhà và khi thời gian cho phép, tôi thường thấy ngài yêu
thích việc cầu nguyện bằng cách nằm phủ phục trên nền nhà như trong ngày phong
chức linh mục hay giám mục. Với vị trí này, ngài muốn diễn tả một sự tôn
sùng sâu sắc và khiêm hạ trước sự vĩ đại vô biên của
Thiên Chúa.
Về
chặng đường Thánh Giá mà ĐTC Gioan Phaolô II thực hành mỗi thứ 6, Hồng y
Innocenti đã thuật lại cho tôi câu chuyện sau. Khi
còn là Sứ Thần Tòa Thánh tại Tây Ban Nha trong chuyến công du của Đức Thánh Cha
tại nước này. Vào thứ sáu hôm đó, ĐTC đã có một ngày làm việc vất vả và
mãi đến 21h00 mới ăn tối. Chương trình ngày hôm sau dự
kiến sẽ ăn sáng lúc 6h30 và rồi khởi hành đi Siviglia lúc 7h00. Vị Sứ Thần Tòa Thánh thức dậy khá sớm một phần vì bận tâm về cuộc
viếng thăm mục vụ của ĐTC, một phần vì ngài đã nhường lại chiếu giường và phòng
của ngài cho ĐTC và ngài ngủ trên một chiếc giường nhỏ được kê trên gác xép.
Khoảng 5h30, Vị Hồng y đi xuống lầu một và tin chắc rằng ĐTC
sẽ xuống sau. Khi nhìn vào nhà thờ nhỏ, vị sứ thần thấy điện bật sáng. Ngài nghĩ rằng hôm qua ngài đã quên tắt điện. Ngài đi đến và mở cửa nhà thờ nhỏ và ngạc nhiên khi thấy ĐTC đang
quỳ gối trên mặt đất, trước một trong các chặng đường Thánh giá. Dù hôm
ấy ngài sẽ rất bận rộn với công việc mục vụ tại Siviglia và Granada, nhưng ĐTC
đã ở trong nhà thờ từ 5h30 để đi đàng thánh giá.
Tôi
cũng có dịp đồng hành với ĐTC ở Đất thánh vào năm 2000. Vào thứ 6 tuần đó, trong
chuyến bay từ Giêrusalem đến hồ Tibêria, với một cuốn sách nhỏ, ĐTC đã đi đường
Thánh giá trên trực thăng. Vào năm 2000, dù sức khỏe đã sa
sút, nhưng ngài vẫn luôn thực hành việc đạo đức này.
Khi hỏi về việc cầu
nguyện, cầu nguyện là việc chúc tụng, tạ ơn hay xin ơn tha thứ, tôi thấy rất
thú vị với câu trả lời mà ĐTC đã dành cho Andre Frossard trong một vài cuộc gặp
gỡ giữa hai người tại Castel Galdonfo vào năm 1982. Tôi xin chuyển ngữ đoạn văn
từ tuyển tập được Frossard xuất bản vào tháng 11 năm 1982 với tựa đề N’ayez
pas peur! “Đã có những thời điểm trong cuộc sống, tôi
thấy mình muốn giới hạn việc cầu xin (nghĩa là cầu nguyện cho người một người
nào đó hay cho một hoàn cảnh nào đó) để dành nhiều thời gian cho việc tôn kính,
ngợi khen và tạ ơn vốn được xem là trổi vượt hơn. Thời gian trôi qua,
khi trưởng thành hơn, tôi thấy Chúa quan Phòng khi chỉ cho tôi, mỗi ngày một
mạnh mẽ hơn, nhu cầu bước vào việc nguyện xin, dâng lên Chúa những lời nguyện
xin ngày càng rộng lớn hơn”. Với lời cầu nguyện, Gioan Phaolô II đã ôm trọn thế
giới và đã nhiều lần ngài nói về “địa lý của cầu nguyện”, ngài tin rằng, trong
khi cầu nguyện, ngài đang làm một chuyến công du vòng quanh thế giới, dừng lại
nơi những quốc gia bị áp bức và nỗi đau của những người bị áp bức và nghèo túng
nhất. Lời cầu nguyện chuyển cầu của ngài dành cho con người và cho mọi hoàn
cảnh luôn có hơi thở hoàn vũ. Không nghi ngờ gì nữa, Đức
Gioan Phaolô II chính là một nhà huyền nhiệm. Một nhà huyền nhiệm luôn
lưu tâm đến con người và hoàn cảnh. Một nhà huyền nhiệm ảnh
hưởng đến tiến trình lịch sử. Một Đức Thánh Cha được thế giới yêu mến vì
sự năng động khôn cùng, vì biết bao nhiêu cử chỉ, bao nhiêu sáng kiến, bao
nhiêu chuyến công du vĩ đại và ngài là một vị giáo hoàng khiến chúng ta kinh
ngạc vì những hành động để thế giới chúng ta mở cánh cửa và trái tim ra cho Đức
Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại. Động cơ thúc đẩy tất cả hoạt động của ĐTC Gioan
Phaolô II là khao khát giúp mọi người nam và người nữ trong thời đại chúng ta
gần gũi với Thiên Chúa và để cho Thiên Chúa đi vào thế
giới chúng ta với tất cả các dân tộc.
Phản tỉnh của Hồng Y
Giovanni Battista Re, nguyên Tổng trưởng Thánh bộ Giám Mục được đăng trên báo
L’Osservatore Romano, 28 tháng 3 năm 2014.
Chuyển ngữ Nguyễn Minh
Triệu sj