Đức Gioan Phaolô II và
sứ điệp tha thứ
(dongten.net) Ngài là vị Giáo Hoàng vào thế hệ của tôi. Những
năm đầu của đời sống đức tin của tôi được ghi khắc bởi những sự kiện sơ khởi
của triều đại giáo hoàng của ngài, kịch tính và đau xót, những tin tức mà tôi
thường xem hàng đêm tại phòng khách. Một nỗ lực ám sát, một thời gian dài
để phục hồi và sau đó là một hành vi tha thứ trong sự
thinh lặng đầy tính anh hùng. Bây giờ, tấm hình ấy rất nổi
tiếng. Hai năm sau biến cố ấy Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và người đã
ám sát ngài, ngồi với nhau nói chuyện thân mật. Với một thái độ trìu mến, Đức
Thánh Cha nghiêng người về phía kẻ đã ám sát mình, và sau đó ngài đã quyết tâm
giữ kín nội dung cuộc nói chuyện này. Đó là một hình ảnh rất
đẹp và là bản toát yếu về điều đã làm cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trở
nên độc nhất vô nhị trong mắt tôi. Ngài đã không sợ rằng có thể mình sẽ
bị tấn công khi sống sự tha thứ, ngài không sợ ngồi chung
với kẻ thù với trọn tình yêu. Đó là một nghịch lý gây ngạc nhiên và ngài đã
không chỉ giảng về nó từ bục giảng xa cách với “cuộc sống thực”, nhưng là điều mà
ngài sống cách đích thực cho đến cùng.
Vào ngày 12 tháng 3 của
Năm Thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm nên lịch sử khi cầu xin
sự tha thứ. Nói với hàng ngàn người hiện diện trong buổi tiếp
kiến tại quảng trường Thánh Phêrô, ngài đã thực hiện một việc thú tội thật cảm
động. Nhắc đến các cuộc Thập Tự Chinh, Tòa Án Dị Giáo và những hành vi
sai lầm chống lại người Do Thái, phụ nữ và nhóm thiểu số, ngài nói “chúng ta
khiêm tốn xin được tha thứ vì mỗi người trong chúng ta trong lối hành xử của mình
đã góp phần gây ra những sự xấu ấy và đồng thời cũng làm xấu đi bộ mặt Giáo
Hội. Đồng thời, khi chúng ta thú nhận tội lỗi của mình, chúng
ta cũng hãy tha thứ cho những lỗi lầm mà người khác đã gây ra cho chúng ta.”
Một số nhà phê bình lập
luận rằng đây đơn giản chỉ là một kế hoạch có ý đồ chiến lược của ngài trước
khi ngài đến viếng thăm vùng Trung Đông đang bị chiến tranh xâu xé, hay chỉ là
một xu hướng chính trị tự nhiên trong Năm Thánh, một thời gian truyền thống để
tha thứ mọi “nợ nần”. Tuy nhiên, có một sự khiêm nhường lớn lao
và thánh thiện, cũng như một sự bạo dạn, trong quyết định xin tha thứ cách công
khai của ngài. Có lẽ cũng cùng một sự khiêm nhường thánh thiện này đã soi sáng
cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II học để trở thành vị linh mục chui trong thời
gian Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan. Nếu việc này bị phát giác, có thể ngài sẽ
phải trả giá bằng chính cuộc sống của mình, nhưng nhu cầu cần Thiên Chúa của
ngài lớn hơn nhu cầu tìm an toàn. Tất
cả chúng ta có thể học từ ngài gương mẫu này.
Động cơ trọng tâm của
việc đại kết và tha thứ đằng sau hành vi nhìn nhận sai lầm công khai của ngài
vào tháng 3 năm 2000, cũng như sự tha thứ mà ngài dành cho người đã ám sát
ngài, chính là động lực đã nuôi dưỡng toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài. Đức Kitô đã chọn thánh Phêrô như là đá tảng để trên đó Người xây
Giáo Hội của mình và Phêrô đã chịu tử đạo vì điều này cho đến cùng. Đức
Giáo Hoàng nghiễm nhiên là người kế vị thánh Phêrô, người mà Đức Kitô trao
quyền “trói buộc hay tháo cởi,” và nhiệm vụ của ngài luôn gặp phải những khó
khăn vô cùng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được nhiều người
yêu mến nhưng cũng bị nhiều người ghét cay ghét đắng. Hàng triệu người
cầu nguyện theo những ý chỉ của ngài hằng ngày, trong
khi những thần tượng nhạc rock thì xé toạt hình ảnh của ngài trên các kênh
truyền hình quốc gia. Trong một thế giới quá thiếu vắng tình
phụ tử, bị bỏ rơi bởi những nhân vật quyền lực và thẩm quyền bên trong, chúng
ta cần một vị giáo hoàng. Chúng ta cần xin ơn hoán
cải. Chúng ta cần xin sự tha thứ và đón nhận nó.
Chúng ta cần trao tặng nó một cách tự do mà không có sự kết án
đối với người thân cận, kẻ thù, gia đình, chính quyền và cả chính chúng ta.
Thậm chí, trong khi mang lấy gánh nặng của những cuộc tranh luận đe dọa xé toạc
Giáo Hội ra làm nhiều mảnh, từ bên trong và bên ngoài, thậm chí khi mang lấy sự
cô lập mà chắc chắn đến từ việc mang lấy gánh nặng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II vẫn luôn thốt ra điệp khúc của sự tha thứ đầy can đảm và dư tràn phát
sinh ra từ tình yêu.
“Chắc chắn là sự tha thứ
không đến một cách tự phát hay tự nhiên đối với con người.” Ngài
viết. “Sự tha thứ từ con tim đôi khi có thể rất anh hùng… Nhờ vào quyền
năng chữa lành của tình yêu, thậm chí là con tim bị
thương tật nhất cũng có thể cảm nghiệm được cuộc gặp gỡ tự do với sự tha thứ.”
Tuy nhiên, xin sự tha
thứ trong văn hóa của chúng ta thường được xem như hành vi
thể hiện sự yếu đuối nhất, thậm chí là ngây thơ điên dại nhất; thái độ phổ biến
hơn cả là “Đừng bao giờ thể hiện sự hối lỗi trước mặt tôi”. Điều
này tước đoạt nhân tính của chúng ta, khiến chúng ta không còn nhận ra được một
sự thật rằng chúng ta là những thụ tạo tội lỗi, những thụ tạo cần sự tha thứ và
cần một Vị Cứu Tinh. Niềm tin sai lầm đáng buồn này
tước đoạt chúng ta chính cơ cấu mà từ đó chúng ta nhận ra được sự bình an.
“Bình an đích thực không chỉ là vấn đề của cấu trúc và cơ cấu”,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết. “Tiên vàn, nó đặt nền trên sự chấp nhận
một kiểu đồng hiện hữu của con người, được đánh dấu bởi sự đón nhận lẫn nhau và
một khả năng tha thứ từ con tim. Tất cả chúng ta cần
được người khác tha thứ, vì thế, tất cả chúng ta cũng phải sẵn sàng để tha thứ.
Cầu xin tha thứ và trao ban tha thứ là điều gì đó đáng giá sâu thẳm của mỗi
người chúng ta.”
Đó là
sứ điệp hòa giải mà Đức Gioan Phaolô II hầu như đã mang từng chữ đến tận cùng
thế giới. (Số lượng những chuyến viếng thăm của ngài trên toàn thế giới
trong triều đại giáo hoàng của mình là 250, không kể những cuộc tiếp kiến tại
Vatican với rất nhiều nhà lãnh đạo quốc gia, các chức sắc và những người khác
từ khắp nơi trên thế giới.) Tôi tin rằng đây là thông điệp đã giúp níu lại thế
hệ của tôi: Xin tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Trong
suốt Năm Thánh, tôi có cơ hội gặp Đức Giáo Hoàng nhiều lần. Có
một cuộc gặp gỡ chắc sẽ đọng mãi trong ký ức của tôi.
Đó là
vào một ngày mưa tháng 2, nhưng quảng trường thánh Phêrô vẫn chật ních người,
thời tiết chưa bao giờ là một điều có thể ngăn cản các khách hành hương đến gặp
Đức Giáo Hoàng. Chúng tôi ngồi với nhau trên những chiếc ghế nhựa
màu đen lạnh ngắt, cố gắng giữ ấm và giữ chỗ này để có thể chụp được một tấm
ảnh thật gần.
Ngay
phía trước nhóm mà tôi đang ngồi là một gia đình người Ý có năm thành viên.
Khi
Đức Giáo Hoàng bắt đầu chào đám đông, một người phụ nữ trong gia đình trạc tuổi
tôi bắt đầu khóc, và trước sự ngạc nhiên của tôi, bà ta lấy điện thoai di động
ra và bấm số thật nhanh. Khi giọng nói của Đức Thánh Cha vang lên trên đám đông ướt
sũng và run bần bật, bà ta nói trong điện thoại: “Mẹ ơi, tiếng nói của Đức Giáo
Hoàng đây nè”, và giơ chiếc điện thoại lên cao phía trên đầu mình.
Chúng tôi ngồi đó,
trong cơn mưa và khóc với bà ta.
Thật ra, giọng nói của
ngài đã rất ấn tượng, một giọng nói đã mang đến những thông điệp nhẹ nhàng và
tuyệt đẹp của tinh thần đại kết, tha thứ và cứu chuộc, một giọng nói đã chúc
phúc cho cuộc sống của tôi, và đức tin của tôi trong một cách thức can trường,
hòa nhã và kéo dài. Tôi sẽ luôn nhớ đến ngài.
Chuyển ngữ: Pr. Lê
Hoàng Nam, SJ