Hồi giáo hiểu về Allah như thế nào? - Hội luận Liên tôn về chữ "Thiên"
T4,
23/04/2014 - 22:48
Hồi giáo hiểu về Allah như thế nào?
Hồi giáo đâm rễ từ ý tưởng thần học xác tín rằng chỉ có một Thiên
Chúa duy nhất, tức Allah, nguồn mạch của mọi sự vật hiện hữu, sự vật hữu hình
cũng như vô hình, được biết hoặc không biết đến. Hồi giáo không phải là một tín
ngưỡng quy về với những cá nhân như ngôn sứ hoặc là con người của vị sứ giả (messenger)
cho dù phần lớn của truyền thống thần học, thần bí và siêu hình học đâm rễ sâu
vào trong cuộc đời của Ngôn sứ Muhammad. Trong Hồi giáo, Ngôn
sứ Muhammad (570-632) là trung gian thông chuyển (vehicle) qua đó, con người
nhận được sứ điệp về Thiên Chúa duy nhất Chân thật và Tuyệt đối.[2] Sứ điệp chứa đựng một mặt là giáo lý
và mặt khác là phương cách giúp cho những người tin theo (followers)
để họ am hiểu, thực hành, thực sự thấm nhuần (giáo lý) và cuối cùng trao phó
chính mình cho Allah. Các người tin theo ấy mang tên “Muslim” (hoặc Moslem/tín
đồ Hồi giáo) trong tiếng Ảrập, tức theo từ nguyên, là những người tin theo
Thiên Chúa duy nhất, và hoàn toàn phó mình cách an bình cho Thiên Chúa duy nhất
Tuyệt đối, từ tâm và xót thương. Trọng tâm điểm quy trọn về với Thiên Chúa và
với cuộc phấn đấu của con người để triển phát đến mức trưởng thành trong mối
liên hệ thân thương và đầy cảm thông với thần tính giữa toàn bộ cuộc hiện hữu
của chúng ta, mọi nơi mọi lúc.
Trong truyền thống Phật giáo, như John Makransky đã nêu rõ trong
bài viết của ông, một lãnh vực được đặc biệt lưu tâm đến trong việc thông hiểu
người khác, đó là lối sử dụng thích đáng thuật trình bày, biểu đạt, và là thuật
dùng phương cách thiện xảo (skillful means). Trong Kitô giáo, bản thể nhân-thần của Đức
Kitô và cuộc tự hiến của Người là trọng tâm chủ yếu của đức tin, là chân lý cơ
bản được biểu đạt trong ngôn từ loài người. Còn trong truyền thống Hồi giáo,
thì chính Allah – Thiên Chúa Duy nhất – là thực tại chủ yếu của tôn giáo và vì
mối kết liên sâu đậm Ngài có đối với các thụ tạo của Ngài, nên Ngài trao đổi
với loài người qua các ngôn sứ và/hoặc các sứ giả. Ngôn sứ
Muhammad bên Hồi giáo và Đức Kitô bên Kitô giáo thì khác nhau trong vai trò làm
“sứ giả,” nhưng cả hai đều cho thấy nhiều nét giống nhau. Điểm chủ chốt
trong Hồi giáo không nằm ở chỗ cho thấy Allah đã biểu lộ chính mình ra như thế
nào cho các thụ tạo của Ngài, mà đúng hơn là ở chỗ giúp cho nhận ra bản thể của
Thiên Chúa và yếu tính của Ngài hiện diện trong mọi sự vật, nhận thức được
trong cuộc sống, trong những sự vật biết được cũng như trong những gì không
biết được, nơi trần thế cũng như trong thế giới vượt ra khỏi
tầm nhận thức con người.[3]
Bài viết mong được có phần đóng góp của mình qua cố gắng nghiệm xét
những cách thức khác nhau qua đó các người Hồi giáo hiểu về tôn giáo của mình
và về chính mình như là những tín đồ sống và hành đạo Hồi giáo. Suy tư và nhận thức của một số nhà thần học Hồi giáo trong quá khứ
đã được khảo sát để nêu rõ những đặc nét nổi bật nhất làm nên bản chất của một
tín đồ Hồi giáo. Phần đầu bài viết nghiên cứu cách thức các điều mạc khải (=Qur'ân/kinh
Côran) nắm giữ uy quyền chính trong hết mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống đạo,
việc lãnh đạo, nhận thức, suy tư thần học, lý giải luật pháp, nghiên cứu triết
học và mọi hành động xử sự trong các lãnh vực xã hội, kinh tế và chính trị của
cuộc sống. Sau khi phân tích một các chủ đề chính về sứ điệp của Thiên Chúa
dành cho thụ tạo và về mối quan hệ giữa thụ tạo với Allah, cũng như về tầm
trọng yếu lớn lao của uy quyền sách thánh, thì tiếp theo, bài viết sẽ bàn về
ảnh hưởng sâu rộng mà cuộc đời của Ngôn sứ Muhammad có trên sắc diện đặc trưng
và ý thức về căn tính Hồi giáo của mình. Không chỉ đơn thuần là tài liệu ghi
lại các sự kiện lịch sử, cuộc đời của Ngôn sứ là mẫu gương để tín đồ Hồi giáo
noi theo bắt chước trong đời sống đức tin mỗi ngày.
Thiết nghĩ, chính trong bối cảnh ấy, ý thức về căn tính kia của mình là đối với
người Hồi giáo, nét nổi bật nhất, bởi lẽ, di sản gương mẫu Ngôn sứ để lại chủ
yếu là những cách thức khác nhau quy vào việc hướng lòng về với Thiên Chúa duy
nhất khi tôn kính Ngôn sứ. Đọc qua một số bài thơ tán tụng (panegyric)
thì sẽ thấy rõ lòng tha thiết khát khao của các nhà văn Hồi giáo muốn được hoàn
toàn thấm nhuần lời nói, hành động và phong thái của Ngôn sứ, trong từng chi
tiết.
Phần đầu của bài nghiên cứu vén mở cho thấy cách thức truyền thống
Hồi giáo phối kết chân lý với các thuộc tính cần thiết để sống với những gì
giúp cho ý thức được nhiều về căn tính của mình trong thế giới [to live by it
which provides a good deal of self-identity in the world???]. Phần hai bài viết sẽ thử tìm hiểu về cách thức kinh Côran và phong
thái Ngôn sứ đối xử với những “người khác,” tức với những người không-Hồi giáo.
Nếu chỉ đơn thuần coi kinh Côran như là một văn bản do thần linh mạc khải để từ
đó giải thích và thiết cấu niềm tin, thì sẽ rơi vào tình trạng không chú ý đến
những điểm phức tạp chất chứa trong nội dung, cũng như bỏ qua đi những trang sử
to lớn gắn liền với việc giải thích kinh Côran. Để đánh giá đầy đủ những khẳng
định thần học hoặc triếy học về “người khác” trong truyền thống, bài viết xin
được đề nghị qua phần viết này, là sự việc nhiều “niềm tin khác” có mặt trong
kinh Côran và trong cuộc đời của Ngôn sứ nói lên bổn phận về mặt tôn giáo, bổn
phận nhìn nhận thực trạng đa dạng đã thực sự đâm rễ sâu trong sách thánh. Là
điều phổ biến giữa các học giả Hồi giáo việc dùng các từ ngữ dễ dàng được chấp
nhận như: người theo độc thần giáo đối với người theo đa thần giáo, hoặc người
Hồi giáo đối với người không-Hồi giáo, hay là người có tín ngưỡng đối với người
vô tín; như thế để xác định những giá trị duy nhất đích xác. Tuy nhiên, xin lưu
ý là dù tất cả các phạm trù kia có mặt trong văn chương Hồi giáo – hiện đại
cũng như trong quá trình lịch sử – thì những cách chỉ về “người khác” như thế
cũng chỉ được dùng với chủ đích tranh luận, để chứng minh cho thấy truyền thống
của mình xác thực hơn hẳn của người khác, và phương cách đó không hỗ trợ được
cho công tác đối thoại liên tôn và cho việc cảm thông lẫn nhau giữa các phía
đối tác. Cuối cùng, bài viết sẽ đề nghị một số những cách
nhìn khác nhau có thể chọn để suy nghĩ về thực trạng đa dạng tôn giáo trong
truyền thống Hồi giáo.
KINH CÔRAN: MẠC KHẢI VỀ THẦN LINH
Sách thánh trong Hồi giáo là cuốn Côran hoặc – hiểu sát ngữ nghĩa –
bản “trần thuật” (recitation). Đó
là tất cả những gì Thiên Chúa mạc khải cho Ngôn sứ Muhammad qua thiên sứ
Gabrien trong các năm 610-632 tại bán đảo
Mạc khải thần linh không phải đã được trong hình dạng loài người,
nhưng là qua ngôn từ của loài người. Cách biểu hiện như
thế của thần linh qua âm thanh là để làm cho chú ý đến các cảm quan con người:
nghe, sờ, cảm và suy về Thiên Chúa. Mạc khải là để dẫn đưa những người tin theo
đến chỗ đón nhận ý Thiên Chúa mà sát gót bám theo sự hướng dẫn (của Ngài) trong
mọi hoàn cảnh cuộc sống. Kinh Côran là mạc khải cho nhân loại và có mục đích
hướng lòng con người về trở lại với Allah. Trong (chương) sȗrâ 2:185, kinh Côran tự giới thiệu mình là hướng “chỉ đạo cho nhân
loại” (“guidance
for humankind”/hudân li’l nâs). Việc thường
xuyên nhắc tới toàn bộ loài người, chứ không chỉ nói riêng về người Hồi giáo,
người Àrập, người Trung hoa hoặc là bộ lạc Quraishi mà thôi, và như thế là để
nhấn mạnh cho thấy Côran là sứ điệp trường cửu và phổ quát, chứ không dành
riêng cho một nhóm dân tộc, tôn giáo, bộ tộc hay dòng giống nào. Cho đúng hơn thì phải nói là Thiên Chúa ngỏ lời với toàn thể nhân
loại. Kinh Côran không phải là cuốn sách viết về Thiên Chúa và bản thể
của Ngài, nhưng là cuốn sách có mục đích nhắc nhở cho loài người nhớ về lòng
xót thương vô biên của Thiên Chúa, nhớ Ngài là Đấng Tạo hóa, Đấng nâng đỡ giữ
gìn vũ trụ và loài người, và đặc biệt là Ngài là Đấng đưa đường chỉ hướng cho
thụ tạo của Ngài.[4]
Sự hiện hữu của Thiên Chúa là điều hiển nhiên tự bản chất, xét theo mọi khía cạnh trong vũ trụ; tuy nhiên, những ai suy
nghĩ về thế giới thần linh, sẽ hiểu ra rằng Ngài mang lại ý nghĩa và sự sống
cho mọi vật. Kinh Côran, sȗrâ 50:33 ghi rằng: “Ai khiêm hạ
trước Đấng vô hình rất mực từ bi và mang nơi mình con tim
có khả năng sẵn sàng đáp trả khi được chân lý đánh động.” Đoạn kinh Côran ghi
tiếp: “đó là lời nhắc nhở cho ai có một con tim, hoặc
cho ai biết để tâm lắng nghe và làm chứng (khi Ngài hiện diện [trong tâm trí] – sȗrâ 50:37). Khám phá ra Thiên Chúa hiện diện trong
mọi sự vật là nhận thức được rằng không có việc chia sẻ bản thể giữa Đấng Tạo
hóa Căn nguyên và các thụ tạo. Điều đó cho co` nghĩa là con người và
những dạng loại khác trong công trình tạo dựng không bị bỏ mặc một mình trong
thế giới này; trái lại, các thụ tạo có bổn phận nhận biết Thiên Chúa không phải
là một thứ món giữa các món sự vật khác trong vũ trụ, hoặc chỉ là một hữu thể
giữa các hữu thể khác. Thiên Chúa ở với mọi sự; Ngài làm nên
tình trạng toàn vẹn của mọi sự. Mọi sự đều trực tiếp
liên hệ với Ngài, và như thế, mọi sự vật – qua và trong quan hệ với các sự vật
khác – cũng đều liên hệ với Thiên Chúa.[5] Tình trạng toàn vẹn ấy của tính liên
hệ hỗ tương (inter-connectedness)
đã được sȗrâ 59:19 đề cập đến như sau: “Đừng trở
thành giống như những người quên Thiên Chúa, bởi vì thế, Ngài đã làm làm cho họ
quên chính mình họ.” Cách thứ kinh Côran nhắc nhở tín đồ ý thức về sự hiện diện
của Thiên Chúa là giúp cho nhận ra ở trong mọi sự một “dấu” chỉ về hoạt động
của Thiên Chúa trong vũ trụ.[6]
Kinh Côran – theo tư thế là nội dung mạc
khải cho Ngôn sứ Muhammad và cho các tín đồ – đã tỏ ra cứng rắn trong việc làm
nổi bật quyền uy của Allah và dũng lực tối thượng của Ngài trong toàn bộ công
trình tạo dựng. Sȗrâ 27:61-64 nói về việc Ngài nâng đỡ và
cung cấp phương tiện sinh sống cho các thụ tạo, cách riêng là cho con người,
cũng như nói về việc Ngài lại làm ra những hình dạng mới cho các thụ tạo. Đoạn
viết ghi:
Và ngoài Ngài ra, ai đã làm cho trái đất trở thành nơi trú ngụ cho
các người, và đặt sông ngòi chảy ngang qua nó, và dựng núi đồi lên trong đó,
cũng như đã chận biển này cách biển nọ? Vậy, thử hỏi có một
thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa? Quả thế, phần lớn trong họ không
biết thế!
Và ngoài Ngài ra, ai đáp lời những kẻ lâm cảnh túng quẩn, và ai đã
làm cho các người (nhân loại) thành những quản lý thay Ngài trên quả đất? Vậy, thử hỏi có một thần linh nào khác ngoài
Thiên Chúa? – Các ngươi có để tâm suy nghĩ một tí không?
Và ngoài Ngài ra ai đưa dẫn các ngươi khi phải qua những vùng tăm
tối trên đất liền và giữa biển sâu? Và
ai gửi gió mang mưa từ ái của Ngài đến? Vậy, thử hỏi
có một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa? Ước chi Ngài được tán dương
trên tất cả những gì họ đồng hóa với Ngài!
Và ngoài Ngài ra, ai sinh các thụ tạo của Ngài ra, và rồi tiếp tục
tái tạo chúng? Và ai từ trời và
đất, cung cấp cho các người phương tiện sinh sống? Vậy,
thử hỏi có một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa? Ô, Muhammad, hãy
nói: Hãy đưa bằng chứng của các người ra để xem các người có lý hay không khi
đồng hóa người khác với Thiên Chúa.
Quyền năng, công cuộc tạo dựng và lòng từ ái của Ngài không những
tỏa rộng mà còn trọn vẹn thấm đậm sâu vào tận cốt lõi của mọi sự vật hiện hữu. Ví dụ: “Lòng từ ái của Ta ôm trọn tất cả” (sȗrâ 7:156) và “Ngài (Thiên Chúa) ở gần con
người hơn cả gân cổ của con người” (sȗrâ 50:16); các câu này cho thấy một Thiên Chúa trọn vẹn liên kết như
thành phần đích thực trong công trình tạo dựng và cũng là cội nguồn hiện hữu
của mọi tạo vật. Những dấu chỉ nhắc nhở muốn nói là: (1) ngoài Thiên Chúa ra,
mọi sự vật đều phụ thuộc vào Ngài; (2) toàn năng và vinh quang, Thiên Chúa là
tự bản chất, Thiên Chúa rất đỗi khoan dung; và (3) điều đó cho thấy mối quan hệ
của con người với Thiên Chúa, nơi đó, con người đã được tạo dựng nên để yêu mến
Ngài bằng cách hiến dâng Ngài trọn cả con người mình. Ba điểm căn bản kia vén mở cho thấy một ý niệm quan trọng này: Thiên Chúa là
chủ yếu, là trọng tâm trong mọi sự vật hiện hữu. Như thế,
kinh Côran đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ của loài người với các sự vật khác
để qua đó, chứng tỏ lòng sùng mộ của mình đối với Thiên Chúa duy nhất.[7]
* Trích bài viết "Hồi giáo hiều về Allah và nhìn về các tôn
giáo khác" của Qamar-Ul Huda [1]
Hợp tuyển Thần học, Số 48, Năm Thứ XXI (2011)
Trình bày: Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền
Giám Đốc Học viện Mục vụ
--------------------
Chú thích:
[1] Bài viết đăng trong tạp chí Theological Studies 64(2003)272-350. Tác giả Qamar-Ul Huda
là giáo sư phụ giảng môn Hồi giáo học và Thần học đối chiếu tại Boston College
(Học viện Boston), Mass. Hoa Kỳ. Tác giả đã lấy bằng tiến sĩ tại Đại học California,
Los Angeles, về môn Lịch sử Hồi giáo, và đã theo học tại các trung tâm truyền
thống đặc chuyên nghiên cứu về Hồi giáo, ở Ai cập, Xyri, Pakistan và Ấn độ. Lịch sử trí thức Hồi giáo là lãnh vực chuyên môn của tác giả, nhằm
vào các bản chuyên luận thần bí và các bản bình giải kinh Côran (Qur'ân).
Sau đây là một vài tác phẩm lớn của tác giả: Striving for Divine
[2] Có nhiều tác phẩm khảo cứu về Ngôn sứ
Muhammad, chẳng hạn: Annemarie Schimmel, And Muhammad is His Messenger:
The Veneration of the Prophet in Islamic Poetry (Chapel Hill: University of North
Carolina, 1985); Jeffrey Arthur, “The Quest for the Historical Muhammad,” Muslim World 16 (1926) 327-48; Muhammad Hamidullah, Le Prophète de l’Islam, 2 vols.
(Paris: Vrin, 1959); Martin Lings,Muhammad (London: Islamic Texts Society, 1983);
Ghulam Dastgir Rasheed, “The Development of na‘tia Poetry in Persian
Literature,” Islamic Culture 39(1965) 5,3-69; ‘Abd-al Rahmân
al-Sharqâwî, Muhammad rasȗl al-Hurriya (Cairo: 'Âlam al-Kutub, 1962); and Ali
Asani and Kamal Abdel Malek, Celebrating Muhammad:
Images of the Prophet in Popular Muslim Piety (Columbia: University of South
Carolina, 1995).
[3] Vể bản chất của Thiên Chúa theo Hồi
giáo, xin xem thêm: Seyyed Hossein Nasr,An Introduction to Islamic Cosmological Doctrine (Albany: SUNY, 1993) và Knowl edge and the Sacred (New York: Crossroad, 1981); Frithjof
Schuon, Understanding Islam (London: George Allen và Unwin, 1976); Islamic Theology and Philosophy, ed.
Michael Marmura (Albany: SUNY, 1984); và Henri Corbin, Spiritual Body and Celestial Earth (Princeton: Princeton
University, 1978).
[4] Kinh Côran cũng nhắc đến các truyển
thống có trước, như đọc thấy các tên: Giôna, Giuse, Nôe, Maria và Abraham. Xem
chẳng hạn: Three Messengers for
One God, bản dịch của Roger Arnaldez (Notre Dame: University of
Notre Dame, 1994); Louis Massignon, L’Islam dans le miroir
de l’Occident (Paris:
Mouton, 1962); Islamic Interpretations
of Christianity, ed. Lloyd Ridgeon (
[5] Fazlur Rahman, Major Themes of the Qur'ân (
[6] Từ “ayât” được dịch là “dấu” hay “dấu chỉ”
(“sign”), để chỉ về một câu nào đó trong kinh Côran. Vì những
mạc khải trao cho Ngôn sứ được coi là những “dấu chỉ” về sự hiện hữu của Thiên
Chúa. Về vấn đề này, xin xem Annemarie Schimmel,Deciphering the Signs of God: A
Phenomenological Approach to Islam (Albany: SUNY, 1994).
[7] Rahman, Major Themes of the Qur'ân 6.