YÊU NƯỚC
THEO ĐẠO LÝ MUÔN THỦA
Khi biển Đông sôi động do Trung Quốc có những
hành động “bá quyền”, có thể nói rằng, chưa bao giờ rộ lên sự bàn luận về tinh
thần yêu nước như hiện nay, kể từ ngày thống nhất đất nước. Thế nào là yêu nước
và yêu nước phải như thế nào? Đó là những câu hỏi luôn được đề cập đến không những
ở những cơ quan truyền thông, các trang mạng cá nhân và mạng xã hội (Facebook),
mà còn được “khẩu đàm” trong mọi thành phần quần chúng, thậm chí cả phụ nữ cũng
hứng thú tham gia.
Có lẽ đây là một giai đoạn lịch sử phức tạp
đang chuyển biến mà khó ai có thể dự đoán được cái hệ kết của một kịch bản.
Chuyện này nên để dành cho những nhà nghiên cứu chiến lược chính trị và quân sự
thẩm định, đưa ra nhận xét. Còn trong phạm vi bài này, đứng dưới góc độ của một
người dân bình thường, chúng ta thử xem xét, là công dân của một đất nước, mỗi
người cần ý thức và thể hiện như thế nào mới là yêu nước thực sự.
NHỮNG LỆC LẠC VÀ LỐI SỐNG
TIÊU CỰC VỀ YÊU NƯỚC
Có người nghĩ rằng đất nước dù có thăng
trầm như thế nào cũng chẳng có gì liên quan và chẳng phải là công việc của tôi,
mà là của những người lãnh đạo, nên tôi cứ việc “bình chân như vại”, cứ ung
dung sống theo sở thích, đừng ai đụng đến nồi cơm manh áo của tôi là được. Cũng
có người bàng quan cho rằng, hơi đâu “lo bò trắng răng”, có yêu nước cũng chẳng
làm được gì, thôi thì muốn đến đâu thì đến, hay dở, xấu tốt, còn hay mất đều là
số phận - ta lo cho ta là đủ. Không thiếu người cho tinh thần yêu nước là việc
của chính trị, phải hành động chính trị, nên tránh xa những việc này bao nhiêu
có thể, mới được yên thân, mới là khôn ngoan. Người theo đạo lại có thể còn nhầm
lẫn, cho rằng, tôi lo giữ đạo, còn việc đời để đời lo, tôi chỉ biết việc thiêng
liêng thôi chứ quan tâm đến việc xã hội, việc hưng thịnh của đất nước làm gì
cho rối rắm, lỗi đạo, còn hại vào thân. Thậm chí có người quá khích, hung hăng
hô hào đấu đá, kích động đủ điều, buông ra những lời hằn học, thù hận, giật
dây, và thích thú khi thấy xã hội lâm vào cảnh xáo trộn. Họ cho như vậy mới là
yêu nước.
Và còn có những ý niệm và lối sống tiêu
cực khác về tinh thần yêu nước, như thiếu trách nhiệm trong công việc, bè phái,
tham quyền cố vị, tranh giành, vinh thân phì gia, bớt xén, hối lộ và những tệ nạn
khác. Tất cả đều nghịch với tinh thần yêu nước, mang lại nhiều sự hỗn loạn cho
xã hội.
Ở đây không phải để tìm ra một định nghĩa
về yêu nước, nhưng để nhìn nhận lại cái bản chất của tinh thần yêu nước, là nó
mang tính thiêng liêng, nhưng rất cụ
thể. Đây không phải là một chủ nghĩa yêu nước, mà là một thứ tình cảm cao đẹp
đã được phú bẩm nơi con người như một tiếng nói trong lương tâm. Nó được nuôi
dưỡng và dẫn dắt hết sức tự nhiên, như ai cũng yêu gia đình, yêu quê hương, yêu
giống nòi, yêu thiên nhiên, yêu môi trường sống của mình, nơi đó đã hun đúc
hình thành một nhân cách, thể hiện qua tình cảm, nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người.
Bởi vậy nó trở thành một nghĩa vụ vô vị lợi, bất kể là ai, chứ không phải vì
quyền lợi hay do sự áp đặt nào cả như có người nhầm tưởng. Nếu lấy quyền lợi
làm nền tảng cho tinh thần yêu nước thì sẽ sinh ra nhiều mâu thuẫn dẫn đến
tranh chấp nhau, rồi so sánh và đo lường hơn kém, được thua, dựa trên quyền lợi.
Bởi vậy người xưa nói hoàn toàn hữu lý: “Quốc
gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Đạo lý thiêng liêng này do thói xấu của
con người làm cho nó lệch lạc hoặc bị biến chất, nguyên nhân chính vẫn là thiếu
giáo dục, từ bản thân đến gia đình và xã hội. Trách nhiệm này thuộc về ai ? Có
lẽ mỗi người cần phải “vắt tay lên trán” mà suy xét, từ nông dân, công nhân
viên chức, đến những người tham gia hoạt động xã hội khác, đặc biệt là những vị
có trách nhiệm lèo lái con thuyền quốc gia.
Tinh thần yêu
nước rất thiêng liêng, nằm trên những cảm tính của con người, vượt khỏi những cảm
xúc nhất thời mau qua. Chính vì vậy mới cần dựa vào những đạo lý nền tảng bất
biến để nhận ra cái bản chất thực sự của nó, để tích cực vun trồng cho cái tinh
thần này nơi mỗi người, đồng thời loại trừ những trở ngại, những lệch lạc, những
sai lầm, những lối sống nghịch với tinh thần yêu nước.
YÊU NƯỚC THEO TINH THẦN
NHÀ ĐẠO
Tinh thần yêu nước là một đạo lý tự
nhiên nên đạo học và các tôn giáo không nhất thiết phải trực tiếp định nghĩa
hay đưa ra một giáo điều nào để giáo dục như một hệ luân lý.
* Nho
giáo
Khổng giáo không còn hình thức phổ biến
hiện nay, nhưng trong tinh thần đạo lý, nó vẫn chan chảy một cách vô hình trong
dòng máu người Việt Nam qua ngôn ngữ, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục tập quán và
những chuẩn mực đạo đức văn hóa xã hội.
Khổng Tử nói về chính trị thì phải Chính
Danh, "Danh
bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành."(không
xứng đáng, mua chuộc, bè phái…), chủ trương lấy Đức mà trị dân, coi dân như con
đẻ, từ vua quan đến người dân phải lấy việc tu thân làm gốc: “Tự thiên tử dĩ
chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”. Còn muốn tham gia giúp đời thì
phải biết trau dồi mà đi từng bước một, từ nhỏ tới lớn, từ trong ra ngoài (Sách
Đại Học): “cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ” (nhìn thấu sự vật, biết tới nơi chốn, ý cho thành, tâm ngay
chính, sửa mình cho tốt, chỉnh đốn gia đạo, trị yên nước, làm cho nước được an
bình) . Cũng như Mạnh Tử nói: “ Gốc của thiên hạ là nước; gốc của nước là
nhà; gốc của nhà là cá nhân” (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại
gia, gia chi bản tại thân – nên phải tu thân).
Bởi vậy nếu những người có trách nhiệm trước xã
hội, trước lịch sử mà thấm nhuần tinh thần này, coi việc phục vụ đất nước là một
trách nhiệm thiêng liêng chứ không phải vì quyền lợi, thì hẳn là xã hội sẽ ổn định,
trật tự và phát triển, họ sẽ trở thành con người khiêm nhu, rất được tín nhiệm
và là người yêu nước lý tưởng.
* Phật
giáo
Phật gia không đề cập đến yêu nước,
nhưng còn hơn thế nữa, đưa mục tiêu “diệt khổ” làm chủ đạo, tu tập để loại khỏi
mọi Tham-Sân-Si là nguyên nhân của mọi đau khổ, lấy chúng sinh làm đối tượng để
hoằng pháp, cứu nhân độ thế, mang sự bình an và hạnh phúc đến cho mọi người.
Những tổ chức từ thiện, những thiện nguyện
viên đã có nhiều thành tựu đáng kể, tạo nên những hình ảnh đẹp trong xã hội, hướng
đến những những người nghèo khắp nơi. Còn gì đẹp hơn những thiện nguyện viên
thăm hỏi người bệnh, xe cơm, cháo từ thiện trong bệnh viện, ngoài đường phố.
Hình ảnh nào bằng những tấm gương của những thiện nguyện viên đến với những người
khốn khó tại vùng xa xôi khắp nơi… Tinh thần yêu nước, yêu đồng bào là thế. Còn như trong lịch sử, từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIV, đạo Phật phát triển mạnh mẽ, trở thành quốc giáo. Trong
dân gian đến quá nửa là sư sãi, các vua Lý đều là những người sùng đạo Phật, chính
vì thế đạo Phật ngày càng ăn sâu, bén rễ vào mọi mặt của đời sống xã hội, phạm
vi ảnh hưởng của nó ngày càng sâu rộng, trong đó có chính trị. Do ảnh hưởng của
đạo Phật, luật pháp triều Lý chứa đựng những nhân tố rất tiến bộ, trong đó nổi
bật là tinh thần nhân ái, khoan dung đối với nhân dân, bảo vệ,
chăm lo tới cuộc sống của dân. “Yêu dân như con” là đạo trị nước của triều
Lý. Việc “kinh bang tế thế” mà lấy Đạo (chứa đựng nhân bản) làm nền thì còn gì
bằng.
* Công
giáo
Còn
Thiên Chúa Giáo thì theo con đường của Đức Giêsu đã dạy, lấy yêu thương làm nền
tảng, không có một lằn ranh nào để phân biệt đẳng cấp, thành phần trong xã hội,
mà hướng tới mọi đối tượng để đưa tình yêu đến với mọi người, đặc biệt là người
cùng khổ, mang lại sự an lành và hạnh phúc đến cho con người. Khi Đức Giêsu còn
sống, Ngài tôn trọng cả quyền luật pháp của Rôma: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên
Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa" (Mt. 22, 21). Cũng như Đức Giêsu nói với Philatô: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.
Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn." (Ga 18, 11). Đó còn
là sự vâng phục của thánh Giuse khi vâng lệnh hoàng đế César Auguste: về Bêlem
để tiến hành kiểm tra dân số.
Còn
trong luân lý Kitô giáo dạy mọi tín hữu phải có trách nhiệm với bản thân, với
gia đình, với tha nhân và xã hội. Thể hiện bằng lối sống hoàn thiện bản thân,
chu toàn trách nhiệm gia đình, tôn trọng sự sống, bổn phận vun đắp Giáo hội trần
gian, gìn giữ và xây dựng xã hội con người, tuân thủ luật công bằng, tôn trọng
và tuân phục mọi quyền bính chính đáng, hợp pháp của trần thế. Người giữ đạo
Công Giáo chân chính rất nghiêm túc thi hành luật công bằng, họ tin rằng, nếu lỗi
luật, sẽ phải đền trả cả đời này và đời sau. Do đó, nếu được phép nắm vai trò
lãnh đạo, họ sẽ chu toàn trách nhiệm thật nghiêm minh. Ngay người giáo dân bình
thường, họ cũng ý thức rất rõ về vấn đề này đối với gia đình và xã hội. Nên chẳng
lạ gì nếu làm một cuộc điều tra xã hội, sẽ thấy rằng vấn đề tệ đoan xã hội, phá
thai, gia đình đổ vỡ, ly dị, người Công Giáo chiếm tỉ lệ thấp nhất, nhưng mặt bằng
về giáo dục lại cao nhất.
Theo
tinh thần đó, Đại hội HĐGMVN lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2001 – 2004), ra Thư Chung,
nêu lên tinh thần trách nhiệm của giáo hội đối với sự phát triển của đất nước: "Để yêu thương và phục vụ, trước
hết ta phải tiếp tục đường hướng đồng hành với dân tộc, đồng cảm, chia sẻ hy vọng
và thăng tiến con người. Ta không nhìn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội,
giáo dục như những kẻ đứng ngoài cuộc, nhưng nhận đó là những vấn đề của
ta và chủ động góp phần giải quyết, “hầu cho mọi người đựơc sống và sống dồi
dào” (M, 8). Còn gì hay hơn nữa. Từ đó, người Công giáo đã đóng góp rất nhiều
cho đất nước trên mọi lãnh vực, trong những công việc từ thiện, xóa đói giảm
nghèo, làm sạch nguồn nước, lớp học và nhà tình thương, quỹ tương trợ thiên
tai, mở mang giáo dục, bệnh viện, truyền thông… Tình yêu Chúa và yêu nước này
đã đã được hiện thực hóa bằng những hình ảnh cụ thể qua đời sống và việc làm thật
rõ nét.
YÊU NƯỚC THEO TINH THẦN NHÂN BẢN
Ai cũng biết đạo lý ở đời cần phải có: CẦN,
KIỆM, LIÊM, CHÍNH. Đây là đạo lý tổng quát, có từ ngàn xưa, được nhắc đến trong
nhiều học thuyết về luân lý xưa nay, được đề cập trong những sách về nhân bản
ngày nay, chứ không phải của một cá nhân nào. Đạo lý này là những đức tính nhân
bản, cần thiết cho bất cứ ai, đặc biệt cho những người tham gia hoạt động xã hội,
nhờ nó mà họ chu toàn được trách nhiệm theo chức năng của mình.
Đức tính CẦN là
cần mẫn hoặc chuyên cần, là người siêng năng, ham làm việc và làm kỹ lưỡng đến
nơi đến chốn. Nếu không có đức tính tính CẦN thì người làm việc sẽ tùy
tiện, bê bối trong mọi công việc, bớt xén thời giờ và việc làm. Người đó thích ở
không, ngại nhận việc, sợ khó nhọc, sợ trách nhiệm. Họ ơ hờ, trễ nải, lừng khừng,
không tha thiết công việc. Nếu làm thì làm cẩu thả, lấy có lấy rồi, bỏ dở công
việc. Ngược lại, người siêng năng thì ham thích làm việc, không ngại mệt nhọc để
chu toàn công việc đã được giao phó. Họ vui vẻ, mau mắn thi hành nhiệm vụ, thiết
tha với công tác. Khi thi hành thì làm việc cẩn thận, kỹ lưỡng, làm việc đến
nơi đến chốn. Người lãnh đạo mà có đức CẦN thì sẽ thi hành được như câu nói: phục
vụ công ích, phục vụ nhân dân.
Đức tính KIỆM là việc hạn chế đúng mức, chi tiêu đúng mức, không hoang phí, không xa
hoa trong việc sử dụng tiền của, sức khỏe và thời giờ. Người có đức tính KIỆM
thì không làm ít hưởng nhiều, tiêu xài quá độ, trái quy định. Họ biết dùng đồng
tiền cách phải lẽ, không bủn xỉn nhưng biết lo toan nhu cầu cần thiết. Biết
giữ gìn của chung về nhà cửa, đồ dùng, tiết kiệm vật liệu, tiết kiệm điện nước
cho cơ quan, công sở, như nhà trường, lớp học, sách vở thư viện… Họ biết giữ
gìn sức khỏe cho mình và người khác. Họ biết tiết kiệm thời giờ bằng cách làm
việc đúng giờ, “giờ nào việc ấy, việc nào giờ ấy”, không lãng phí thời giờ bằng cách câu giờ,
ham mê trò giải trí quên nhiệm vụ …. Họ luôn đúng hẹn, biết giữ chữ ‘Tín’, nghĩa
là khi hẹn ước với ai về thời gian và công việc nào, thì có nghĩa vụ thi hành
cho đúng hẹn. Họ không lãng phí sức lao
động vì kém óc tổ chức, sắp xếp vụng về…
Đức tính LIÊM
là sự thanh liêm, nghĩa là trong sạch, ngay thẳng, không tham lam, nói về cả
tinh thần lẫn thể chất. Người thanh liêm là ngưòi trong sạch, liêm khiết, không hối lộ của
dân, không ăn gian của công, trái lại, “tâm bất cầu lợi”, luôn tôn trọng
và gìn giữ của công và của người khác.Thanh liêm là một đức tính rất cần thiết
cho những người có trách nhiệm cầm đầu trong xã hội. Thanh liêm là một đức tính
cao quí, nó là vàng ròng để rèn luyện tâm hồn cho những vị thủ lãnh chân chính.
Không thanh liêm thì chỉ có hối lộ, lo lót, chạy chọt, đút nhét hoặc nhận tiền
của một cách kín đáo giữa kẻ có quyền và người cậy nhờ, cầu mong được che chở
hoặc ban ân huệ bất chính..., cũng như người có quyền thì ăn chận, ăn cắp
của công. Người thanh liêm còn còn phải trong sạch về tinh thần, nghĩa là sống
mẫu mực, không vướng mắc những thói hư tật xấu từ bản thân hoặc thói xấu của xã
hội, như chạy đua theo những thói ăn chơi, những phong trào phù phiếm thời thượng…,
nhờ đó khi làm việc sẽ được người khác tín nhiệm, tin tưởng.
CHÍNH là chính trực, là công bằng, tuân
phục. Chính trực là không tư vị, không để cảm tính lấn áp, không hứa hẹn điều
gì mà mình không làm được, biết thành thật nhận lỗi lầm của mình và không tìm
tìm cách đổ lỗi cho người khác. Người
chính trực là người không tự dối lòng mình, không dối gạt người khác. Nói
chung, chính trực là sự nghiêm túc, không thiên vị, tín trung, thành
thật. Đức chính trực là đức tính
cần thiết của người lãnh đạo để quản trị và chỉ đạo mới được nghiêm minh. Người
không chính trực thì luôn giả hình (nói một đàng làm một nẻo), dối trá, lừa đảo,
mưu mô, xảo quyệt, gian dối, nịnh bợ, hống hách... Loại này rất nguy hại cho xã
hội, nếu để họ giữ chức vụ quan trong. Chính trực thì luôn giữ luật công
bằng giao hoán đối với từng phần tử của xã hội, trả cho người khác những gì kẻ ấy
có quyền đòi hỏi; công bằng pháp lý đối với chính cộng đồng xã hội, khiến mọi
cá nhân hoạt động theo những đòi hỏi của lợi ích chung; công bằng phân phối của
xã hội đối với mỗi phần tử của cộng đồng, thúc đẩy xã hội phân chia nhiệm vụ cũng
như quyền lợi giữa những phần tử của cộng đồng một cách chính đáng. Người không
chính trực thì luôn có tư tưởng bất chính, tham ô, lãng phí, lạm dụng của công, luôn bớt xén, thu giữ của người trái
phép. Người chính trực còn phải luôn biết tôn trọng những giá trị truyền thống
xã hội, tuân thủ luật pháp, lề luật xã hội cũng như những quy định chính đáng của
các tổ chức tôn giáo và xã hội.
KẾT
Một học thuyết hay thể chế chính trị mà không
nhắm đến mưu cầu hạnh phúc cho con người thì kể như nó không có giá trị gì cả.
Đó là lý thuyết cơ bản nhất cho mọi nguyên tắc tổ chức và hoạt động xã hội con
người. Điều này để dành cho những nhà nghiên cứu về các học thuyết bình luận. Ở
đây chỉ đúc kết về mặt thực tiễn, là yếu tố con người, trong tinh thần yêu nước,
để giúp ích, góp phần vào việc xây dựng, ổn định, bảo vệ và phát triển đất nước,
trong trách nhiệm của mỗi công dân.
Người thích giữ
những truyền thống trong văn hóa xã hội, qua phong tục tâp quán của cha ông để
lại, động nhà động thổ đều cúng vái, đủ thứ thần trong nhà, nhưng khi ra lãnh
trách nhiệm với xã hội chỉ biết đến quyền lợi bản thân, bon chen để “vinh thân
phì gia”, lo lót chiếm địa vị không xứng đáng, luôn củng cố và loại trừ kẻ
khác, sợ người khác hơn mình, bất cần nhân tài, thất tình (hỉ nộ, ái, ố, ai, cụ,
dục) thì có đủ. Người này chắc hẳn chẳng phải là người yêu nước.
Một
phật tử thường ăn chay tại các cửa hàng nổi tiếng, nhưng chỉ biết đến bản thân
mình, Sân-Hận nổi lên như sóng triều, “lục tặc” dẫn dắt trong đời sống, ham hưởng
thụ. Khi làm việc xã hội thì vơ vét, kèn cựa không nhường nhịn ai, coi thường kẻ
kém thế…Người này làm sao có tinh thần đạo và yêu nước được.
Một
tín hữu công giáo lo giữ đạo theo luật, nói rằng yêu Chúa hết mình, nhưng đời sống
đầy tham lam ích kỷ, đố kỵ ghét ghen, khép lòng lại với tha nhân, nuôi hận thù,
thiếu trách nhiệm trong bổn phận… Khi tham gia công việc xã hội thì sua nịnh,
đua đòi, bè phái… Người này chẳng ai tin được họ yêu Chúa cũng như yêu nước thực
sự.
Người
chẳng tin hoặc chẳng theo tôn giáo nào cả, nhưng đạo Nhân Bản họ bất cần, làm
việc thì chỉ nhắm đến chức danh, quyền lợi, sống vương giả, tài sản kếch sù nhờ
của cải bất chính, tổ chức những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng để chiêu
đãi, mánh khóe thủ đoạn trong chức vụ và công việc, đạo đức giả với mọi người,
nịnh trên nạt dưới, không biết đến người nghèo khổ, thất nghiệp…. Người này nói
họ yêu nước thì ai tin được.
Một câu nói rất
thiết thực mà ai cũng nhận ra, đó là: “ Bạn
có thể lường gạt mọi người trong
một thời gian và lường gạt vài người luôn mãi, song bạn không thể gạt luôn mãi
hết mọi người” (A.Lincoln). Điều này quá hiển nhiên giữa thực tế
hiện nay, trước xã hội, đối với mọi người.
Mạnh tử đã đề ra một nguyên tắc cho những người tham gia hoạt động xã hội,
chính trị : “Phú quý bất năng dâm; Bần tiện
bất năng di; Uy vũ bất năng khuất”.
Phải chăng
tinh thần yêu nước hôm nay đang bị biến chất ? Chỉ còn hiện tượng yêu nước cưỡng
bức, yêu nước ảo ?
Phải chăng
danh lợi phù phiếm đã bịt tai bịt mắt trước đạo lý và tiếng nói thiêng liêng xuất
phát từ lương tâm con người ?
Hàn Cư Sĩ