PHỤNG VỤ …KHÔ
Tôn giáo là mối liên hệ
tương quan giữa con người với thần linh. Phải là cả hai vế chứ không thể chỉ có
một. Thiếu yếu tố thần linh, không phải là tôn giáo.
Con người là … ‘con vật
có tôn giáo’ nên trổi vượt hơn các tạo vật khác. Con người có cảm nghiệm thần
thiêng và ý thức tôn giáo đã là bản chất. Do đó không thể có ai là ‘vô thần’ cả,
dù rằng ai đó có biện chứng tới mức nào về quan điểm vô thần của mình.
Sự tương giao gặp gỡ giữa
con người và giới thần linh thường diễn ra trong các lễ tế. Nội dung hay mục đích
của buổi lễ thường là để cầu khẩn, xin xỏ một điều gì đó mà sức người không làm
được. Tuỳ vào sắc thái của mỗi tôn giáo và cách thức hành lễ có khác nhau. Các
tín đồ của mỗi giáo phái cứ việc sáng kiến ra những nghi thức, những quy định và
muôn vẻ sắc màu làm cho buổi lễ càng huyền bí linh thiêng bao nhiêu thì trang
trọng bấy nhiêu. Thiện nam tín nữ cứ việc lâm râm khấn vái cầu an cầu siêu và
…rộng tay ‘cúng dường’ bằng vàng bạc hay mấy đồng tiền lẻ ‘hối lộ’ các vị thần
thiêng hộ phù cho công việc làm ăn xuôi chảy hay được may lành trong cuộc sống…
Các lễ tế trong Kitô giáo
gọi là Phụng Vụ. Đó là buổi cầu nguyện để tương quan giữa Thiên Chúa và con người
được gần gũi hơn, hài hoà hơn trong tình cha con chứ không nặng tính cúng vái xụp
lạy. Dù rằng ngay từ tâm thức, người Kitô hữu vẫn muốn dành cho Thiên Chúa mình
tôn thờ sự sùng bái cao nhất, thánh thiêng nhất nhưng thái độ đó lại biểu hiện
trong tình yêu mến chứ không chỉ là sự kinh hãi khiếp đảm. Thánh Thần Thiên Chúa
là nguồn thúc đẩy những tâm tình cầu nguyện, tôn thờ trong mỗi tâm hồn, mà Thánh
Thần là niềm hoan lạc nên buổi lễ tế phụng vụ cũng mang sắc thái hân hoan, ca tụng,
ngợi khen, cảm mến, hiến dâng và cuối cùng là cầu xin những điều ‘Thánh Thần chỉ
bảo’ .
Phụng vụ Thánh lễ là một
cử hành lễ tế vui mừng, ở đỉnh điểm là ơn cứu độ trong niềm vui phục sinh. Có
những nghi lễ mang bầu khí u buồn của mùa chay, tâm tình sám hối của mùa vọng…nhưng
mọi quy hướng của các mùa đều quy hướng về mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô và
sau đó sẽ là niềm vui cứu độ mà mỗi người sẽ đón nhận trong Đức Kitô.
Phụng vụ trong giáo hội
còn mang ý nghĩa ‘quy tụ’ (assemble) mọi thành phần Kitô hữu trong sự hiệp nhất
anh em một nhà, con cùng một Cha. Nơi đó còn là cuộc gặp gỡ hiệp thông, thân tình
và yêu thương của một cộng đoàn. Thật đẹp tươi và đáng quý biết bao khi đọc lại
những chứng từ đoàn kết yêu thương của giáo hội thuở sơ khai.
Các buổi phụng vụ công
khai vẫn quy tụ thường xuyên công đoàn cầu nguyện, nhưng bầu khí dần lạnh lẽo
phần vì cộng đoàn tham dự như thói quen nhàm chán, tâm tình không sâu lắng mà
chỉ dựa vào những lời kinh soạn sẵn để ‘cái loa’ cứ việc phát thanh mà không phải
là chính lời kinh đáy lòng.
Bầu Khí Phụng Vụ
Tôi nhớ ngay tới lời
kinh thánh “dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”; hay
“không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước Trời, mà là những kẻ biết
thực thi ý Cha trên trời…”
Thật vậy, nếu đời sống
cầu nguyện không có lửa từ bên trong, thì những rộn ràng hình thức bề ngoài sẽ
như một vở kịch diễn tồi và không mang lại dư âm thánh thiện. Tuy vậy, không phải
những hình thức bên ngoài không tác động tới tâm tình cầu nguyện. Ví dụ khi vào
thánh đường dâng lễ, cung thánh ngổn ngang những ‘phụ kiện’ của một buổi rước
kiệu, hoặc bài trí thiếu sự hài hoà thẩm mỹ, chắc hẳn người tham dự sẽ mất ít
phút chép miệng thở dài. Từ trên cung thánh nhìn xuống, cộng đoàn phụng vụ ngồi
rải rác, thụt thò chỉ mấy hàng ghế cuối cùng, những hàng ghế trống trơn giữa lòng
nhà thờ chắc để làm cảnh thôi, hẳn bầu khí phụng vụ sẽ tẻ nhạt. Xa xa ngoài sân
nhà thờ, vài chàng thanh niên đang ngồi bó gối phì phèo điếu thuốc hút dở, miệng
tán nhão vài chuyện mới xảy ra đâu đó. Hình như lúc này lời Chúa được hiểu rõ ràng
nhất chăng : ‘anh đứng xa xa, không dám ngước mặt lên…’ hay ‘…không tìm chỗ nhất
trong hội đường…’! Từ trong góc nhà thờ, một lời kinh vang lên ở cung Do, mấy góc
khác đáp lại với cung Sol, nghe như một buổi hoà tấu vụng về lạc điệu mà mấy chú
ếch ồm oang trong chiều mưa quê cũ.
Bước vào giờ phụng vụ,
chuông báo giờ lễ bắt đầu thì ca đoàn hát bài nhập lễ nhưng chủ tế chưa tiến vào
nên kẻ đứng người ngồi nhốn nháo một lúc. Bữa nào quên chuẩn bị trước, những tiếng
hú tiếng lẹt xẹt từ mấy cái loa nhắng lên giật cả mình, có khi cần phải sử dụng
cái mi cờ rô thì nó cứ êm re để lại có những động tác cọc cọc phù phù thấy thương
luôn! Khai lời, chủ tế mà còn ngái ngủ với cái giọng trầm buồn thì y như cử toạ
có tai mà thành điếc. Với những lời kinh quen thuộc, những bài ca cộng đoàn được
cất lên nhưng thiếu sự ‘dìu dắt’ sao đó nên mỗi câu cứ rời rạc, lạc luôn cả ý
nghĩa. Sau phần ‘Chúa nói với ta’, tới phần ‘ta thưa với Chúa’, đây là lúc cả cộng
đoàn cùng vang tiếng ca tụng ngợi khen thì ca đoàn đóng vai chủ động. Vẫn viết đó
là những bài đáp ca hợp với ngày phụng vụ, nhưng lại xa lạ với cộng đoàn khiến
chư vị tham dự phụng vụ lại cũng chỉ là cử toạ ngồi thưởng thức, rung đùi nghe
nhạc…chứ biết gì đâu mà đáp trả! Trong phần giảng thuyết, nếu vị diễn gỉải có
chuẩn bị kỹ lưỡng thì phần chia sẻ còn phát huy tác dụng, nhưng nếu vị ấy lại
rao giảng ‘tin mình’ hơn tin mừng thì quả thật cộng đoàn sẽ được nghe một bản báo
cáo nổi danh là dai - dài - dở. Đi tham dự phụng vụ mà mình cứ có cảm giác của
người đi xem diễn tuồng, mình không được diễn vai chính cũng chẳng vai phụ, thỉnh
thoảng mới được vào vai…công chúng!
Phụng vụ là việc thi hành
chức vụ tư tế của Đức Kitô trong việc thánh hoá nhân loại qua những dấu chỉ công
khai, đồng thời cũng là việc nhân loại tôn thờ Thiên Chúa trong vai trò là nhiệm
thể Chúa Kitô. Phụng vụ có tác động đi lên bởi tâm tình thờ kính và cầu nguyện
của cộng đoàn và có tác động đi xuống của ân sủng cho các chi thể trong nhiệm
thể giáo hội. Bởi sự cao trọng ngay từ ý nghĩa của phụng vụ như thế, nếu người
tín hữu tham dự phụng vụ các hời hợt lấy lệ, hay kém hiểu biết về những điều mình
đang thực hiện trong tôn giáo, chẳng hoá ra đã biến phụng vụ thành một bổn phận
khô khan, cưỡng ép và nhàm chán sao?
Niềm vui Phụng Vụ
Tôi nhớ có một lần khi
dâng lễ cùng một cộng đoàn dân tộc thiểu số ở nước kia, khi Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II vừa xướng ‘kinh Lạy Cha…’ sau kinh nguyện Thánh Thể trong thánh lễ thì
lập tức cả cộng đoàn nhảy múa và la hét…y như những phong tục của địa phương.
Niềm vui dâng trào và cách biểu lộ của họ là những gì quen thuộc nhất. Cảm nghiệm
niềm vui của cộng đoàn, Đức Giáo hoàng cũng ngừng luôn những phần còn lại của
thánh lễ và cũng hoà mình nhảy múa với họ cho đến khi cuộc nhảy múa kết thúc mới
tiếp tục phần hiệp lễ.
Khi có dịp tham dự phụng
vụ cùng một số cộng đoàn ở nước ngoài, bạn sẽ gặp lại những hình ảnh thật cổ xưa
nhưng tuyệt đẹp là vị chủ tế hân hoan đứng chào từng thành phần trong cộng đoàn
tới tham dự phụng vụ. Ngay cả khi ra về, các linh mục, giám mục…cũng ra tận cuối
nhà thờ để tiễn chào cách thân tình nhưng anh chị em vừa ‘cùng hiệp thông trong
một bánh và một chén’. Đó chỉ là hình thức, nhưng nó diễn tả sâu sắc tình thân
thiện, yêu thương của cộng đoàn. Cử chỉ này ở Việt Nam hơi hiếm, mặc dù nó cũng
có tính lịch sử phụng vụ trong giáo hội.
Khi có dịp dâng lễ cùng
các xứ đạo vùng quê sông nước miền tây nước Việt, ta thấy cách tham dự của các
cộng đoàn này có vẻ ấm cúng và trang trọng hơn ở thành phố. Đặc biệt, ở nhà thờ
nào cũng thấy những người tham dự ổn định chỗ ngồi thật tự nguyện. Cứ từ những
hàng ghế trên cùng đủ người mới xuống hàng ghế sau. Và cứ thế những hàng ghế
trong nhà thờ không có chỗ trống. Không có ghế nào là để dành riêng cả. Nếu như
có vị bộ trưởng nào đó tới dự thánh lễ này, thì cũng có một chỗ ngồi ‘xêm xêm’
với anh chàng lái đò vừa chở khách qua sông thôi. Trong nhà Chúa thì mọi người
là bình đẳng mà! Phần khác nữa là các nghi thức đi lên xuống rất trang trọng của
những người đọc sách; cách tham dự tích cực của cộng đoàn: Họ cùng đọc đoạn Tin
Mừng của ngày hôm đó, nắm tay nhau hay giang tay khi đọc kinh Lạy Cha, cùng hát
râm ran những bản thánh ca được in ấn hay trong sách hát đã để sẵn nơi đầu ghế…
Trong những tâm tình
chia sẻ này, tôi không dám lân la tới những chiều kích thần học của khoa phụng
vụ với chiều dài lịch sử hay chiều sâu của những giáo huấn, mặc dù biết rằng điều
đó rất cần thiết và thời sự cho hiện tại. Chuyện đó dành phần cho những vị hữu
trách hay các nhà thần học cống hiến thêm. Tôi chỉ mong gợi được chút ý thức vốn
đã có của cộng đoàn để mỗi người tìm thấy niềm vui và yêu thích tham dự phụng vụ
cách hữu hiệu.
Từ chính tâm hồn, khi tới
tham dự phụng vụ phải có lửa, lửa mến từ trong lòng. Không thể yêu nếu không biết. Các lớp giáo lý
bao đồng, giáo lý hôn nhân cần đặt trọng tâm vào việc hiểu biết cách sống đạo
chân thành, trước khi đi vào những ‘chuyên khoa’ bí tích, giới tính. Khi lòng đạo
đã có có lửa, thì những tác động khác cũng được hăng hái học hiểu và trang bị
cho lòng đạo những kiến thức tôn giáo rộng rãi, thiết thực hơn. Đa số các nhà
thờ thường tổ chức giờ phụng vụ cách rời rạc đệm sau giờ kinh mân côi với vài cụ
già rầm rì theo thói quen. Giờ phụng vụ quý báu này được coi như để ‘giết thời
gian’ chờ tới giờ thánh lễ. Đám thanh thiếu niên thì hình như không thích kinh
kệ nên cứ khi ‘cha ra thì tao vào, cha vào tao ra’ thôi. Chính sự kém thông hiểu
về phụng vụ nên thái độ thụ động trong phụng vụ thật đáng ngại. Nó sẽ kéo theo
cái kiểu sống đạo hình thức chiếu lệ, không đi lễ thì lỗi luật hay…bị cha mẹ mắng,
mà đi thì có cũng như không, không đem lại hiệu quả của buổi cầu nguyện chung.
Nhiều nơi đã tìm cách hấp dẫn giới trẻ tới nhà thờ bằng ca nhạc. Ca đoàn được tổ
chức luyện tập chu đáo và dàn nhạc cũng có dịp thi thố tài năng với những giòng
nhạc thời đại. Tuy nhiên cả phương tiện lẫn mục đích đều mới chỉ dừng lại ở chỗ
co cụm chứ chưa dẫn đến tính tập thể. Bởi vì giờ phụng vụ là buổi cầu nguyện của
cả cộng đoàn, nên cần làm sao cho mọi người tham dự cùng được góp phần mình
trong bầu khí thánh thiêng ấy. Nên chăng, mỗi giáo xứ cần có một tiểu ban phụng
vụ để tổ chức giờ phụng vụ thật linh hoạt, vui tươi. Từ việc tạo bầu khí phụng
vụ, chuẩn bị các ca khúc dùng trong giờ lễ, những tâm tình gợi ý…sao cho mọi người
cùng thực hiện. Tiểu ban này có nhiệm vụ dẫn dắt các chi tiết và nghi lễ cho liền
lạc, vừa trang trọng vừa nghệ thuật mà không trống rỗng. Họ cũng phát huy những
nghệ thuật thánh trong lãnh vực tế tự phương Đông nếu trong phụng vụ có dùng
nghi lễ phương Đông (chiêng trống, thắp nhang), những nghi thức riêng của giáo
hội nếu có những nghi lễ kinh điển (bái quỳ, xông hương). Thú thật là đôi khi tôi
phải giật mình vì những áp dụng nghi lễ phương đông ở một số nhà thờ, nó phản
nghệ thuật Á Đông quá!
Đa số các xứ đạo ở Việt
Nam, mọi việc ‘nhà thờ nhà thánh’ đều dựa vào các linh mục quản xứ. Các cha xứ
phải lãnh nhiệm vụ trọng đại hơn và cũng ‘ôm đồm’ nhiều hơn, mà hình như các
cha xứ cũng thích như vậy. Chính vì ôm rơm rặm bụng nên cha xứ không quán xuyến
đủ tới nhiều lãnh vực, cho nên hội đoàn nào cũng có, ban bệ cũng cũng nhiều, nhưng
chẳng đoàn nào ra hội nào. Hoặc nói cách khác là cứ để cho hội đoàn ấy sống lay
lất được ngày nào hay ngày ấy! Ngay cả trong việc phụng vụ cũng vậy, cha xứ nào
năng động và có tài tổ chức thì bầu khí và sinh hoạt phụng vụ có ‘sinh khí’ hơn,
còn nếu cha xứ chỉ biết làm lễ thôi thì hẳn sự nhàm chán khô khan trong phụng vụ
là chuyện thường tình!
Trong một cộng đoàn giáo
xứ, giáo dân không nên đổ dồn mọi trách nhiệm to nhỏ cho cha xứ. Việc xây dựng
và thăng tiến giáo xứ là nghĩa vụ của mọi thành viên trong cộng đoàn. Tuy nhiên,
do quan điểm chung là mọi sự đều phải có ý cha, nên các cha xứ cần nắm bắt ý tưởng
này và thổi thêm lửa vào lòng hăng say của cộng đoàn. Những ý tưởng đạo đức, những
sáng kiến thiết thực cho niềm tin và lòng đạo của giáo dân, cha hãy gợi lên và
thúc đẩy các đơn vị, cá nhân trong cộng đoàn hưởng ứng. Và tôi thiết nghĩ, các
cha cần giáo dục phụng vụ cho các giới trong xứ đạo mình, để đời sống cầu nguyện
được thăng hoa và thấm sâu vào đời sống thường nhật hơn. Hãy giúp người tín hữu
yêu thích các giờ phụng vụ và đến nhà thờ với tâm tình nhiệt thành cảm tạ. Hãy
giúp họ biết chuẩn bị thánh lễ bằng những của lễ mà họ gom góp mỗi ngày qua những
khó khăn, khổ nhọc của lao động cần cù, qua những đau thương trong tâm hồn hay
những niềm vui trong cuộc sống. Của lễ mà mỗi người mang tới thánh đường sẽ hoà
với hy tế Đức Kitô trong thánh lễ, để câu ‘…để lễ vật của chúng ta được Thiên
Chúa là Cha toàn năng chấp nhận’ …mới có ý nghĩa.
Người Kitô hữu là người
‘người có Chúa’. Đời sống cầu nguyện là hơi thở của tâm hồn, cũng như phụng vụ
là sinh khí của giáo hội. Người mang hình ảnh Chúa Kitô sẽ không chỉ giữ đạo nơi
nhà thờ mà còn sống đạo trong mọi hoàn cảnh của đời thường. Lời cầu nguyện âm
thầm sẽ khởi đầu cho mỗi công việc, lan tràn trong mọi ước mơ, thấm sâu vào từng
ý hướng, để mọi lúc mọi nơi, Giêsu được đồng hành với chúng ta và cùng chia sẻ
cuộc sống mỗi người. Niềm vui có Chúa sẽ làm nhẹ vơi những lo toan, xoa dịu những
đoạn trường và đem lại niềm hy vọng, niềm hạnh phúc cho đời người. Cũng thế, đời
sống phụng vụ sẽ nâng cao phẩm giá con người và kéo trời về gần với đất hơn, để
tình Cha – Con sẽ ngập tràn trong hân hoan, và thế giới này được thanh bình chứa
chan trong tình Chúa tình Người.
mùa chay 2010
jtrinhan