Tuần Thánh: Xét mình qua những nhân vật trong cuộc Khổ nạn của
Chúa Giêsu
WHĐ (28.03.2010) – Hôm
nay, Chúa nhật Lễ Lá, toàn thể Giáo Hội bước vào Tuần Thánh, tưởng niệm những
ngày cuối cùng trên trần thế và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
Trong Tuần Thánh, dân Chúa
sẽ có hai dịp nghe đọc trình thuật về Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, tức bài
Thương khó: một vào lễ Lá, một trong Phụng vụ Tưởng niệm Cuộc Thương khó của
Chúa Giêsu vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh.
Nhân Tuần Thánh năm nay,
Đức ông William Shomali, chưởng ấn Toà Thượng phụ Latinh và nguyên giám đốc
Chủng viện của Toà Thượng phụ Giêrusalem, đã viết bài suy niệm về Cuộc khổ nạn
của Chúa Giêsu. Bài viết đăng trên website của Tòa Thượng phụ.
Bản dịch của WHĐ có thay
đổi nhan đề và một số tiểu đề.
* * *
Hằng năm chúng ta đều cử
hành cuộc tưởng niệm tuần lễ cuối cùng sống trên trần thế của Chúa Giêsu và suy
niệm về ý nghĩa của sự đau khổ và cái chết của Người.
Một trong nhiều cách tiếp
cận mầu nhiệm Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu là hướng vào các nhân vật chính:
Phêrô, Philatô, Giuđa, Caipha… Qua các nhân vật này, chúng ta thấy chính bản
thân mình, nhìn ra vai trò của mình trong Cuộc Khổ nạn của Chúa. Họ như tấm
gương phản ánh cái tôi nội tâm của chúng ta với tất cả sự diệu kỳ cũng như vẻ
mặt đáng ghê sợ của nó.
Tôi muốn tập trung vào ba
nhân vật lịch sử gây phản cảm nhất, trực tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của
Chúa Giêsu.
Tôi xin nêu ba câu hỏi:
– Tại sao Chúa
lại phải chịu mọi đau khổ cay đắng như vậy?
– Ai chịu trách
nhiệm cuối cùng về cái chết của Chúa Giêsu?
– Khi chứng kiến
cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, tôi đã phản ứng như thế nào?
Philatô, con người hèn
nhát và sợ mất ghế
Philatô là nhân vật lẽ ra
có thể gây được thiện cảm.
Thoạt đầu, ông ta tỏ ra là
người có tinh thần trách nhiệm cao. Ông biết Chúa Giêsu vô tội và cố gắng cứu
Người. Lúc phải đương đầu với những kẻ thù ghét Chúa Giêsu, tâm trí ông bỗng
lóe ra cách cứu Người. Ông chọn Barabbas, một tù nhân đại hình đang bị giam
trong ngục dưới quyền ông, rồi đem đến trước mặt các đối thủ và hỏi họ: Nhân lễ
Vượt qua, các ông muốn tôi tha người nào? Philatô quá đỗi kinh ngạc và thất
vọng ê chề khi thấy họ chọn tha Barabbas. Đến đây, Philatô đã hành động theo lý
trí và sự ngay thẳng. Nhưng khi dân chúng dọa sẽ tố giác đến César nếu ông
phóng thích người được gọi là vua dân Do Thái, ông đã lùi bước và ra lệnh đánh
đòn Chúa Giêsu rồi đem đi đóng đinh. Ông đã đặt lợi ích cá nhân lên trên nghĩa
vụ làm đại diện tối cao của nền công lý đế quốc Rôma. Tội của Philatô là hèn
nhát và ích kỷ: tại sao cuộc đấu đá nội bộ của người Do Thái lại có thể làm cho
ông suy sụp, thay đổi lập trường, dù biết rõ nạn nhân là người vô tội?
Tôi nhớ lại một chuyện có
thật, xảy ra vào thời vua Baudouin của vương quốc Bỉ (1951-1993). Năm 1990,
Quốc hội Bỉ chấp thuận dự luật cho phép phá thai. Theo Hiến pháp, luật chỉ có
hiệu lực khi được quốc vương tán thành. Như vậy nhà vua chịu một sức ép lớn
phải ký thông qua đạo luật này. Ngài đã viết cho Thủ tướng: “Dự luật này đặt
tôi đứng trước một vấn đề lớn thuộc lương tâm. Nếu ký, đương nhiên tôi cũng có
phần trách nhiệm đối với đạo luật. Nhưng tôi không thể làm điều đó được”. Một
đằng, đạo luật không thể có hiệu lực nếu chưa được nhà vua tán thành – trong
khi nhà vua không hề ủng hộ đạo luật. Đằng khác, quốc vương lại không có thẩm
quyền pháp lý chống lại một đạo luật đã được các dân biểu thông qua. Làm sao
vượt qua bế tắc này? Người ta đã nghĩ ra một cách giải quyết rất đúng luật.
Ngày 3-04-1990, theo đề nghị của chính quốc vương, chính phủ tuyên bố nhà vua
không còn đủ khả năng trị vì. Cụ thể là, nhà vua đã ngưng trị vì vương quốc.
Hôm sau đạo luật được ban hành. Ngay sau đó, vua phục chức. Mặc cho mọi việc
vừa xảy ra, quốc vương vẫn được dân chúng yêu mến và trân trọng các nguyên tắc
đạo đức của ngài.
Khi xảy ra xung đột giữa
lương tâm và lợi ích riêng, mọi nhà lãnh đạo phải có can đảm theo đuổi những
nguyên tắc đạo đức, dù phải chịu đau khổ.
Caipha, con người đầy
thủ đoạn chính trị, chủ trương lấy mục đích biện minh cho phương tiện
Caipha là người chịu trách
nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu, người đã từng bị ông tìm cách bêu xấu và loại
trừ. Ganh tị trước những thành công của Chúa Giêsu về những điều Người giảng
dạy và những phép lạ Người làm, Caipha và thuộc hạ đã nhiều lần giăng bẫy cố ý
hãm hại Chúa Giêsu. Trong vụ án này, Caipha tạo áp lực đối với Philatô,
buộc ông này phải đóng đinh Chúa Giêsu, dù có phải đơm điều đặt chuyện vu cáo.
Ông ta cáo buộc Chúa Giêsu có tham vọng chiếm ngai vàng, và như thế, theo ông
ta, Giêsu là mối hiểm họa cho Đế chế Rôma. Sự thật không phải thế. Chúa Giêsu
đã từng kiên quyết bác bỏ ý định của dân chúng muốn tôn Người lên làm vua sau
khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, hơn nữa Người còn dạy các môn đệ: “Của
César thì trả về cho César”, Chúa nhấn mạnh đến tính hợp pháp của việc đóng
thuế cho đế quốc.
Đến đây, ta thấy rõ ràng
chính Caipha là người chịu trách nhiệm cá nhân trong vụ việc này. Về phương
diện luật pháp, tập thể người Do Thái không chịu trách nhiệm liên đới đối với
tội ác của Caipha. Mặc dù cũng có một số người từng la ó khi vụ án diễn ra:
“Máu hắn cứ đổ lên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27, 25), nhưng
những người Do Thái ở Giuđêa và ở những cộng đoàn tản mác, không hề có liên
quan đến các hành động của người đứng đầu Thượng Hội đồng. Chỉ những người
trong Thượng Hội đồng ra phán quyết kết án Chúa Giêsu mới là những kẻ phải chịu
trách nhiệm.
Caipha là con người vô
liêm sỉ. chúng ta thấy ông ta là điển hình của giới hữu trách chính trị và tôn
giáo mọi thời, chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Thủ đoạn
chính trị không thể được coi là đồng nghĩa với sự linh hoạt chính trị được, mà
phải gọi đúng tên là sự đồi bại và sự dữ.
Chính cái triết lý phi
nguyên tắc này đã cướp đi sinh mạng của Chúa Giêsu.
Giuđa, kẻ ham tiền và
phản trắc
Có phải Giuđa thật sự coi 30 đồng trọng hơn
Chúa Giêsu không?
Nhân vật đen tối này cũng vẫn được một số người
hiện nay bênh vực. Đối với họ, Giuđa là người chống đế quốc Rôma. Hắn theo Chúa
Giêsu, coi Người là một lãnh tụ giải phóng. Nhưng khi nghe Người giảng về một
vương quốc thiêng liêng và cánh chung, hắn liền quay lưng lại với Thầy. Tại
sao? Những người bênh vực Giuđa cho rằng, khi đẩy nhanh các sự kiện, Giuđa ép
Chúa Giêsu buộc phải tiết lộ sứ mệnh và vai trò cứu thế của người. Hắn tin
rằng, dù bị khép tội chết, Chúa Giêsu cũng sẽ dùng quyền năng phi thường mà
xoay chuyển tình thế.
Một cách giải thích khác cho rằng, Giuđa chỉ là
công cụ trong tay Thiên Chúa. Chúa Giêsu trước hết phải chịu đau khổ rồi mới
cứu nhân loại, nên cần phải có người nộp Chúa Giêsu cho kẻ thù, để kế hoạch của
Chúa được thực hiện.
Hai kiểu giải thích này khác với điều Gioan
viết trong sách Tin mừng: Giuđa là kẻ phản trắc và là đứa trộm cắp. Hắn đã đi
gặp các thủ lĩnh tư tế và cò kè trả giá về cuộc phản bội.
Như vậy Giuđa tiêu biểu cho những kẻ sùng bái
tiền bạc và dùng mọi cách để kiếm tiền. Thánh Phaolô viết: “Cội rễ sinh ra mọi
điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6, 10). Vì thế, nếu tiền bạc chiếm vị
trí ưu tiên trong đời sống con người, thì sẽ gây ra những hậu quả tai hại.
Ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Về phương diện con người, những nhân vật chúng
ta vừa phân tích hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về tội ác ghê tởm đã giáng
xuống một nạn nhân vô tội. Đồng thời, cái chết của Người đã là một phúc lành
cho nhân loại.
Chúng ta nên nhớ, cái chết của Chúa Giêsu hoàn
toàn khác một cuộc ám hại thông thường. Bởi vì, Chúa Giêsu bước đến cái chết
trong tâm thế của một con người tự do. Người có thể dùng quyền năng của Chúa để
tự bảo vệ mình. Phải chăng Người đã không ra lệnh cho các đạo binh thiên thần
đến giúp Người? Dù chính Người đã chữa lành mọi bệnh tật, nhưng phải chăng
Người đã không nói một lời tiêu diệt những kẻ chống lại mình? Vâng, Người đã
làm như thế. Người đã tự nguyện chấp nhận cái chết và đem lại cho nó một ý
nghĩa mới. Chính trong đêm bị trao nộp, Người cầm lấy bánh, trao cho các môn đệ
và nói: “Này là mình Thầy, bị nộp vì các con”. Sau bữa ăn, Người cầm chén rượu
và nói: “Này là chén máu Thầy […] sẽ đổ ra cho các con và muôn người được tha
tội”.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến cái chết của Chúa
Giêsu không phải là âm mưu của Caipha, sự phản bội của Giuđa hay sự hèn nhát
của Philatô, mà chính do Người vâng phục Chúa Cha và yêu thương chúng ta, những
tội nhân khốn khổ. Tội lỗi đã đi vào thế gian vì Ađam đã không vâng phục Chúa.
Trong tấn thảm kịch chúng ta cùng nhau tái hiện trong tuần này, chính Ađam thứ
hai là Đức Kitô, Đấng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Chúa Giêsu, Đấng đáp ứng những đòi hỏi của Công
lý và Lòng thương xót
Qua cái chết, Chúa Giêsu đã đáp ứng những đòi
hỏi của công lý và lòng thương xót của Chúa. Đối với chúng ta, những con người
đáng thương, hai từ này khá mâu thuẫn với nhau. Hoặc chúng ta là người công
minh hoặc là người hay thương xót. Duy chỉ có Thiên Chúa là Đấng rất công minh
mà lại rất giàu lòng thương xót.
Trong cái chết, Chúa Giêsu đáp ứng những đòi
hỏi của công lý và lòng thương xót. Công lý đòi hỏi kẻ phạm tội phải trả giá
cho tội đã phạm. Chúa Giêsu, trong bản tính nhân loại, đã đại diện cho cả loài
người. Khi chịu đau khổ trong xác phàm, Người tự hiến làm hy lễ đền tội theo
công lý của Chúa. Nhưng đồng thời, Người đã cho thấy Thiên Chúa đầy lòng thương
xót. Con người chịu đau khổ, dâng hy lễ chuộc tội chúng ta, chính là Con Chiên
Thiên Chúa xóa tội trần gian. Là Con Thiên Chúa, hy lễ của Người được chấp nhận
và con người được chuộc tội.
Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một thất
bại nhưng là một thành công lớn, tức khắc mang lại hiệu quả. Khi Chúa đang chịu
khổ nạn, Phêrô đã khóc lóc đau đớn và được tha thứ, kẻ trộm bị đóng đinh bên
hữu Chúa đã được Chúa hứa ban Nước Trời, viên sĩ quan đại đội trưởng Rôma tuyên
xưng đức tin.
Thánh Phaolô trong Thư thứ hai gửi tín hữu
Côrintô đã giải thích rõ rệt: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Chúa đã biến
Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công
chính trong Người” (2 Cr 5, 21). Nhờ cái chết của Người, chúng ta được giao hòa
với Thiên Chúa. Hơn nữa, Hội Thánh nhận được tác vụ hòa giải từ chính Chúa
Giêsu (x. 2 Cr 5, 18).
Cái chết không có lời cuối cùng
Sau khi nghe đọc Bài Thương khó, chúng ta có
thể cảm thấy buồn bã và thất vọng. Nhưng không phải như vậy đâu. Có hai lý do
khiến chúng ta được an ủi:
– Chúa Giêsu chết vì yêu thương chúng ta:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để mọi người tin vào
Con của Ngài sẽ không bị hư mất, nhưng sẽ giữ được sự sống muôn đời” (Ga 3,
16). Đức Giáo hoàng Gioan–Phaolô II viết: “Hãy nghe Đấng bị đóng đinh, hãy nghe
Người nói với trái tim của bạn. Hãy nghe Người nói với bạn: Con thật có ý nghĩa
với Ta”.
– Chúa muốn bảo đảm hy lễ Con của Ngài đã được
chấp nhận và loài người mãi mãi được giao hòa với Chúa. Chúng ta chỉ có thể đón
nhận sự tha thứ của Chúa và phải bắt đầu cuộc sống mới. Làm thế nào chúng ta
biết được Chúa đã nhận hy lễ này và ban cho chúng ta ơn giao hòa? Đây là dấu
chỉ nhận biết: ngày thứ ba, ngôi mộ an táng Chúa Giêsu hoàn toàn trống rỗng.
Chúa Giêsu đã từ kẻ chết sống lại và chúng ta sống lại với Người để sống cuộc
đời mới.
Bây giờ chúng ta có thể đọc Thư thánh Phaolô
gửi tín hữu Philiphê trong cử hành phụng Lễ Lá: “Người đã tự hủy, nhận lấy thân
phận nô lệ […]. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập
giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu vượt
trên mọi danh hiệu, để […] mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là
Chúa” (Pl 2, 5-11).
Lời nguyện
“Lạy Linh hồn Chúa
Kitô, xin thánh hóa con,
lạy Mình Chúa Kitô, xin
cứu vớt con,
lạy Máu Chúa Kitô, xin
cho con được say mến,
lạy Nước từ cạnh sườn
Chúa Kitô, xin lau sạch con,
lạy Cuộc Thương khó của
Chúa Kitô, xin cho con nên mạnh mẽ.
Lạy Chúa Giêsu nhân từ,
xin nhậm lời con,
xin giấu con nơi thương
tích của Chúa,
xin đừng để con lìa xa
Chúa,
xin bảo vệ con trước
đối phương,
xin gọi con lúc lâm
chung,
xin truyền cho con được
đến với Chúa,
cùng với các thánh của
Chúa, con chúc tụng Chúa muôn đời. Amen”.
Đọc gì trong Tuần Thánh?
Nên đọc bài Thương khó trong sách Tin Mừng theo
Thánh Luca, rồi xét mình qua các nhân vật trong bản văn.
Làm gì trong Tuần Thánh?
Khao khát được giao hòa với Chúa và làm hòa với
mọi người qua Bí tích Hòa giải. Bằng không, việc Chúa chịu đau khổ cũng trở nên
vô ích đối với chúng ta.
William Shomali