HOA TRÁI THINH LẶNG
(TTCG
Cập nhật: 02/10/2010 11:24:16)
LỜI TÁC GIẢ
Những ai rộng lượng lý thú cảm nhận một điều gì đó khi đọc Hạt
Giống Chiêm Niệm và Không Ai Là Một Hòn Đảo hẳn cũng có thể tìm thấy đôi điều ý
vị trong những suy tư này, những suy tư mà giả như có giá trị nào đó để nói chỗ
này chỗ kia thì đây là điều mà tác giả, trước nhất, muốn nói với chính mình và
nói với những ai có thiên hướng đồng cảm với mình. Điều này, cách riêng, đúng
với phần hai, “Yêu Mến Sự Cô Tịch”. Những ai biết đến những trang đầy phấn
khích của Max Picard trong Thế Giới Của Thinh Lặng sẽ nhận ra nguồn cảm hứng
của triết gia người Thuỵ Sĩ này trong những bài suy niệm đó.
LỜI NÓI ĐẦU
Những lời ghi chép trong tập này được viết vào những năm 1953 và
1954 vào thời điểm mà tác giả, nhờ ân sủng của Thiên Chúa và nhờ sự rộng lượng
của các bề trên, có thể tận dụng những cơ hội đặc biệt dành cho việc tĩnh tâm
và suy niệm; từ đó, mới có đề tựa tập sách như trên. Điều này không muốn nói
rằng, những lời ghi chép đó mang tính chủ quan hay tự thuật. Chúng không hề
được nhắm đến như một tường trình về những cuộc phiêu lưu tinh thần. Đối với
tác giả, không có cuộc phiêu lưu nào để viết, và nếu có, nó cũng sẽ không phó
mặc cho việc in ấn trong bất kỳ trường hợp nào. Đây chỉ là những suy tư về đời
sống chiêm niệm, những hiểu biết bằng trực giác mà dường như có một tầm quan
trọng cơ bản vào một lúc nào đó trong quá khứ.
Ở đây, dĩ nhiên, cần có một sự dè dặt. Cách rõ ràng, những hiểu
biết qua trực giác vốn xem ra cấp thiết và sống còn đối với tác giả sẽ không
quá quan trọng đối với người khác, những người không cùng ơn gọi. Vì thế, theo
nghĩa đó, rốt cuộc, cuốn sách hoàn toàn mang tính riêng tư. Một đôi chỗ, những
câu nói khá chung chung; thỉnh thoảng, chúng là những nhận xét được đưa ra tiện
thể và gần như tầm thường. Không nơi nào bạn thấy những lời ghi chép này mang
tính riêng tư. Nhưng cách chung, những suy tư về sự cô tịch của con người trước
Thiên Chúa, đối thoại của nó với Ngài trong sự trầm lắng và mối tương quan qua
lại giữa những giờ phút tĩnh lặng cá nhân, thì với tác giả, nó thật cấp thiết
đối với cách sống riêng biệt của ông. Cũng có thể nói cách dè dặt rằng, lối
sống riêng biệt này không nhất thiết là lý tưởng của dòng tu mà tác giả tình cờ
thuộc về. Đối với toàn bộ điều đó, thực chất là một tu viện lý tưởng.
Hầu như không cần phải nói thêm rằng, như những dòng nước trôi qua
dưới chiếc cầu riêng tư của chính tác giả, những lời ghi chép này đã được viết
và những dòng ý tưởng vốn được tìm thấy ở đây đã trải qua những phương hướng
không ngờ khác nhau vào những năm tháng đan xen.
Vào một thời đại khi chính thể chuyên chế thao túng mọi cách hầu
làm mất giá trị và nhân phẩm, chúng ta tin chắc rằng, tiếng nói của những ai
ủng hộ sự tĩnh lặng và tự do bên trong của con người đều cần được lắng nghe.
Tiếng ầm ĩ giết người của chủ nghĩa duy vật nơi chúng ta không được
phép dập tắt những tiếng nói vốn sẽ không bao giờ ngưng vang lên: liệu chúng có
phải là tiếng nói của các thánh Kitô hữu, tiếng nói của những nhà thông thái
phương Đông như Lão Tử hay các thiền sư, tiếng nói của những người như Thoreau
hay Martin Buber, hay Max Picard. Hoàn toàn đúng khi nhấn mạnh rằng, con người
là một “con vật xã hội” - sự thật đủ cho thấy. Nhưng đó không phải là lý do để
biện hộ cho việc biến con người thành một bánh xe nhỏ trong một guồng máy
chuyên chế - hay một bánh xe tôn giáo trước vấn đề đó.
Thật ra, sự tồn tại của một xã hội tuỳ thuộc vào sự trầm lắng riêng
tư bất khả xâm phạm của các thành viên trong đó. Để xứng đáng với tên gọi của
mình, xã hội được cấu thành không phải từ những con số hay những đơn vị máy
móc, nhưng bởi những nhân vị. Việc trở thành một nhân vị bao hàm trách nhiệm và
tự do. Cả hai điều này lại muốn nói đến một sự tĩnh lặng bên trong nào đó, một
ý thức về sự chính trực cá nhân, ý thức về thực tại riêng tư cũng như khả năng
của mỗi người để trao ban chính mình cho xã hội - hay để từ chối quà tặng đó.
Bị nhấn chìm hoàn toàn trong một biển người vô danh, bị xô đẩy dồn
ép bởi những thế lực vô thức, con người đánh mất nhân tính đích thực, đánh mất
sự chính trực, đánh mất khả năng yêu thương và khả năng tự quyết của mình. Khi
xã hội được cấu thành bởi những con người vốn không biết sự tĩnh lặng bên trong
là gì, xã hội đó không còn được liên kết với nhau bằng tình yêu. Do đó, nó được
nối kết với nhau bởi một thứ quyền lực lạm dụng và bạo lực. Khi con người bị
cưỡng bách để rồi mất đi sự tĩnh lặng và tự do lẽ ra họ đáng được, thì xã hội
trong đó họ đang sống lại trở nên đồi bại, thối rữa bởi sự hèn hạ, căm phẫn và
hận thù.
Không khối tiến bộ kỹ thuật nào có thể chữa lành mối thù hằn vốn ăn
mòn nhựa sống của một xã hội duy vật tựa hồ căn bệnh ung thư thiêng liêng.
Phương pháp trị liệu duy nhất là, và phải luôn luôn là, thiêng liêng. Nói thật
nhiều về Thiên Chúa và tình yêu cho con người sẽ trở nên một việc vô bổ nếu họ
không có khả năng lắng nghe. Đôi tai mà nhờ đó, người ta lắng nghe thông điệp
của Tin Mừng đang ẩn tàng trong tâm hồn con người, và những đôi tai này không
nghe bất cứ điều gì trừ phi chúng được ưu đãi với một sự trầm lắng và tĩnh lặng
bên trong nào đó.
Nói cách khác, vì đức tin là một vấn đề thuộc tự do và tự quyết -
đón nhận nhưng không quà tặng ân sủng được trao ban cách nhưng không - con
người không thể chấp nhận một thông điệp thiêng liêng bao lâu tâm hồn và trí óc
nó còn là nô lệ của hành động vô ý thức. Con người sẽ luôn là nô lệ chừng nào
nó vẫn đắm chìm trong khối những cỗ người máy khác, hoặc chừng nào nó không còn
tính cá vị hay sự chính trực đúng đắn của mình với tư cách là những nhân vị.
Những gì được nói ở đây về sự cô tịch không chỉ là một giải pháp
cho các nhà ẩn tu, nó còn liên quan đến toàn thể tương lai của con người và số
phận của thế giới trong đó nó đang sống; và đặc biệt, dĩ nhiên, đến tương lai
đời sống tôn giáo của nó
PHẦN MỘT
NHỮNG KHÍA CẠNH ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
1. Chỉ trong sa mạc, bạn mới gặp được Thiên Chúa
Không tai hoạ nào trong đời sống thiêng liêng lớn hơn tai hoạ bị
nhấn chìm trong tính vô thực, nghĩa là trong cái không có thực, phi thực tế;
bởi lẽ, cuộc sống mỗi người được duy trì và được nuôi dưỡng bên trong bởi những
mối tương quan sống của chúng ta với những thực tại bên ngoài và bên trên chính
mình. Khi đời sống được nuôi bằng cái vô thực, nó phải ngắc ngoải vì đói; vì
thế, nó phải chết. Không sự khốn cùng nào lớn hơn bằng việc nhầm lẫn cái chết
vô bổ này với “cái chết” thực, đầy hy sinh và mang lại hoa trái mà nhờ đó,
chúng ta bước vào cuộc sống.
Cái chết mà nhờ đó, chúng ta bước vào đời sống mới không phải là sự
chạy trốn thực tại nhưng là một quà tặng toàn vẹn của chính mình vốn bao gồm
việc dấn thân hoàn toàn vào thực tại. Cái chết này khởi đầu bằng việc từ bỏ
những thực tại hão huyền mà tạo vật đạt được khi chúng chỉ được nhìn thấy trong
tương quan với những mối bận tâm lo cho chính mình nơi chúng ta.
Trước khi có thể thấy những vật tạo thành (đặc biệt vật chất) là vô
thực, chúng ta phải thấy rõ ràng chúng là thực.
Vì tính “vô thực” của vật chất chỉ liên quan đến thực tại lớn
hơn của những gì thuộc tinh thần.
Chúng ta bắt đầu việc từ bỏ của mình đối với các thọ tạo bằng cách
lùi xa và nhìn chúng tự chính bản chất của chúng. Bằng cách đó, chúng ta nhìn
xuyên suốt thực tại, thực tế, và sự thật của chúng vốn không thể khám phá cho
đến khi chúng ta gạt chúng ra khỏi chính mình và lùi lại để chúng được nhìn
theo luật gần xa. Chúng ta không thể nhìn xem sự vật theo luật gần xa khi chúng
ta cứ khư khư ghì chặt chúng. Từ bỏ chúng, chúng ta mới bắt đầu hiểu rõ giá trị
của chúng như chúng thực sự. Chỉ khi đó, chúng ta mới bắt đầu thấy Thiên Chúa
trong chúng. Không đợi cho tới khi tìm thấy Ngài trong chúng, chúng ta mới có
thể khởi hành trên con đường chiêm niệm tăm tối mà ở mút cùng của nó, chúng ta
sẽ có thể thấy chúng trong Ngài.
Các Đan phụ Sa mạc tin rằng, chốn hoang dã được tạo nên có giá trị
tột bật trong cái nhìn của Thiên Chúa một cách chính xác, bởi nó không có giá
trị nào đối với con người. Vùng đất hoang là vùng đất mà con người không bao
giờ có thể lãng phí bởi nó không mang lại cho nó một thứ gì cả. Không gì hấp dẫn
họ, không có gì để họ khai thác. Sa mạc là nơi mà trong đó, dân được chọn đã
lang thang 40 năm chỉ được chăm sóc bởi một mình Thiên Chúa. Họ có thể đến Đất
Hứa trong vòng vài tháng nếu trực tiếp đi đến đó. Kế hoạch của Thiên Chúa lại
khác, họ phải học biết cách yêu mến Ngài trong hoang mạc và phải luôn nhìn lại
thời gian trong sa mạc như là thời gian điền viên của đời họ với một mình Ngài.
Sa mạc được tạo thành một cách đơn sơ để trở nên chính nó, không
phải để được con người chuyển đổi thành một cái gì khác. Núi non và biển khơi
cũng vậy. Vì thế, sa mạc là nơi định cư hợp lý cho những ai không tìm kiếm điều
gì ngoại trừ chính mình - nghĩa là một thọ tạo đơn độc, nghèo khó và không phụ
thuộc vào ai ngoài một mình Thiên Chúa, nghĩa là không có một công trình nào
đứng giữa chính nó và Đấng Tạo Thành nó.
Ít nhất đây là lý thuyết. Nhưng một yếu tố khác có liên quan. Trước
tiên, sa mạc là quê hương của sự điên rồ. Thứ hai, đó cũng là nơi ẩn náu của ác
quỷ, vốn bị quăng vào “vùng hoang mạc thượng Ai Cập” để “đi lang thang trong
những nơi khô cằn”. Cơn khát làm con người hoá điên, và chính ác quỷ cũng điên
cuồng vì khát khao cái ưu tú bị đánh mất của nó - bị đánh mất bởi ác quỷ đã tự
giam mình trong chính nó và loại trừ mọi thứ khác.
Vì thế, người đi lang thang trong sa mạc để trở nên chính mình phải
cẩn trọng rằng, mình sẽ không hoá điên và trở nên đầy tớ của tên ác quỷ vốn ở
đó trong một thiên đường cằn cỗi của sự trống rỗng và cuồng bạo.
Tuy nhiên, hãy nhìn vào sa mạc hôm nay. Chúng là gì? Là nơi chôn
nhau cắt rốn của một sự sáng tạo kinh khủng và mới lạ, là nơi thử nghiệm của
sức mạnh, qua đó con người không tạo ta những gì Thiên Chúa đã chúc lành. Ngày
nay, vào thế kỷ của những thành tựu công nghệ lớn lao nhất của con người, thì
rốt cuộc, hoang mạc đã đi vào trong chính nó. Con người không còn cần Thiên
Chúa và nó có thể sống trong sa mạc nhờ vào những nguồn sống riêng của mình. Ở
đó, con người có thể xây dựng cho mình những thành phố vô cùng to lớn, những tử
cấm thành được bảo vệ của những thử nghiệm và sự đồi bại. Những khu phố lấp
lánh toả chiếu suốt đêm trong sa mạc không còn là những hình ảnh Thành Của
Thiên Chúa xuống từ trời để chiếu sáng thế gian bằng một nhãn quan hoà bình.
Thậm chí chúng cũng không là phiên bản của tháp Baben vĩ đại đã từng mọc lên
trong sa mạc Senaar, nơi con người “có thể làm cho tên tuổi mình lẫy lừng, thậm
chí vươn lên tới trời” (St 11,4). Chúng là nụ cười rạng rỡ và đê hèn của tên ác
quỷ trên bề mặt của hoang mạc, những thành phố của sự bí mật, nơi mỗi người
truy sát anh em mình; những thành phố mà nhờ những huyết mạch của nó, tiền bạc
lưu chuyển như máu nhân tạo, và cuối cùng, từ lòng dạ của nó, công cụ huỷ diệt
ghê gớm nhất sẽ được tạo ra.
Chúng ta có thể xem thấy sự lớn lên của những thành phố này mà
không làm một điều gì đó để thanh tẩy chính tâm hồn mình sao? Khi con người,
đồng tiền và những cổ máy của nó đi vào sa mạc và cư ngụ ở đó; khi con người
không chiến đấu với tên ác quỷ như Đức Kitô đã làm nhưng tin vào lời hứa về
quyền lực và sự giàu sang của nó, cũng như thờ phượng sự khôn ngoan siêu nhân
của nó, thì chính sa mạc tự nó di chuyển khắp nơi. Vậy thì bất cứ nơi đâu cũng
phải là sa mạc, nơi đâu cũng là chốn cô tịch, trong đó, con người phải thực
hành thống hối, chống lại kẻ thù và thanh luyện chính tâm hồn mình trong ân sủng
của Thiên Chúa.
Sa mạc là ngôi nhà của thất vọng. Và giờ đây, thất vọng có mặt khắp
nơi. Đừng nghĩ rằng, thinh lặng nội tâm của chúng ta bao hàm một sự chấp nhận
thất bại. Chúng ta không thể thoát khỏi bất cứ điều gì bằng cách ngấm ngầm chấp
nhận chịu thua. Thất vọng là một vực thẳm không đáy. Đừng nghĩ đến việc đóng
kín nó lại bằng cách chấp nhận nó và tìm cách quên đi việc mình đã chấp nhận.
Vậy thì đây là sa mạc của chúng ta: sống đối mặt thất vọng, nhưng
không chấp nhận nó. Đạp nó xuống bên dưới niềm hy vọng vào thánh giá. Không
ngừng nghỉ tiến hành chiến đấu chống lại thất vọng. Cuộc chiến đó là hoang mạc
của chúng ta. Nếu quả cảm chiến đấu, chúng ta sẽ thấy rằng, Đức Kitô đứng về
phe chúng ta. Nếu không thể đối mặt với nó, chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy
Ngài.
2. Tính khí và cảm xúc
Tính khí mỗi người không tiền định người này nên thánh hay người
kia bị đày xuống địa ngục. Tất cả các tính khí đều có vai trò như là nguyên
liệu cho sự huỷ diệt hay cứu rỗi. Chúng ta phải học để thấy rằng, tính khí của chúng
ta là một quà tặng đến từ Thiên Chúa, một tài năng mà nhờ đó, chúng ta phải
sinh lợi cho đến khi Ngài đến, không thành vấn đề quà tặng đó nghèo nàn hay gay
go. Nếu tận dụng điều mình có, nếu biết làm cho nó phục vụ tốt những ước muốn
của mình, chúng ta có thể làm tốt hơn người khác vốn chỉ phục vụ tính khí mình
thay vì buộc nó phục vụ mình.
Thánh Tôma nói (I-II, Q.34, a.4), một người tốt khi người ấy tìm
thấy niềm vui trong điều tốt; người ấy xấu khi tìm thấy niềm vui trong điều
xấu. Người ấy đức hạnh khi tìm thấy hạnh phúc trong đời sống đức hạnh; người ấy
tội lỗi khi tìm thấy vui thú trong đời sống tội lỗi. Vì thế, những thứ chúng ta
yêu quý nói cho chúng ta biết chúng ta là ai.
Vì thế, người ta biết một người nhờ kết cục này. Người ta cũng biết
người ấy nhờ sự khởi đầu của anh ta. Và nếu muốn biết một người vào bất kỳ một
thời khắc quy định nào đó, hãy xem họ đã rời xa điểm khởi đầu và đến gần cái
kết cục của mình là bao nhiêu. Bởi đó, một người phạm tội mặc dù tự ý, nhưng
không yêu tội, người ấy vẫn không là người tội lỗi đúng nghĩa.
Người thành tâm xuất phát từ Thiên Chúa sẽ quay trở về với Ngài.
Khởi đầu với quà tặng được hiện hữu và những khả năng Thiên Chúa trao ban,
người đó đạt đến tuổi lý luận và bắt đầu chọn lựa. Phong cách chọn lựa của
người ấy chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những gì đã xảy ra với anh ta trong tuổi
ấu thơ và bởi tính khí mà với nó anh được sinh ra.
Nó sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng bởi những hành động của những người
chung quanh, bởi những sự kiện của thế giới mà trong đó người đó sống, bởi tính
cách của xã hội. Tuy nhiên, tự cơ bản, nó vẫn tự do.
Nhưng sự tự do của con người lại không hành động trong một chân
không luân lý. Cũng không cần thiết để nó tạo ra một chân không như thế hầu bảo
đảm tự do của các hành động nơi chúng ta. Sự ép buộc từ bên ngoài, những khuynh
hướng của khí chất mạnh mẽ và những đam mê từ bên trong không làm gì để tác
động đến bản chất tự do của chúng ta. Chúng chỉ xác định hành động của chúng
bằng cách áp đặt một số giới hạn trên tự do. Chúng cho tự do một tính cách đặc
biệt riêng của nó.
Xét về tính khí, một người đàn ông nóng nảy có thể có khuynh hướng
nổi nóng hơn người khác. Nhưng bao lâu giữ được ôn hoà, người đó vẫn thoát khỏi
tính nóng nảy. Xu hướng nổi nóng của người đó chỉ là một sự thúc ép cá tính vốn
có thể hóa lành hay dữ tuỳ theo những khát vọng của anh. Nếu ước ao điều xấu,
tính khí của người đó trở thành một vũ khí xấu chống lại những người khác và
thậm chí chống lại chính linh hồn mình. Nếu ước ao điều tốt, tính khí của người
đó có thể trở thành công cụ được kiểm soát để chống lại sự dữ vốn ở trong chính
mình và giúp người khác vượt qua những cản trở họ gặp trên đường đời. Người đó
vẫn tự do để ao ước điều lành hay điều dữ.
Quả là ngớ ngẩn khi cho rằng, một đôi khi, vì xen vào lý trí, nên
cảm xúc không có chỗ đứng trong đời sống thiêng liêng. Kitô giáo không thuộc
phái Khắc Kỷ, thánh giá không thánh hiến chúng ta bằng cách triệt tiêu tình cảm
con người, sự dứt bỏ không phải là không xúc cảm. Rất nhiều người sống khổ hạnh
nhưng họ không thể trở nên những vị thánh lớn, chính xác, bởi vì những quy luật
và những thực hành khổ chế của họ chỉ làm chết đi nhân tính thay vì để nó tự do
phát triển một cách phong phú với tất cả khả năng của nó dưới tác động của ân
sủng.
Thánh là một con người hoàn hảo, vị thánh đó là Đền Thờ của Chúa
Thánh Thần. Theo cách thức cá nhân của riêng mình, vị thánh đó tái tạo một điều
gì đó quân bình, toàn thiện và trật tự mà chúng ta tìm thấy trong Nhân Tính của
Đức Giêsu. Linh hồn của Đức Giêsu, cách thần thiêng, nên một với Ngôi Lời của
Thiên Chúa tận hưởng đồng thời mà không xung đột với Thánh Nhan Tinh Tuyền của
Ngài và cả những cảm xúc của con người cách chung, cách riêng hoặc thân thiết
nhất - những tình cảm, hối tiếc và đau khổ, hạnh phúc, niềm vui, hay đau đớn;
phẫn nộ và phân vân; lo lắng, sợ sệt và sợ hãi; an ủi và bình an.
Nếu không có những tình cảm nhân loại, chúng ta không thể yêu mến
Thiên Chúa với tư cách là con người như được dự định để mến yêu Ngài. Nếu không
cảm xúc, chúng ta không thể được Thiên Chúa yêu thương theo cách Ngài muốn yêu
thương chúng ta - bằng Trái Tim của Con Người, Đức Giêsu, Đấng vốn là Thiên
Chúa, Con Thiên Chúa, và là Đấng Kitô được xức dầu.
Vì thế, đời sống khổ hạnh phải được khởi đầu và được thực hành với
sự tôn trọng tối thượng tính khí, tính cách, cảm xúc và tất cả những gì làm nên
con người chúng ta. Đây cũng là những yếu tố toàn vẹn trong nhân tính và vì
thế, cả trong sự thánh thiện - bởi vì người thánh là người mà tình yêu Thiên
Chúa đã phát triển trọn vẹn thành một con người theo hình ảnh Đấng Tạo Thành
mình.
Việc kiểm soát cảm xúc bằng cách từ bỏ chính mình có khuynh hướng
giúp cho việc trưởng thành và hoàn thiện hoá lòng nhân ái của chúng ta. Kỷ luật
khổ chế không loại trừ tính nhạy cảm của chúng ta: vì nếu như thế, nó sẽ không
hoàn thành nhiệm vụ của nó. Nếu thực sự từ bỏ chính mình, đôi lúc, sự hy sinh
lấy khỏi chúng ta cả những thứ chúng ta thực sự cần đến. Vì thế chúng ta sẽ cảm
thấy cần chúng.
Chúng ta phải trải qua cam go, nhưng cuộc tấn công của sự hành xác
trên giác quan, trên sự nhạy cảm, trí tưởng tượng, sự phán đoán và ý chí lại
được nhắm đến để phong phú hoá và thanh luyện tất cả những điều này. Năm giác
quan của chúng ta sẽ đờ đẫn bởi lạc thú vô độ nhưng lòng thống hối lại làm
chúng sắc bén, trả cho chúng sự sinh động tự nhiên, và nhiều hơn thế. Lòng
thống hối tẩy sạch con mắt lương tâm và lý trí, giúp chúng ta suy nghĩ trong
sáng và phán đoán đúng đắn, đồng thời gia tăng sức mạnh cho hoạt động của ý
chí. Lòng thống hối còn làm tươi mới phẩm tính của tình cảm do việc thiếu từ bỏ
chính mình và thiếu kỷ luật bản thân vốn giải thích tính tầm thường của nghệ
thuật sùng đạo, bài viết đạo đức, lời cầu nguyện sốt sắng đến thế và quá nhiều
người ngoan đạo đến ngần ấy.
Một vài người xa lánh những cảm xúc hời hợt này bằng một thứ tuyệt vọng
anh hùng, và rồi, họ trẩy đi tìm Thiên Chúa trong một sa mạc, nơi mà những tình
cảm không thể tìm thấy điều gì khả dĩ có thể nâng đỡ chúng. Nhưng cũng có thể
đây là một sai lầm. Vì nếu những cảm xúc thực sự chết trong sa mạc, nhân tính
chúng ta cũng sẽ chết với chúng. Như Chúa Giêsu hoặc thánh Gioan, từ sa mạc,
chúng ta phải trở lại với những khả năng cảm xúc đã được mở rộng, được đào sâu,
được củng cố, được cảnh báo hầu chống lại những mời mọc sai lầm, những cám dỗ
mà bề ngoài, xem ra thật cao cả, thanh tao và tinh khiết.
3. Con người, một thực thể thống nhất
Đời sống thiêng liêng không phải là đời sống lý trí. Nó không được
suy nghĩ cách đơn độc. Dĩ nhiên, nó cũng không phải là đời sống của cảm xúc,
cảm nhận -“cảm nhận” và trải nghiệm những thứ thuộc về tinh thần và những thứ
thuộc về Thiên Chúa.
Đời sống thiêng liêng cũng không loại trừ suy nghĩ và cảm nhận. Nó
cần cả hai. Nó không chỉ là đời sống được tập trung ở “đỉnh cao” của linh hồn,
một đời sống mà từ đó tâm trí, óc tưởng tượng và thể xác bị loại trừ. Nếu quả
như thế, ít người có thể sống đời sống đó. Và nếu đó là đời sống thiêng liêng,
nó sẽ không mảy may là một đời sống thật sự. Nếu sống, người ta phải sống toàn
vẹn, thể xác, linh hồn, tâm trí, con tim và tinh thần. Mọi thứ phải được nâng
lên và biến đổi trong tình yêu cùng với niềm tin bởi sự tác động của Thiên
Chúa.
Thật vô ích khi cố suy gẫm chỉ bằng cách “suy tư” - tồi tệ hơn khi
suy gẫm bằng việc đọc kinh hoặc nhại lại vô số lời kinh nhàm chán.
Một đời sống hoàn toàn thiên về lý trí có nguy cơ mang tính huỷ
diệt nếu nó dẫn chúng ta đến chỗ thay thế đời sống bằng ý tưởng và hành động
bằng khái niệm. Đối với con người, hành động đúng đắn không hoàn toàn thiên về
lý trí bởi lẽ, con người không phải là một lý trí tách rời khỏi thân xác. Vận
mệnh của chúng ta chính là sống những gì chúng ta nghĩ, vì trừ phi chúng ta
sống, chúng ta mới biết nó; bên cạnh đó, còn có nhiều điều thậm chí chúng ta
không biết. Chỉ bằng cách làm cho vốn hiểu biết trở thành một phần của chính
mình ngang qua hành động, chúng ta mới có thể đi vào thực tại vốn được biểu thị
bởi những khái niệm.
Việc sống như một con vật có lý trí không có nghĩa là suy nghĩ như
người và sống như vật. Chúng ta vừa phải suy tư, vừa phải sống với tư cách
người. Ảo tưởng cố sống hai phần trừu tượng (hợp lý tính và thú tính) cách biệt
nhau của chính hữu thể chúng ta, thật ra đó là hiện hữu như hai thực tại cụ thể
khác biệt. Chúng ta là một, thể xác và linh hồn. Khi không còn sống như một
thực thể thống nhất, chúng ta sẽ chết.
Sống không phải là suy tư vì suy tư được hình thành và hướng dẫn
bởi những thực tại khách quan bên ngoài. Sống là thích ứng không ngừng ý nghĩ
với đời sống, đời sống với ý nghĩ theo cách mà chúng ta luôn luôn lớn lên, luôn
luôn trải nghiệm những điều mới mẻ trong những gì ngày càng cũ kỹ, đồng thời
trải nghiệm những gì cũ kỹ trong những cái mới mẻ. Có như thế, cuộc sống sẽ
luôn tươi mới.
4. Niềm vui chiến thắng chính mình
Lối nói “tự chinh phục” nhiều lúc nghe có vẻ chói tai, bởi lẽ rất
thường khi, có thể nó không mang ý nghĩa chinh phục chính mình nhưng là một
cuộc chinh phục bởi chính mình. Một chiến thắng chúng ta giành được bởi
sức mạnh của chính mình. Chiến thắng điều gì? Chính xác là chiến thắng những gì
không phải là chính chúng ta.
Tự chinh phục thực ra là chinh phục chính bản thân, không phải bởi
tự sức mình, nhưng bởi Thánh Thần. Tự chinh phục là tự trao phó thực sự, tự đầu
hàng.
Vậy mà, trước khi trao phó chính bản thân, chúng ta phải trở nên
chính mình. Bởi không ai có thể từ bỏ cái mình không có.
Chính xác hơn - chúng ta phải đủ tự chủ để đặt ý riêng của mình vào
tay Đức Kitô - để Ngài có thể chế ngự những gì chúng ta không thể đạt được bằng
những nỗ lực riêng mình.
Để chinh phục chính mình, chúng ta phải có một niềm tin, một niềm
hy vọng chiến thắng nào đó. Và để giữ cho niềm hy vọng đó sống động chúng ta
thường phải cảm nếm sự chiến thắng. Chúng ta phải biết chiến thắng là gì và
thích nó hơn thất bại.
Chẳng hy vọng gì đối với một người chiến đấu nhằm đạt được một nhân
đức nào đó về mặt lý thuyết - một phẩm tính mà người ấy không trải nghiệm. Hiệu
quả là người ấy sẽ không bao giờ thích nhân đức đó hơn một tính xấu đối nghịch,
không thành vấn đề người ấy khinh miệt tính xấu đó làm sao.
Mọi người đều có một ước muốn tự bản năng để làm điều lành và lánh
điều dữ. Nhưng ước muốn đó sẽ héo hon bao lâu chúng ta không kinh nghiệm được
điều tốt là gì.
Lòng khát khao nhân đức sẽ chao đảo nơi nhiều người thiện chí do sự
nhờm tởm mà tự bản năng, họ cảm nhận bao nhân đức lệch lạc nơi những người được
cho là thánh thiện. Người tội lỗi có một cái nhìn nhạy bén với những nhân đức
lệch lạc và họ có một quan niệm khắt khe về nhân đức phải như thế nào nơi một
người tốt. Nếu ở một người được cho là tốt, họ chỉ thấy một “nhân đức” mà hiệu
quả ít thiết yếu và ít thú vị hơn những tính xấu của chính họ, họ sẽ kết luận
rằng, nhân đức đó không có ý nghĩa gì và họ sẽ bám vào điều mình đang có dù họ
ghét nó.
Nhưng nếu chúng ta không có nhân đức nào thì sao? Làm sao có thể
cảm nghiệm nó? Ân sủng của Thiên Chúa, qua Đức Kitô, Chúa chúng ta, tạo ra
trong chúng ta lòng khao khát nhân đức vốn là một cảm nghiệm có trước nhân đức
đó. Ngài làm cho chúng ta có khả năng “ước ao” nhân đức đó trước khi thủ đắc nó
hoàn toàn.
Ân sủng, vốn là đức ái, bao gồm trong nó những nhân đức theo một
cách thức tiềm tàng và ẩn giấu như lá và cành của một cây sồi bị che giấu trong
trái sồi nhỏ bé. Trở thành một quả sồi là cảm nếm trước việc trở thành một cây
sồi. Ân sủng thường mang theo mình toàn bộ nhân đức Kitô giáo trong hạt giống
của chúng.
Những ân sủng đích thực sẽ dẫn chúng ta đến chỗ thực tại hoá những
khả năng ẩn tàng này, đồng thời giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa của chúng: Đức
Kitô đang hoạt động trong chúng ta.
Niềm vui trước một việc lành là một điều gì đó đáng nhớ - không
phải để nuôi dưỡng tính tự mãn nhưng để nhắc nhở chúng ta rằng, những hành động
nhân đức đó không chỉ khả thi và có giá trị, nhưng chúng có thể trở nên dễ
dàng, phấn khởi và hiệu quả hơn những hành động xấu xa vốn chống lại và cản
trở chúng.
Đừng để một sự khiêm tốn lệch lạc nào đó cướp khỏi chúng ta niềm
vui chiến thắng vốn thuộc về mình và lại thật cần thiết cho đời sống thiêng
liêng của mỗi người, đặc biệt lúc khởi đầu.
Quả cũng đúng, nếu về sau chúng ta vẫn có thể bị bỏ mặc cho những
lỗi lầm mà chúng ta không thể vượt qua - ấy là để chúng ta có lòng khiêm tốn
nhằm chiến đấu chống lại một đối thủ dường như không thể đánh bại và không ấp ủ
một tự mãn chiến thắng nào. Bởi lẽ, chúng ta có thể bị đòi hỏi từ bỏ ngay cả
niềm vui khi làm điều lành để bảo đảm rằng, khi làm những điều ấy, chúng ta
nhắm đến một cái gì đó lớn hơn cả niềm vui đó. Nhưng để có thể từ bỏ niềm vui
ấy, trước tiên, chúng ta phải đạt được nó. Ngay từ đầu, niềm vui của việc chiến
thắng chính mình thật là cấp thiết. Đừng sợ ước muốn có được nó.
5. Lười biếng và nhút nhát
Lười biếng và nhút nhát là hai trong số những kẻ thù lớn nhất của
đời sống thiêng liêng. Chúng trở nên nguy hiểm nhất trong tất cả kẻ thù khi
mang mặt nạ “sự thận trọng”. Sự lừa phỉnh này sẽ không quá tai hại nếu thận
trọng tự nó không phải là một trong những nhân đức quan trọng nhất của người
sống đời sống thiêng liêng. Thật vậy, chính sự thận trọng dạy chúng ta sự khác
biệt giữa tính nhút nhát và suy xét khôn ngoan. Nếu mắt bạn đơn sơ… nhưng
nếu ánh sáng ở trong bạn là bóng tối…
Sự thận trọng nói cho chúng ta điều Thiên Chúa muốn và không muốn.
Làm như thế, sự thận trọng tỏ cho thấy bổn phận tương xứng với những gợi hứng
của ân sủng hầu chúng ta có thể tuân theo những chỉ thị khác trong ý muốn của
Thiên Chúa.
Lười biếng và nhút nhát đặt sự an nhàn hiện tại của chính chúng ta
trước tình thương của Thiên Chúa. Lười biếng và nhút nhát e sợ cái bất định
tương lai bởi chúng không đặt niềm tin nào vào Thiên Chúa.
Sự thận trọng cảnh báo chúng ta trước những nỗ lực vô ích: nhưng
đối với kẻ hèn nhát, mọi nỗ lực đều vô ích. Sự thận trọng cho thấy nơi nào nỗ
lực bị phí phạm và nơi nào thì nỗ lực trở nên bắt buộc.
Lười biếng trốn chạy trước mọi liều lĩnh. Sự thận trọng trốn chạy
trước những liều lĩnh vô ích, nhưng lại thôi thúc chúng ta tiếp tục đón nhận sự
liều lĩnh mà niềm tin và ân sủng Thiên Chúa đòi hỏi nơi chính mình. Khi Chúa
Giêsu nói, Nước Trời sẽ được chiếm lấy bằng bạo lực, Ngài có ý nói, nó chỉ có
thể được mua bằng giá của những liều lĩnh nào đó.
Không sớm thì muộn, nếu theo Đức Kitô, chúng ta phải liều lĩnh mọi
thứ để đạt được mọi thứ. Chúng ta phải đánh liều với những thứ vô hình và liều
lĩnh với tất cả những gì có thể thấy, nếm thử và cảm nhận. Nhưng chúng ta ý thức
rằng, điều đó đáng để liều lĩnh, vì không có điều gì bấp bênh hơn thế giới
chóng qua này. Vì bộ mặt thế gian này đang qua đi (1 Cr 7,31).
Không có lòng can đảm, không bao giờ chúng ta có thể đạt đến sự đơn
sơ thực thụ. Tính nhút nhát tạo nên con người “hai lòng” - chúng ta lưỡng lự
giữa thế gian và Thiên Chúa. Trong sự do dự này, bạn không có một niềm tin vững
chắc nào - với bạn, niềm tin vẫn chỉ là một quan niệm mơ hồ. Không có gì chắc
chắn nơi chúng ta bởi không bao giờ chúng ta tùng phục hoàn toàn thẩm quyền
Thiên Chúa vô hình. Sự do dự này giết chết hy vọng. Không bao giờ chúng ta có
thể giũ bỏ những nơi nương tựa khả giác mà chúng ta biết chắc một ngày nào đó,
chúng sẽ làm chúng ta thất bại. Sự do dự này cũng làm cho lời cầu nguyện đích
thực trở nên bất khả thi - hầu như không bao giờ bạn dám cầu xin một điều gì,
hoặc nếu có, bạn lại quá chắc chắn về việc được lắng nghe đến nỗi trong chính
khi cầu xin, bạn bí mật tìm cách đưa ra một lời đáp trả - chuyển tải bằng sự
khôn ngoan thế gian (x. Gc 1,5-8).
Đâu là lợi ích của việc cầu nguyện nếu chính vào lúc làm công việc
này, niềm tin vào Thiên Chúa của chúng ta lại quá ít ỏi đến nỗi vì phải bận rộn
vạch ra những phúc đáp cho lời cầu xin của mình?
6. Ích lợi của sự khốn cùng
Ở ngoài quỹ đạo tình yêu của Đức Kitô, không có đời sống thiêng
liêng nào đúng đắn. Chúng ta có một đời sống thiêng liêng chỉ vì Đức Kitô yêu
mến chúng ta. Đời sống thiêng liêng bao gồm việc đón nhận quà tặng Thánh Thần
và lòng bác ái của Ngài; bởi lẽ trong tình yêu của Ngài, Thánh Tâm Chúa Giêsu
đã muốn chúng ta sống nhờ Thần Khí của Ngài - cũng là Thần Khí phát xuất từ
Ngôi Lời và từ Chúa Cha cũng như từ Đấng là tình yêu của Đức Giêsu dành cho
Chúa Cha.
Nếu biết được tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta lớn lao
nhường nào, chúng ta sẽ không bao giờ sợ hãi để đến với Ngài trong cơn túng
quẫn, yếu đuối hoặc trong sự thảm hại và nhu nhược thiêng liêng của mình. Thật
vậy, hiểu được bản chất đích thực tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta, chúng ta
sẽ thích đến với Ngài, Đấng nghèo hèn và bơ vơ hơn cả chúng ta. Chúng ta sẽ
không bao giờ cảm thấy xấu hổ về sự khốn cùng của mình. Sự khốn cùng trở nên
ích lợi khi chúng ta không còn gì để tìm kiếm ngoại trừ lòng nhân hậu. Chúng ta
có thể vui mừng về sự bơ vơ của mình khi thực sự tin rằng, quyền năng của Đức
Kitô được hoàn thiện trong sự yếu đuối đó.
Dấu hiệu chắc chắn nhất cho thấy mỗi người có được một sự hiểu biết
thiêng liêng về tình yêu Thiên Chúa dành cho mình chính là họ cảm kích cảnh
túng quẫn của bản thân trong ánh sáng của lòng thương xót vô hạn của Ngài.
Chúng ta phải yêu chính sự nghèo khó riêng lòng mình có như Đức
Giêsu yêu nó. Với Ngài, nó quá giá trị đến nỗi Ngài đã chết trên thánh giá để
biểu tỏ sự khốn cùng của chúng ta cho Cha Ngài và ban sự giàu có của lòng nhân
từ vô hạn của chính Ngài cho chúng ta.
Chúng ta cũng phải yêu sự khốn cùng của người khác như Đức Giêsu
yêu nó. Phải thấy họ bằng đôi mắt đầy lòng thương xót của Ngài. Thế nhưng, sẽ
không thể động lòng thương xót thật sự trước người khác nếu chúng ta không sẵn
lòng chấp nhận những điều đáng tiếc và đón nhận sự tha thứ tội lỗi của chính
mình.
Chúng ta sẽ thật sự không biết làm thế nào để có thể tha thứ cho
đến khi biết được thứ tha là gì. Vì thế, hãy vui mừng khi chúng ta có thể được
tha thứ bởi anh em. Chính sự tha thứ cho nhau làm cho tình yêu của Đức Giêsu
dành cho chúng ta được thể hiện trong đời sống mình, vì khi tha thứ cho nhau,
chúng ta đối xử với nhau như Ngài đối xử với chúng ta.
7. Đức Kitô, nguồn hy vọng
Kitô hữu là người không sống cho mình, Kitô hữu ra khỏi chính mình
hoàn toàn nhưng sống trong Đức Kitô - người đó sống trong niềm tin và tình yêu
cứu rỗi của Ngài, Đấng yêu thương con người và vì con người, Ngài đã chết. Trên
hết mọi sự, người đó sống trong niềm hy vọng vào thế giới mai ngày.
Hy vọng là bí quyết của một đời sống khổ hạnh chân thực. Hy vọng từ
chối những ước muốn và phán đoán riêng tư của chính mình, đồng thời loại bỏ thế
giới trong hiện trạng của nó, không phải vì thế giới hay chính con người chúng
ta xấu xa, nhưng bởi chúng ta không ở trong một điều kiện để sử dụng tốt nhất
điều thiện của chính mình hay của thế gian. Tuy nhiên, chúng ta hoan hỷ trong
hy vọng, tận hưởng các thọ tạo trong hy vọng. Chúng ta tận hưởng chúng không
phải như chúng ở trong chính mình nhưng như chúng trong Đức Kitô - đầy hứa hẹn.
Vì sự tốt lành của mọi thọ tạo là bằng chứng sự tốt lành của Thiên Chúa và sự
tốt lành của Ngài là một bảo đảm cho lòng trung thành của Ngài với những gì
Ngài hứa. Ngài hứa ban cho chúng ta một trời mới đất mới, một đời sống được
phục sinh trong Đức Kitô. Mọi sự từ bỏ chính mình nếu không hoàn toàn bị nắm
bắt do lời hứa của Ngài sẽ thiếu mất tính Kitô.
Lạy Chúa của con, con thật vô vọng ngoài niềm hy vọng vào Thánh giá
Chúa. Nhờ sự khiêm hạ, những khổ đau và cái chết của Chúa, Chúa đã giải thoát
con khỏi mọi hy vọng hão huyền. Chúa đã tiêu diệt tính hư ảo của cuộc sống hiện
tại nơi chính bản thân và đã ban cho con tất cả những gì là vĩnh cửu khi Ngài
trỗi dậy từ cõi chết.
Tại sao con muốn trở nên giàu có khi Ngài đã nên nghèo khó? Tại sao
con muốn trở nên nổi tiếng và quyền lực trong mắt người đời khi con cháu của
những kẻ tâng bốc các tiên tri giả ném đá những tiên tri thực chối từ Ngài và
đóng đinh Ngài vào thập giá? Tại sao con phải ôm ấp trong lòng niềm hy vọng vốn
đang huỷ hoại đời con - hy vọng vào hạnh phúc trọn vẹn ở đời này - một kiểu hy
vọng như thế tất phải vỡ mộng, vô nghĩa và chỉ có thất vọng?
Hy vọng của con ở nơi những gì mắt thường không bao giờ nhìn thấy;
vì thế, đừng để con tin vào những phần thưởng hữu hình đời này. Hy vọng của con
ở nơi những gì tâm hồn người đời không thể cảm nhận; vì thế, đừng để con tin
vào những tình cảm của con tim. Hy vọng của con ở nơi những gì tay con người
không bao giờ chạm thấu; vì thế, đừng để con tin vào những gì giữa những ngón
tay mà con có thể nắm lấy. Cái chết sẽ nới lỏng sự giữ chặt của con và niềm hy
vọng vô hiệu ấy sẽ tan bay.
Hãy để niềm tin của con náu ẩn trong lòng thương xót của Ngài, chứ
không phải trong chính con. Hãy để hy vọng của con cư ngụ trong tình yêu của
Ngài, chứ không phải ở sức khoẻ, sức mạnh, khả năng hoặc những kế sách của con
người.
Nếu con tin tưởng Ngài, mọi sự sẽ trở nên sức mạnh, sức khoẻ và
nguồn đỡ nâng cho con, mọi sự sẽ mang con đến tận quê trời. Nếu con không tin
vào Ngài, mọi sự sẽ trở nên huỷ diệt đối với con.
8. Lòng biết ơn
Mọi tội lỗi là một hình phạt do tội đầu tiên của việc không nhận
biết Thiên Chúa, nghĩa là mọi tội đều là hình phạt do sự vô ơn. Vì như Thánh
Phaolô nói (x. Rm 1,21), các dân ngoại, vốn “biết” Thiên Chúa lại không nhận
biết Ngài bởi họ không nhận ra hồng ân ơn được nhận biết đó. Họ không biết Ngài
bởi sự hiểu biết của họ không làm họ vui thoả với tình yêu của Ngài. Vì nếu
không yêu Ngài, chúng ta chứng tỏ rằng, chúng ta không biết Ngài. Ngài là Tình
Yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu.
Sự hiểu biết Thiên Chúa nơi chúng ta trở nên hoàn hảo nhờ lòng biết
ơn: chúng ta biết ơn và vui sướng khi cảm nghiệm chân lý này: Ngài là Tình Yêu.
Bí tích Thánh Thể - Hy Tế ngợi khen và tạ ơn - là một lò lửa bừng
cháy của việc nhận biết Thiên Chúa. Vì trong Hy Tế này, Đức Giêsu - dâng lời tạ
ơn lên Cha - trao ban và hiến tế trọn chính mình Ngài cho vinh quang Chúa Cha
và cứu chúng ta khỏi muôn vàn tội lỗi. Nếu không “nhận biết” Đức Giêsu trong hy
tế của Ngài, làm sao hy tế đó có thể mưu ích cho chúng ta? “Việc nhận biết Thiên
Chúa thì quý hơn lễ hy tế” (Hs 6,6). Chúng ta sẽ không biết Ngài trừ phi chúng
ta cùng Ngài tạ ơn và ca tụng Chúa Cha.
Giữa lòng biết ơn và sự vô ơn, không có tính trung lập. Những kẻ
không biết ơn thì sớm bắt đầu phàn nàn về mọi thứ. Ai không yêu mến, sẽ ghét
bỏ. Trong đời sống thiêng liêng, không có chuyện dửng dưng như thế trước việc
yêu hay ghét. Đó là lý do tại sao sự lãnh đạm (vốn dường như là dửng dưng) thì
rất đáng ghét. Đó là sự ghét bỏ được trá hình như thể yêu thương.
Sự lãnh đạm mà trong đó linh hồn không “nóng cũng không lạnh” -
không rõ yêu hay ghét - một tình trạng mà trong đó, người ta khước từ Thiên
Chúa và khước từ ý muốn của Ngài đang khi bên ngoài, vẫn duy trì một sự giả vờ
yêu mến Ngài để tránh khỏi những rối rắm và cứu lấy lòng tự trọng tưởng nghĩ
đang có nơi mình. Đó là điều mà những ai có thói vô ơn trước những ân huệ của
Thiên Chúa sớm đạt tới. Một người vốn thực sự muốn đáp trả lòng nhân lành của
Thiên Chúa và hiểu biết tất cả những gì mình đã lãnh nhận không thể là một Kitô
hữu hai lòng. Lòng biết ơn đích thực và sự giả hình không thể cùng nhau tồn
tại. Chúng hoàn toàn không hợp nhau. Chính lòng biết ơn tự nó làm cho chúng ta
chân thành - bằng không, đó chẳng phải là lòng biết ơn thật sự.
Tuy vậy, lòng biết ơn vượt hẳn một thao luyện tinh thần, hơn cả một
công thức từ ngữ. Chúng ta không thể hài lòng ghi nhận trong trí những điều
Thiên Chúa đã làm cho mình và rồi cám ơn Ngài chiếu lệ vì những ân huệ đã nhận
lãnh.
Biết ơn là thừa nhận tình yêu Thiên Chúa trong mọi sự Ngài ban - và
Ngài đã ban cho chúng ta mọi sự. Mọi hơi thở chúng ta hưởng nhận là một quà
tặng của tình yêu Thiên Chúa, mọi khoảnh khắc tồn tại là một ân sủng, vì nó
mang theo vô vàn ân sủng từ Ngài. Lòng biết ơn vì thế, không xem điều gì là
hiển nhiên, không bao giờ không đáp trả, luôn tỉnh thức trước những kỳ công mới
và ngợi khen lòng nhân lành của Thiên Chúa. Vì người biết ơn biết rằng, Thiên
Chúa tốt lành, không phải qua tin đồn nhưng qua trải nghiệm. Và đó là điều tạo
nên sự độc đáo, khác biệt hoàn toàn.
9. Sự hư không
Hiểu biết và trải nghiệm sự “hư không” của chính mình nghĩa là gì?
Quả không đủ khi chê ghét những ảo tưởng, lỗi lầm và thiếu sót của
bản thân đồng thời xa lánh chúng như thể chúng không có hoặc như thể tôi là một
người nào khác không phải là mình. Việc tự triệt tiêu này không chỉ là một ảo
giác tồi tệ hơn, nhưng đó là một sự khiêm tốn vờ vịt bằng cách nói “tôi không
là gì” thì, dẫu vậy, điều đó có ý nói, “ước gì tôi không phải thế”.
Điều này có thể phát xuất từ một cảm nghiệm thiếu thốn và bất lực
nơi bản thân nhưng nó không đem đến cho chúng ta bất cứ nguồn bình an nội tâm
nào. Để thật sự biết cái “hư không” của mình, chúng ta còn phải biết yêu mến
nó. Và sẽ không thể yêu mến nó trừ phi chúng ta thấy nó tốt lành. Và sẽ không
thể thấy nó tốt lành trừ phi chúng ta chấp nhận nó.
Một trải nghiệm siêu tự nhiên về sự ngẫu nhiên của mình chính là
lòng khiêm tốn, một lòng khiêm tốn biết yêu mến và quý chuộng hiện trạng đạo
đức và sự yếu hèn thiêng liêng của mình trước Thiên Chúa hơn tất cả mọi thứ
khác.
Để yêu mến cái “hư không” của mình theo cách này, chúng ta không
ruồng rẫy chối nhận những gì thuộc về mình, cái chúng ta có, cái chúng ta là.
Chúng ta phải thấy và thừa nhận rằng, tất cả là của chúng ta và tất cả đều tốt
lành: tốt trong thực thể tích cực của nó bởi nó đến từ Thiên Chúa; tốt trong sự
thiếu hụt của nó bởi sự yếu hèn của chúng ta, thậm chí cả cái khốn cùng luân lý
và thiêng liêng của mình lại thu hút lòng nhân từ của Thiên Chúa xuống với
chúng ta.
Để yêu mến sự hư không của mình, chúng ta phải yêu mọi thứ trong
chúng ta, những thứ mà người kiêu ngạo yêu khi họ yêu chính mình. Nhưng chúng
ta phải yêu nó hoàn toàn một cách đúng đắn vì lý do đối nghịch.
Để yêu mến sự hư không của chúng ta, chúng ta phải yêu chính
mình.
Thế nhưng, người tự phụ yêu chính mình bởi người đó nghĩ rằng, mình
đáng được yêu, được tôn trọng và kính mến vì mình. Người đó nghĩ, họ phải
được Thiên Chúa và người khác yêu, họ đáng được tán dương, yêu mến và tôn trọng
hơn mọi người khác.
Người khiêm tốn cũng yêu chính mình, ước ao được yêu và trân trọng,
nhưng không phải bởi người đó xứng đáng để được yêu và tán dương cho
bằng vì tình yêu và danh dự không xứng với người đó.
Người đó tìm được yêu thương bởi lòng thương xót của Thiên Chúa.
Người đó xin được yêu thương và được cứu giúp bởi sự hào phóng nơi những bằng
hữu của mình. Biết rằng mình không có gì, người đó cũng biết mình cần mọi thứ
và không ngại van xin điều mình cần và nhận nó nơi mình có thể.
Người kiêu căng yêu mến những ảo giác và tự mãn về những gì mình có
đang khi người nghèo khó về mặt tinh thần yêu mến chính sự thiếu thốn của mình.
Người kiêu căng đòi cho được vinh dự vì đã có được điều mà người khác không có.
Người khiêm tốn lại khẩn xin được chia sẻ những gì mà những người khác đã lãnh
nhận, người đó cũng ước ao được đầy tràn lòng nhân ái và hay thương xót của
Thiên Chúa.
10. Đời sống thiêng liêng trước tiên là một đời sống
Đời sống thiêng liêng trước tiên là một đời sống.
Đời sống thiêng liêng không đơn thuần là một điều gì đó để biết, để
học, nhưng là để sống. Như mọi cuộc sống, đời sống thiêng liêng sẽ trở nên yếu
nhược và chết đi khi bị bứng khỏi môi trường thích hợp của nó. Ân sủng được ban
cùng với bản tính, đồng thời, toàn thể con người chúng ta được thánh hiến bởi
sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần. Vì thế, đời sống thiêng liêng
không phải là một đời sống buộc phải hoàn toàn tách khỏi điều kiện sống của con
người để đem vào lãnh địa của các thiên thần. Chúng ta sống như những con người
thiêng liêng khi sống như những con người đi tìm Thiên Chúa. Trở nên con người
thiêng liêng, chúng ta phải vẫn là người. Và nếu điều này không mấy hiển nhiên
trong lãnh vực thần học, thì Mầu nhiệm Nhập Thể tự nó đã là một bằng chứng
phong phú về điều đó. Tại sao Đức Kitô đã làm người nếu không phải là để cứu
con người bằng cách hợp nhất họ với Thiên Chúa cách nhiệm mầu ngang qua Nhân
Tính Thánh Thiêng của chính Ngài? Đức Giêsu sống cuộc sống đời thường của con
người vào thời Ngài để thánh hoá đời thường của mọi người thuộc mọi thời. Vậy,
nếu muốn trở nên thiêng liêng, trước tiên, chúng ta hãy sống đời sống của mình.
Đừng sợ những trách nhiệm và những rối rắm không thể tránh khỏi từ công việc do
ý định của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Hãy ôm lấy thực tại và bằng cách đó,
chúng ta thấy chính mình được đắm chìm trong ý muốn trao ban sự sống và khôn
ngoan của Thiên Chúa vốn đang bao bọc chúng ta ở khắp mọi nơi.
Trước tiên, hãy đoan chắc, chúng ta biết những gì chúng ta đang
làm. Chỉ đức tin mới có thể đem lại ánh sáng để có thể nhìn thấy ý muốn của
Thiên Chúa phải được tìm thấy trong cuộc sống thường nhật của mình. Không có
ánh sáng này, chúng ta không thể nhìn thấy để đưa ra những quyết định đúng đắn.
Không có xác quyết này, chúng ta không thể có niềm tin và bình an siêu nhiên.
Chúng ta sẽ trượt ngã liên tục cả khi được chiếu sáng nhất. Một khi đã ở trong
bóng đêm thiêng liêng thực sự, chúng ta thậm chí không biết mình đã ngã.
Để đời sống thiêng liêng thật sự sống động, đức tin của chúng ta
phải được làm mới lại liên lỉ. Như những viên hoa tiêu trên những chiếc tàu
chạy bằng hơi nước không đi được vì sương mù bao phủ phải nhìn vào bóng tối dày
đặc phía trước, chúng ta phải lắng nghe âm thanh của những con tàu khác, và ý
thức rằng, chúng ta chỉ có thể cập bến nếu luôn biết tỉnh táo. Vậy, đời sống
thiêng liêng trước hết là việc phải luôn tỉnh thức. Chúng ta không được đánh
mất sự nhạy bén của mình trước những nguồn cảm hứng thiêng liêng. Làm sao chúng
ta luôn có khả năng đáp trả những cảnh báo tinh tế nhất đang gióng tiếng trong
thâm sâu linh hồn mình, một linh hồn sống động về mặt thiêng liêng như một
thiên hướng ẩn tàng.
Suy niệm là một trong những cách thức trong đó, con người thiêng
liêng giữ cho mình tỉnh thức. Quả không phải là một nghịch lý, chính trong suy
niệm mà hầu hết những người có tham vọng hoàn thiện về mặt đạo đức trở nên ngớ
ngẩn và buồn ngủ. Bài suy niệm là một phương pháp rèn luyện nghiêm khắc, cũng
là một bài học vốn không thể lãnh hội bằng bạo lực. Nó đòi hỏi can đảm và kiên
nhẫn không ngừng. Những ai không sẵn sàng kiên nhẫn thực hành, rốt cuộc sẽ thoả
hiệp với nó. Ở đây cũng như ở nơi khác, thoả hiệp chỉ là một tên gọi khác của
thất bại.
Suy niệm là suy tư. Vậy mà suy niệm thành công lại vượt trội lý
luận hoặc suy tư. Suy niệm cũng vượt trội “những tình cảm”, hơn cả một chuỗi
những “hành vi” được chuẩn bị mà một người trải qua.
Trong giờ suy niệm, chúng ta không chỉ nghĩ và nói bằng tâm trí
hoặc với môi miệng của mình, nhưng theo một nghĩa nào đó, bằng toàn thể con
người mình. Vì thế, cầu nguyện không chỉ là công thức của từ ngữ, hay một
chuỗi những khát khao trào dâng trong tâm hồn - đó là việc quy hướng toàn thân,
tâm trí và tinh thần về Thiên Chúa trong thinh lặng, chú tâm và thờ phượng. Một
buổi suy niệm tốt là một cuộc trở về của toàn thể bản ngã của chúng ta với
Thiên Chúa.
Vì thế, theo nghĩa này, một người không thể đi vào suy niệm nếu
không biết nâng tâm hồn lên. Bằng việc nâng tâm hồn lên, tôi không có ý nói đến
việc gây xáo trộn, nhưng nói đến một sự tách mình ra khỏi lề thói thường ngày,
một sự giải phóng tâm hồn khỏi những lắng lo và bận tâm của công việc thường
nhật. Lý do tại sao quá ít người dấn thân cách nghiêm túc cho việc tâm nguyện,
chính xác, là vì việc nâng tâm hồn lên quả là cần thiết đang khi họ thường
không có khả năng nỗ lực đủ để làm điều đó. Có thể họ thiếu quảng đại, cũng có
thể họ thiếu chỉ dẫn và kinh nghiệm, và rồi, họ đi lòng vòng quanh nó. Họ gây
phiền hà cho bản thân, buông mình cho sự bối rối bởi những nỗ lực bạo động tự
tạo ra để hồi tưởng lại, và cuối cùng, kết thúc trong thất vọng. Rốt cuộc, họ
thoả hiệp với một chuỗi những công việc không mấy thoả mãn thường ngày vốn giúp
họ sống qua ngày, hoặc cách khác, họ thư giãn trong một trạng thái lâng lâng mà
họ hy vọng trạng thái đó có thể được biện hộ nhân danh chiêm niệm.
Tất cả các vị linh hướng đều biết đó là một vấn đề nan giải và tinh
tế để xác định chính xác đâu là đường ranh giữa sự xao lãng nội tâm và sự khởi
đầu chưa rõ ràng cũng như khó nhận ra của việc chiêm niệm thụ động. Nhưng trong
thực hành, vào chính lúc này, người ta nói khá đầy đủ về việc chiêm niệm mang
tính thụ động nhằm tạo cho kẻ lười biếng cơ hội đòi quyền ưu tiên của việc “cầu
nguyện bằng cách không làm việc gì”.
Một chiêm niệm như thế không thể gọi là cầu nguyện, vì trong đó,
“không gì được làm” hoặc “không gì xảy ra”, dẫu cho vẫn có thể có một sự cầu
nguyện mà trong đó, không gì được biết, không gì được cảm nhận hay suy tư.
Toàn bộ lời cầu nguyện bên trong đích thực, dù đơn sơ đến đâu, vẫn
đòi hỏi việc hướng toàn thể bản ngã của chúng ta về Thiên Chúa cho tới khi điều
này được thực hiện - hoặc cách chủ động bằng chính nỗ lực của chúng ta hoặc
cách thụ động bởi hoạt động của Chúa Thánh Thần - chúng ta không đi vào “chiêm
niệm”, cũng không thể an nhàn giảm nhẹ các nỗ lực của mình để thiết lập việc
tiếp xúc với Thiên Chúa.
Nếu tìm cách ngắm nhìn Thiên Chúa mà không hướng bộ mặt toàn thể
cái tôi bên trong của mình về Ngài thì cuối cùng, chúng ta sẽ không tránh khỏi
việc chiêm ngắm chính mình, và có lẽ, sẽ lao vào vực thẳm tối tăm hiểm nguy vốn
là bản tính nhạy cảm của mình. Đó không phải là bóng tối, trong đó, người ta vẫn
có thể duy trì sự thụ động cách an toàn.
Ngược lại, nếu quá lệ thuộc vào trí tưởng tượng và những cảm xúc,
chúng ta sẽ không quy hướng chính mình về phía Thiên Chúa nhưng sẽ lao vào một
cuộc bạo loạn của các hình ảnh và thêu dệt cho mình những kinh nghiệm đạo đức
sản xuất tại gia, và điều này cũng thật hiểm nghèo.
Việc “hướng” toàn thể bản ngã của chúng ta về Thiên Chúa chỉ có thể
đạt được bằng một lòng tin sâu sắc, chân thành và đơn sơ; một lòng tin trở nên
sống động bằng lòng cậy trông với niềm tin tưởng rằng, việc tiếp xúc với Thiên
Chúa là điều khả thi và lòng mến khát khao thực hiện ý muốn của Ngài trên hết
mọi sự.
Một đôi khi, suy niệm không là gì ngoài cuộc chiến đấu bất thành
nhằm quy hướng chính mình về Thiên Chúa hầu tìm kiếm Thánh Nhan Ngài bằng niềm
tin. Đối với một người suy niệm hiệu quả, tất cả những gì ngoài tầm kiểm soát
vẫn có thể làm cho việc suy niệm trở nên một điều không thể xét về mặt đạo đức.
Trong trường hợp đó, chỉ cần có đức tin và ý ngay lành. Một người đã nỗ lực
chân thành và thật lòng quy hướng chính mình về Thiên Chúa nhưng dường như
không thể cầm lòng cầm trí thì cố gắng đó đã được kể là suy niệm. Điều này muốn
nói rằng, Thiên Chúa, theo lòng nhân ái của Ngài, chấp nhận những nỗ lực bất
thành của chúng ta thay vì chúng ta suy niệm thực sự. Đôi khi chính cái bất lực
nội tâm này lại trở thành dấu chỉ của sự tiến bộ đích thực trong đời sống nội
tâm - bởi lẽ, nhờ đó, chúng ta tuỳ thuộc hơn vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa
cách trọn vẹn và bình an hơn.
Nếu có thể, nhờ ơn Chúa, chúng ta quy hướng chính mình hoàn toàn về
Ngài, đồng thời dẹp bỏ mọi thứ khác để thân thưa với Ngài và thờ phượng Ngài,
điều này không có nghĩa là, chúng ta có thể luôn luôn tưởng nghĩ đến Ngài hay
cảm nhận sự hiện diện của Ngài. Cả trí tưởng tượng lẫn cảm nhận của chúng ta
đều không cần thiết cho việc quy hướng toàn thể con người của mình về phía
Thiên Chúa. Sự tập trung cao độ vào “ý niệm” Thiên Chúa cũng không cần phải ao
ước cách đặc biệt.
Với ngôn ngữ loài người, quả thật khó khi nói đến một sự hiện diện
của Thiên Chúa rất thực và rất dễ nhận ra (vì hầu như hoàn toàn không thể định
nghĩa); ở đó, chúng ta đối diện với Ngài trong lời nguyện cầu vốn nhận biết
Ngài là Đấng mà bởi Ngài, chúng ta được nhận biết; ý thức Ngài là Đấng ý thức
đến chúng ta; yêu mến Ngài là Đấng yêu mến chúng ta. Hiện diện với chính mình
trong toàn vẹn nhân phẩm của mình, chúng ta trình diện Ngài, Đấng vô cùng trong
sự Hiện Hữu, Khác Biệt và Cá Vị của Ngài. Đó không phải là một cuộc diện kiến
mặt đối mặt, nhưng là một sự hiện diện nào đó của bản ngã trước Bản Ngã, trong
đó, với sự chú tâm đầy tôn kính của toàn thể con người mình, chúng ta biết Ngài
trong Đấng mà mọi sự được tồn tại. “Con mắt” mở ra trước sự hiện diện của Ngài
nằm ở chính trung tâm của lòng khiêm tốn, nơi chính trung tâm của tự do, nơi
chính thâm sâu của bản tính thiêng liêng của chúng ta. Suy niệm là việc mở ra
con mắt này.
11. Nghèo khó, cánh cửa dẫn đến tự do
Được nuôi dưỡng bởi các Bí tích cũng như được đào tạo bởi việc cầu
nguyện và giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta không cần phải tìm kiếm điều gì
khác ngoài vị trí đặc thù theo ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta trong
Hội Thánh. Một khi tìm được vị trí đó, cuộc sống cũng như việc cầu nguyện của
chúng ta lập tức trở nên cực kỳ đơn giản.
Tiếp đến, chúng ta sẽ khám phá ý nghĩa của một đời sống thiêng
liêng đích thực. Đó không phải là vấn đề làm việc này tốt hơn việc kia, sống
nơi này tốt hơn là sống nơi kia, cầu nguyện cách này tốt hơn cầu nguyện cách
khác.
Đó cũng không phải là vấn đề của bất cứ hiệu quả tâm lý đặc biệt
nào trong chính tâm hồn chúng ta. Nhưng đó chính là sự lặng thinh của toàn thể
con người chúng ta trong tâm tình ăn năn và thờ phượng trước Thiên Chúa đang
khi thường xuyên nhận biết Ngài là mọi sự và chúng ta là hư không. Ngài là
Trung Tâm mà mọi thọ tạo đang quy về, là Đấng mà mọi hoạt động của chúng ta
phải hướng đến. Đời sống và sức mạnh của chúng ta bắt nguồn từ Ngài, chúng ta
hoàn toàn tuỳ thuộc vào Ngài cả khi sống lẫn khi chết, dòng đời chúng ta được
Ngài biết trước và không trệch ra ngoài kế hoạch quan phòng khôn ngoan và nhân
từ của Ngài. Quả là vô lý khi chúng ta sống cho mình và vì mình như thể không
có Ngài. Mọi kế hoạch và tham vọng thiêng liêng của chúng ta đều trở nên vô
dụng nếu không xuất phát từ Ngài và kết thúc trong Ngài, và rằng, cuối cùng,
điều quan trọng duy nhất là vinh quang của Ngài.
Chúng ta sẽ làm phương hại đời sống cầu nguyện của mình nếu cứ mãi
xét xem nó cũng như tìm kiếm hoa trái từ đó trong một sự bình an vốn không gì
khác hơn là một quá trình tâm lý. Điều duy nhất đáng tìm kiếm trong việc cầu
nguyện chiêm ngắm chính là Thiên Chúa; và chúng ta tìm được Ngài khi nhận ra
rằng, không thể tìm kiếm Ngài trừ phi Ngài tỏ mình cho chúng ta, vậy mà cùng
lúc ấy, Ngài sẽ không thôi thúc chúng ta tìm kiếm Ngài trừ phi chúng ta đã tìm
được Ngài.
Càng bằng lòng với sự túng thiếu của mình, chúng ta càng gần Thiên
Chúa hơn, vì bấy giờ, chúng ta chấp nhận sự túng quẫn trong bình an, không mong
đợi gì từ chính mình nhưng trông chờ mọi sự từ Ngài.
Nghèo khó là cánh cửa dẫn đến tự do, không phải bởi chúng ta bị
giam hãm trong lo lắng và miễn cưỡng do sự nghèo túng tự nó kéo theo, nhưng vì
khi không tìm thấy điều gì nơi mình vốn có thể trở nên nguồn hy vọng để rồi
biết rằng, chẳng có gì nơi bản thân mình đáng để bảo vệ cả. Cũng không có gì đặc
biệt để quý chuộng. Vì thế, ra khỏi chính mình, chúng ta ở lại trong Thiên
Chúa, và chỉ trong Ngài chúng ta mới có niềm hy vọng của mình.
Có một giai đoạn trong đời sống thiêng liêng, ở đó, chúng ta tìm
thấy Thiên Chúa trong chính mình - sự hiện diện này là hiệu quả có được do tình
yêu của Ngài. Đó là quà tặng Ngài dành cho chúng ta. Nó ở lại trong chúng ta.
Mọi quà tặng của Thiên Chúa đều tốt lành, nhưng nếu chúng ta ở lại trong chúng,
hơn là trong Ngài, chúng sẽ đánh mất tính tốt lành của chúng. Với quà tặng này
cũng vậy.
Thời gian thích hợp đến, chúng ta chuyển sang những điều khác, và
Thiên Chúa rút lại cảm giác hiện diện của Ngài hầu củng cố đức tin của chúng
ta. Sau đó, quả là vô ích khi tìm kiếm Ngài ngang qua trung gian của bất kỳ
hiệu quả tâm lý nào. Vô ích khi tìm kiếm bất kỳ cảm nhận nào về Ngài trong tâm
hồn. Đã đến lúc phải ra khỏi chính mình, vượt trên chính mình và không còn tìm
Ngài trong chúng ta nữa nhưng tìm Ngài bên ngoài và bên trên chúng ta. Trước
tiên, chúng ta làm điều này bằng niềm tin khô khan của mình, bằng niềm cậy
trông bùng cháy như những hòn than hồng dưới lớp tro tàn của sự túng quẫn.
Chúng ta cũng tìm kiếm Ngài bởi lòng bác ái khiêm tốn trong việc phục vụ anh
em. Rồi khi Thiên Chúa muốn, Ngài nâng chúng ta lên tận chính Ngài trong sự đơn
sơ.
Đâu là lợi ích của việc nhìn nhận sự yếu hèn nơi chính mình nếu
chúng ta không nài xin Thiên Chúa quyền năng nâng đỡ? Đâu là giá trị của việc
nhìn nhận sự nghèo túng nơi bản thân nếu chúng ta không bao giờ vận dụng nó để
nài xin lòng thương xót của Ngài? Quả thật tồi tệ để tự mãn trong ý nghĩ rằng,
chúng ta đạo đức; nhưng sẽ tồi tệ hơn khi chúng ta ở lì trong sự trì trệ dẫu đã
ý thức đầy đủ những yếu đuối và tội lỗi của mình.
Giá trị của yếu đuối và nghèo khó ở chỗ, khi chúng là mảnh đất trong
đó Thiên Chúa gieo vãi hạt giống khát vọng. Và không thành vấn đề xem chúng ta
bị bỏ rơi làm sao, niềm khao khát liều lĩnh được yêu mến Ngài bất chấp sự khốn
cùng tuyệt vọng của mình chính là dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa với
lời hứa cứu độ chúng ta.
12. Ở lại trong Thiên Chúa
Muốn có một đời sống thiêng liêng, bạn phải thống nhất đời sống của
mình. Một đời sống hoặc là hoàn toàn thiêng liêng hoặc là không thiêng liêng
chút nào. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Đời sống bạn được nắn đúc bởi mục
đích sống của bạn. Bạn được hình thành theo hình ảnh những gì bạn ước muốn.
Để thống nhất đời sống, hãy thống nhất các ước muốn của bạn. Để
thiêng liêng hóa đời sống, hãy thiêng liêng hoá những khát khao của bạn. Để
thiêng liêng hoá những khát khao, hãy khát khao trở nên không có khát vọng nào.
Sống trong thần khí là sống cho một Thiên Chúa, Đấng chúng ta tin,
cũng là Đấng không thể nhìn thấy. Vì thế, ước muốn sống trong thần khí là từ bỏ
ước muốn tất cả những gì có thể nhìn thấy. Chiếm hữu Ngài, Đấng không thể hiểu
thấu là từ bỏ tất cả những gì có thể thấu hiểu. Để ở lại trong Ngài, Đấng vượt
xa mọi nơi an nghỉ được tạo dựng, chúng ta từ bỏ ước muốn lưu lại trong các tạo
vật.
Bằng cách từ bỏ thế giới, chúng ta chiếm lĩnh nó; vượt lên con số
vô vàn của nó, chúng ta thâu tóm nó lại trong sự đơn sơ của một tình yêu vốn
tìm thấy mọi sự trong Thiên Chúa.
Đây là điều Đức Giêsu có ý nói khi Ngài bảo, ai muốn cứu mạng sống
mình, sẽ mất nó; và ai liều mất mạng sống mình vì Thiên Chúa, sẽ cứu được nó.
Chương 28 sách Gióp (cũng sách Barúc chương 3) nói cho chúng ta
biết sự khôn ngoan của Thiên Chúa được giấu kín và không thể tìm thấy - vậy mà
lại kết thúc bằng cách cho rằng, sự khôn ngoan đó được tìm thấy dễ dàng vì kính
sợ Chúa là khôn ngoan.
Một thầy dòng không bao giờ được phép tìm kiếm sự khôn ngoan ngoài
ơn gọi của mình. Nếu làm thế, thầy sẽ không bao giờ tìm thấy sự khôn ngoan, bởi
vì đối với thầy, khôn ngoan ở trong ơn gọi của mình. Khôn ngoan chính là cuộc
sống đan sĩ trong đan viện. Bằng cách sống chính cuộc sống đó, vị đan sĩ kia
tìm thấy Thiên Chúa, chứ không phải bằng việc thêm điều này điều kia vào cuộc
sống mình, những gì Thiên Chúa đã không đặt ở đó. Vì sự khôn ngoan chính là
Thiên Chúa, Đấng sống trong ta, tự mạc khải cho chúng ta. Cuộc sống sẽ tự nó mạc
khải cho chúng ta chừng nào chúng ta sống cuộc sống đó.
Đời sống đan viện đầy ắp tình thương của Thiên Chúa. Mọi việc đan
sĩ kia làm đều đẹp lòng Thiên Chúa và được dâng lên cho vinh quang Ngài. Khi
thực hiện ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta hưởng nhận lòng thương xót của Ngài,
bởi vì chỉ với quà tặng lòng thương xót Ngài, chúng ta mới có thể thực hiện
thánh ý Ngài với một ý chỉ tinh tuyền và siêu nhiên. Ngài ban cho chúng ta ý
chỉ này như một hồng ân vốn chỉ đóng vai trò một phương tiện để chúng ta lãnh nhận
ngày càng nhiều hồng ân khác nữa và lòng thương xót Chúa đổ xuống chúng ta ngày
càng nhiều hơn bằng cách mở rộng khả năng yêu mến Ngài nơi mỗi người. Khả năng
đón nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa nơi chúng ta càng lớn thì khả năng dâng
Ngài vinh quang càng nhiều vì Ngài chỉ được ca khen bằng chính những quà tặng
của Ngài và được vinh quang rạng rỡ nhất bởi những ai mà trong họ, lòng thương
xót của Ngài đã tạo nên một lòng yêu mến lớn lao nhất. “Kẻ được tha ít thì yêu
mến ít” (Lc 7,47).
13. Nghèo khó đích thực
Người nghèo nhất trong một cộng đoàn tu trì không nhất thiết là
người được giao cho ít vật dụng nhất để sử dụng. Nghèo khó không chỉ là vấn đề
của việc không có các “đồ vật”. Đó là một thái độ dẫn chúng ta đến chỗ khước từ
một số thuận lợi có được khi sử dụng những vật đó. Một người có thể không sở
hữu gì cả nhưng lại quá coi trọng những thoả mãn và hưởng thụ riêng tư mà họ
muốn dành cho mình từ những thứ vốn là của chung mọi người - bài hát trong ban
hợp xướng, những bài giảng theo đề tài, bài đọc trong phòng ăn - những giờ tự
do trong cộng đoàn, thời giờ của những người khác…
Thông thường, người nghèo nhất trong cộng đoàn là người được mọi
người khác tuỳ nghi sử dụng. Ai ai cũng có thể sử dụng họ và họ không bao giờ
dùng thời giờ để làm bất cứ điều gì đặc biệt cho riêng mình.
Nghèo khó - có thể liên quan đến những gì như ý kiến, “phong cách”
của chúng ta, bất cứ điều gì vốn có khuynh hướng khẳng định chúng ta khác những
người chung quanh, chẳng hạn nghĩ rằng, chúng ta trổi vượt những người khác
theo cách mà chúng ta cảm thấy thoả mãn với những cá tính riêng biệt của mình
và coi chúng như là những “vật sở hữu”. Đừng vì “nghèo khó” mà chúng ta trở nên
lập dị. Người lập dị không phải là người có tinh thần nghèo khó.
Ngay cả khả năng giúp đỡ những người khác và cống hiến cho họ thời
giờ và những gì chúng ta có vẫn có thể được “sở hữu” với sự dính trết nếu bởi
những nghĩa cử này, chúng ta thực sự áp đặt cái tôi của mình lên những người
khác và ép buộc họ quy về phía chúng ta. Trong trường hợp đó, chúng ta tìm cách
mua họ và sở hữu họ bằng những ân huệ chúng ta ban phát.
Ôi lạy Chúa, ai trong chúng con có thể nói về sự nghèo khó mà không
cảm thấy hổ thẹn? Chúng con, những người đã khấn giữ nghèo khó trong ơn gọi:
chúng con có thực sự nghèo không? Chúng con có biết yêu mến sự nghèo khó là gì
không? Thậm chí chúng con có dừng lại để suy nghĩ dù trong chốc lát, tại sao sự
nghèo khó phải được yêu mến đến thế?
Vậy mà, ôi lạy Chúa, Ngài đã vào trần gian để trở nên nghèo giữa
những người nghèo, vì lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước
Trời. Và chúng con, với lời khấn của mình, chúng con bằng lòng với sự kiện
rằng, về mặt pháp lý, chúng con không có gì để sở hữu; và rằng, đối với mọi thứ
chúng con có, chúng con phải xin phép một ai đó?
Đó có phải là nghèo khó không? Liệu một người không còn công ăn
việc làm, không có tiền để trang trải những hoá đơn; một người thấy vợ con mình
ốm yếu, cảm thấy sợ hãi và tức giận đang chán chường thất vọng – có thể có được
những gì anh ta rất cần chỉ bằng cách xin chúng không? Cứ để anh ta xin. Vậy
mà, chúng con, những người có thể có nhiều thứ mà chúng con không cần, nhiều
hơn nữa những thứ vốn là gương xấu nếu chúng con có - chúng con nghèo khó, bởi
chúng con được phép sở hữu chúng?
Nghèo khó có nghĩa là thiếu thốn, nghĩa là cần một cái gì đó. Khấn
nghèo khó để rồi không bao giờ ra đi với hai tay không, cần cái gì là có cái
đó. Ấy là phỉ báng Thiên Chúa Hằng Sống.
14. Đức Kitô, cuốn sách sự sống
Việc đọc sách phải là một hành vi tôn kính đối với Thiên Chúa,
nguồn mạch mọi chân lý. Chúng ta mở lòng mình trước những lời vốn phản ánh
những thực tại Ngài đã tạo thành, hoặc trước Thực Tại lớn hơn, chính Ngài. Đó
cũng là một hành vi thể hiện sự khiêm tốn và kính trọng những người khác vốn là
khí cụ, qua họ, Thiên Chúa truyền đạt chân lý của Ngài cho chúng ta.
Thiên Chúa được vinh quang nhiều hơn khi chúng ta đọc và rút ra
được nhiều hơn từ đó, khi việc đọc là một hành vi sống động và sâu sắc hơn
không chỉ của trí thông minh mà còn là của toàn thể nhân cách của chúng ta, một
nhân cách đầy tràn và tươi mới trong việc suy tư, suy niệm, cầu nguyện hoặc
ngay cả trong chiêm niệm.
Sách có thể nói với chúng ta như Thiên Chúa nói, như con người nói
hay như tiếng ồn ào của thành phố, nơi chúng ta sống. Như Thiên Chúa, chúng nói
với chúng ta khi đem cho chúng ta ánh sáng, bình an; đồng thời đổ đầy tâm hồn
chúng ta sự tỉnh lặng. Chúng nói với chúng ta như Thiên Chúa khi chúng ta ước
mong không bao giờ rời xa chúng. Chúng nói với chúng ta như những con người khi
chúng ta ước ao nghe chúng lại. Chúng nói với chúng ta như tiếng ồn ào của phố
xá khi giam hãm chúng ta bằng một nỗi lo lắng nào đó vốn không nói với chúng ta
điều gì, không đem lại bình an, không ủng hộ và cũng không có gì để nhớ; vậy
mà, chúng vẫn không để chúng ta tẩu thoát.
Những cuốn sách vốn nói như Thiên Chúa nói với quá nhiều thẩm quyền
để làm chúng ta vui thích. Những cuốn sách vốn nói như những người bạn tốt thì
giữ chặt chúng ta bằng sức mê hoặc nhân loại của chúng; chúng ta lớn lên bằng
việc tìm thấy chính mình trong chúng. Chúng dạy chúng ta biết mình rõ hơn bằng
cách nhận ra chính mình nơi người khác.
Những cuốn sách nói với chúng ta như tiếng ồn ào của đám đông lại
dẫn chúng ta đến chỗ thất vọng bằng nội dung tuyệt đối trống rỗng của chúng.
Bằng những niềm hy vọng mà chúng không thể đáp ứng được, chúng chỉ giúp vui như
những đèn phố về đêm.
Dẫu những cuốn sách này lớn đến đâu, thân thiện đến mấy, chúng vẫn
không thay thế những con người được, chúng chỉ là những phương tiện gặp gỡ
những con người cao cả, những con người có nhiều điều hơn để chia sẻ về lòng
nhân ái của họ, những người vốn đã là những nhân vị cho toàn thế giới chứ không
chỉ cho riêng mình họ.
Ý tưởng và chữ nghĩa không phải là thức ăn của trí thông minh nhưng
chân lý mới là của ăn thực. Và chỉ một chân lý trừu tượng cũng không nuôi dưỡng
đủ trí óc. Chân lý mà một người sống đời sống thiêng liêng tìm kiếm phải là
Chân Lý toàn vẹn, trong đó, thực tại, hiện hữu và bản chất hoà quyện với nhau,
một cái gì vốn có thể được ôm ấp và yêu mến, một cái gì có thể bảo toàn lòng
kính trọng và tùng phục nơi hành động của chúng ta: còn hơn một sự vật: những
con người, hay một Ngôi Vị. Đấng vượt trên tất cả mà yếu tính của Ngài là hằng
hữu, ấy là Thiên Chúa.
Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Cuốn Sách Sự Sống, trong Ngài, chúng
ta đọc thấy Thiên Chúa.
15. Khiêm tốn, con đường giải thoát
Khiêm tốn là một nhân đức chứ không phải tâm thần.
Khiêm tốn giúp chúng ta tự do để hành động cách đạo đức hầu phục vụ
Thiên Chúa và học biết Ngài. Vì thế, khiêm tốn thực thụ có thể không bao giờ
ngăn cản bất kỳ hành động đạo đức thực sự nào, nó cũng không cản trở chúng ta
đổ đầy chính mình bằng cách thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Khiêm tốn giúp chúng ta tự do làm điều lành, bằng cách chỉ cho
chúng ta thấy những ảo giác để rồi rút lại ý muốn của mình khỏi những gì
vốn chỉ tốt bên ngoài.
Một sự khiêm tốn làm con người nên băng giá và cản trở mọi hoạt
động lành mạnh chẳng phải là khiêm tốn chút nào. Đó chỉ là một hình thức nguỵ
trang của lòng kiêu ngạo, nó làm khô cằn gốc rễ đời sống thiêng liêng khiến chúng
ta không có khả năng hiến mình cho Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con yêu mến sự khiêm tốn, nhưng chúng con
không lĩnh hội đủ, chúng con chỉ học để yêu vẻ bề ngoài của nó - khiêm tốn làm
con người nên hấp dẫn và thu hút. Một đôi khi, chúng con dừng lại để suy nghĩ
về những giá trị này và thường giả vờ rằng, chúng con sở hữu chúng và đạt được
chúng là nhờ “thực hành khiêm tốn”.
Nếu thực sự khiêm tốn, chúng con sẽ biết mình giả dối chừng nào!
Xin dạy con mặc lấy sự khiêm tốn vốn không ngơi nghỉ tỏ cho con
thấy con là một kẻ nói dối và một kẻ lừa đảo; và dẫu quả là như thế, con vẫn có
bổn phận chiến đấu đi tìm sự thật để trở nên chân thực ngần nào có thể dù không
tránh khỏi việc con biết rằng, mọi sự thật của con đã bị đầu độc bởi lòng kiêu
căng. Đây là điều kinh khủng về sự khiêm tốn: không bao giờ có ai thành công
trọn vẹn trong việc khiêm tốn và không ai có thể hoàn toàn khiêm tốn trên mặt
đất này. Nhưng không, đó là vấn đề: Lạy Chúa, Đấng khiêm tốn. Lòng khiêm tốn
của chúng con chất chứa kiêu căng và chúng con biết rõ tất cả về sự kiêu căng
đó; lòng khiêm tốn ấy bị nghiền nát bởi sức nặng không thể gánh nổi của sự kiêu
căng đó, và dường như con không làm gì, hoặc làm quá ít để hạn chế điều đó.
Lạy Chúa, dẫu giàu lòng thương xót, Chúa vẫn nghiêm nghị biết bao;
tuy nhiên, Ngài phải như thế. Lòng thương xót của Chúa phải công minh bởi Chân
Lý của Ngài phải đúng. Dẫu giàu lòng thương xót, Chúa vẫn nghiêm nghị: càng
chiến đấu để trở nên chân thực, chúng con càng khám phá sai lầm của mình. Giả
như ánh sáng của Ngài dẫn chúng con đến chỗ thất vọng mà không hề mủi lòng thì
Ngài có nhân từ không?
Không - không phải Ngài mang chúng con đến chỗ thất vọng nhưng đến
sự khiêm tốn. Vì một cách nào đó, khiêm tốn đích thực là một nỗi thất vọng rất
thực: thất vọng về chính con, để con có thể hy vọng hoàn toàn vào Chúa.
Khi nhảy bổ vào bóng tối như thế, liệu con người có thể sinh ích
được những gì?
16. Tiếng chuông, lời mời gọi của Thiên Chúa
Những hồi chuông vọng ngân muốn nói với chúng ta: chỉ một mình
Thiên Chúa thánh thiện, chúng ta thuộc về Ngài và không sống cho thế giới này.
Tiếng chuông đột nhập vào sự chú ý của chúng ta để nhắc nhở mỗi
người rằng, mọi sự đang trôi qua và những mối bận tâm của chúng ta thì không
quan trọng.
Tiếng chuông nói với chúng ta về sự tự do mà trách nhiệm và những
mối bận tâm chóng qua đang khiến chúng ta lãng quên những gì nó nhắc nhở.
Tiếng chuông là tiếng nói liên kết chúng ta với Thiên Chúa trên
trời.
Tiếng chuông ngỏ với chúng ta, mỗi người là đền thờ đích thực của
Thiên Chúa. Chúng mời gọi chúng ta đến làm hoà với Ngài, Đấng đang ở trong
chúng ta.
Tin Mừng về cô Matta và Maria được đọc cuối Nghi thức Làm Phép
Chuông Nhà thờ nhắc cho chúng ta toàn bộ những điều này.
Tiếng chuông nói: công việc không quan trọng. Hãy ở lại trong Thiên
Chúa và hãy vui mừng, vì thế gian này cùng lời hứa của một thế giới sắp đến chỉ
là một hình bóng; chỉ những ai được tách khỏi những thứ chóng qua mới có thể sở
hữu gia sản của lời hứa vĩnh cửu.
Tiếng chuông nói: chúng tôi đã gióng tiếng hàng thế kỷ từ những
tháp chuông các đại giáo đường. Chúng tôi đã nói với các thánh, cha ông các bạn
trong vùng đất của họ. Chúng tôi đã mời gọi họ như đang mời gọi các bạn… nên
thánh, danh xưng mà chúng tôi đã gọi họ.
Chúng tôi không chỉ nói, “hãy nên tốt lành, hãy đi dâng thánh lễ”.
Chúng tôi không chỉ nói “hãy giữ các giới răn”, nhưng trên hết, “Đức Kitô đã
phục sinh, Đức Kitô đã sống lại!”. Và chúng tôi nói: “Hãy đến với chúng tôi,
Thiên Chúa tốt lành, ơn cứu độ không khó, tình yêu Ngài làm cho nó nên dễ
dàng!”. Và này, thông điệp của chúng tôi luôn dành cho mọi người, cho những ai
đến và những ai không đến, vì ca khúc của chúng tôi thì hoàn hảo như Cha trên
trời là Đấng hoàn hảo và chúng tôi tuôn đổ lòng từ ái của mình trên hết mọi
người.
17. Hoa trái thinh lặng
Trong vườn địa đàng, Ađam cần đặt tên cho các con vật. Cũng thế,
cần gọi tên những gì vốn chia sẻ với chính chúng ta sự thinh lặng, không phải
để quấy rầy thế giới riêng tư của chúng hoặc quấy rầy sự tĩnh lặng riêng của
chúng ta với những ý nghĩ về chúng, nhưng để sự thinh lặng trong đó chúng cư
ngụ cũng như sự thinh lặng cư ngụ trong chúng có thể được cụ thể hoá và được
xác định đó là gì. Những thọ tạo sống trong thinh lặng làm cho thinh lặng trở
nên thật, vì sự im ắng của chúng cũng chính là sự hiện hữu của chúng. Gọi tên
sự hiện hữu của chúng là gọi tên sự thinh lặng của chúng. Vì thế, đó phải là
một hành động kính cẩn.
Những khoảnh khắc thinh lặng khi ban phép lành làm cho chúng đáng
được tôn kính hơn.
Kinh nguyện sử dụng ngôn từ để tôn kính các hữu thể trong Thiên
Chúa.
Ma thuật sử dụng ngôn từ để xâm phạm sự thinh lặng và thánh thiện
của các hữu thể bằng cách đối xử với chúng như thể các hữu thể đó có thể bị
tách khỏi Thiên Chúa, bị chiếm hữu và lạm dụng cách đê hèn trước sự thinh lặng
của Ngài.
Ma thuật xúc phạm sự thinh lặng của Thiên Chúa bằng cách mặc cho
mình chiếc mặt nạ của kẻ đột nhập, của một sức mạnh độc ác muốn lấn chiếm ngai
vàng Thiên Chúa và tự thay thế cho sự hiện diện của Ngài. Nhưng điều gì có thể
tự mình thế chỗ Ngài vốn là Đấng hằng hữu? Chỉ có điều không hằng hữu mới có
thể giả vờ lấn chiếm địa vị của Ngài. Khi làm thế, nó không chỉ xác nhận Ngài
cách rõ ràng hơn, vì nếu ngăn chặn điều không phát xuất từ cái “không hằng
hữu”, thì không gì được để lại cho bạn ngoại trừ Đấng “Hằng Hữu”.
Trong sự thinh lặng của Thiên Chúa, chúng ta chiến thắng ma thuật
bằng cách nhìn xuyên suốt điều không có ở đó, và nhận ra rằng, Ngài Hằng Hữu,
Đấng gần gũi với chúng ta hơn cái “không hằng hữu” vốn không ngừng tìm cách xen
vào giữa chính chúng ta và Ngài.
Sự hiện diện của Thiên Chúa ở trong sự hiện diện của tôi. Nếu tôi
hiện hữu, thì Ngài cũng hiện hữu. Một khi biết mình hiện hữu và nếu tôi đi vào
những chiều kích sâu thẳm của chính sự hiện hữu và hiện trạng của chính mình,
thì từ ngữ “hiện hữu” vốn không thể định nghĩa được chính là bản thân tôi trong
cội nguồn thâm sâu nhất của nó, và ngang qua trung tâm sâu thẳm này, tôi đi vào
trong Đấng “Hằng Hữu” vô cùng, đó chính là Danh Xưng của Đấng Toàn Năng.
Sự hiểu biết của tôi về chính mình trong sự thinh lặng (không phải
nhờ suy nghĩ về bản ngã, nhưng nhờ đi vào mầu nhiệm của bản ngã chân thực của
mình vốn vượt xa những từ ngữ và khái niệm bởi nó hoàn toàn đặc thù) mở ra
trong sự trầm mặc và tính cách “chủ quan” của chính bản ngã Thiên Chúa.
Ân sủng của Đức Kitô đồng nhất tôi với “lời được gieo trồng” (insitum
verbum) vốn là Đức Kitô sống trong tôi. Vivit in me Christus. Sự
đồng nhất bởi tình yêu dẫn đến hiểu biết, nhìn nhận, thiết thân cùng với sự
chưa tỏ tường vốn che giấu một niềm xác tín không thể diễn tả, một niềm xác tín
chỉ được nhận biết trong chiêm ngắm.
Khi “biết” (trong sự xác tín đầy tăm tối của niềm tin vốn được
chiếu sáng bởi sự hiểu biết thiêng liêng) mình là con cái Thiên Chúa trong Con
Một của Ngài, chúng ta cảm nghiệm mầu nhiệm cao cả về sự hiện hữu của mình
trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong chúng ta. Vì chúng ta hiểu, mà không biết
thế nào, chân lý đáng ngưỡng mộ và uy nghi mà Thiên Chúa, Đấng vươn mình trên
vực thẳm của sự hiện hữu vô tận, đã tạo nên chúng ta từ chính Ngài, mặc cho
chúng ta ánh sáng chân lý của Ngài, thanh luyện chúng ta trong ngọn lửa tình
yêu của Ngài, và nhờ quyền năng Thập Giá, làm cho chúng ta nên một với người
Con Duy Nhất của Ngài. “Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh của chúng
ta” (St 1,26). “Ngay trước khi hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra
con” (Tv 109,3).
Ôi Thiên Chúa cao cả, Cha của muôn loài, ánh sáng thường hằng của
Ngài là bóng tối đối với con, sự bao la của Ngài là trống rỗng đối với con,
Chúa đã gọi con ra tự lòng Ngài bởi Ngài yêu con trong chính Ngài; và con, một
biểu hiện chóng qua của chính cái thực tại vĩnh cửu và vô cùng của Ngài, con đã
không thể biết Ngài, con sẽ lạc lối trong bóng tối này, con sẽ vuột khỏi Ngài
và rơi vào trong hư vô nếu Ngài không giữ con bên Ngài trong Cung Lòng của Người
Con Duy Nhất của Ngài.
Lạy Cha, con yêu mến Cha, Đấng con không biết; con ôm lấy Cha, Đấng
con không thấy và con phó mình cho Cha, Đấng con đã xúc phạm… bởi Cha yêu Người
Con Duy Nhất của Cha trong con. Cha thấy Ngài trong con, Cha ôm Ngài trong con
bởi người con đó muốn đồng hoá chính mình hoàn toàn với con bằng tình yêu vốn
đã mang Ngài đến sự chết, vì con, trên Thập Giá.
Con đến với Cha như Giacóp trong trang phục của Esau, nghĩa là
trong công nghiệp và Máu Châu Báu của Đức Giêsu Kitô. Và Ngài, lạy Cha, Đấng
muốn trở nên như thể mù hoà trong bóng đêm của mầu nhiệm lớn lao này, một mầu
nhiệm mạc khải tình yêu của Cha, đặt tay Cha trên đầu con và chúc phúc cho con
như Con Một của Cha. Cha chỉ muốn thấy con trong Ngài, nhưng khi muốn điều này,
Cha muốn nhìn thấy con thực sự hơn cả con trong hiện tại của mình. Vì cái tôi
tội lỗi không phải là bản ngã thực sự của con, đó không phải là bản ngã mà Cha
đã muốn cho con nhưng là bản ngã mà con đã muốn cho chính mình. Và con không
còn ước muốn bản ngã sai lạc này nữa. Nhưng giờ đây, lạy Cha, con đến với Cha
trong bản ngã của Con Một của Cha, vì chính Thánh Tâm của Ngài đã chiếm hữu con
và phá huỷ tội lỗi nơi con và chính Ngài là Đấng giới thiệu con cùng Cha. Và ở
đâu? Trong cung thánh của Trái Tim Ngài cũng là cung điện và đền thờ của Cha,
nơi các thánh trên thiên đàng thờ phượng Cha.
18. Đấng Lặng Thinh vẫn gọi tên con
Thật cần thiết để gọi tên Ngài, Đấng lặng thinh mà con được dự phần
và thờ phượng; bởi lẽ, trong sự im ắng của Ngài, Ngài cũng gọi tên con. Chỉ mình
Ngài biết tên con, qua đó, con cũng biết tên Ngài. Vì trong khoảnh khắc Ngài
gọi con, “con của Ta”, con kịp nhận ra Ngài, “Cha của con”. Trong con, sự nhận
biết này là một hành động và trong Ngài, là một Ngôi Vị. Hành động trong con là
sự di chuyển trong Ngôi Vị của Ngài, Thánh Thần của Ngài, Tình Yêu của Ngài
trong con. Khi Ngài di chuyển, con di chuyển cùng Ngài, để rồi, con cũng là
người di chuyển. Và trong sự chuyển động của mình, con vừa tỉnh giấc để biết
rằng “con hiện hữu”, vừa kêu lên, “Abba, Cha ơi!”.
Nhưng vì con không là cha của mình, nên quả vô ích khi con tìm cách
đánh thức sự nhận biết Ngài bằng cách gọi mình là “con” trong lũng sâu im ắng
của chính mình. Tiếng con kêu chỉ có thể cất lên một âm vang tắt ngấm khi tự
gọi tên mình. Sẽ không bao giờ có bất cứ sự thức tỉnh nào trong con trừ phi con
được Ngài, Đấng là ánh sáng của con, gọi ra khỏi bóng tối. Chỉ Ngài, Đấng là sự
sống, mới có thể làm cho kẻ chết chỗi dậy. Và nếu Ngài không gọi tên con, con
vẫn chết và sự yên lặng của con mãi là sự yên lặng của chết chóc.
Ngay khi Ngài gọi tên con, sự thinh lặng của con trở nên sự thinh
lặng của sự sống vô tận, và con biết mình hiện hữu vì lòng con đã mở ra
với Cha mình trong âm vang của những năm tháng vĩnh cửu.
Cuộc sống của con là lắng nghe, Cuộc Sống của Ngài là dạy bảo. Lắng
nghe và đáp trả là ơn cứu độ của con. Chính vì điều này, đời con phải lặng
thinh. Vì thế, sự yên lặng của con cũng là sự cứu độ cho con.
Sự hy sinh vốn làm vui lòng Thiên Chúa là sự hiến dâng linh hồn con
- và linh hồn những người khác.
Linh hồn được dâng lên Ngài khi nó hoàn toàn chú tâm đến Ngài. Sự
yên lặng của con, đem con xa khỏi mọi thứ khác, vì thế, là sự hy sinh mọi thứ
và sự hiến dâng linh hồn con cho Thiên Chúa. Vì thế đó là sự hy sinh làm con
vui thoả nhất. Nếu con có thể dạy người khác sống trong sự yên lặng đó, thì con
dâng Ngài hy tế đẹp lòng Ngài nhất. Việc hiểu biết Thiên Chúa thì tốt hơn các
lễ tế (x. Hs 6,6).
Không thể có yên lặng nội tâm nếu không có lòng nhân từ và sự khiêm
tốn.
Sự khác biệt giữa một ơn gọi và một bảng xếp hạng.
Những ai đáp lại ơn gọi nên thánh của mình - hay đang đáp lại - thì nhiều vô
kể, đây là một sự kiện hiển nhiên. Họ không thích hợp với những bảng xếp hạng.
Nếu dùng một bảng xếp hạng khi nói về họ, bạn phải xác định ngay phẩm chất lời
nói của mình, như thể họ cũng thuộc về một bảng xếp hạng hoàn toàn khác biệt
nào đó. Thật ra, họ không thuộc bảng xếp hạng nào, họ đặc thù là chính họ;
vì thế, họ không được yêu thương và tôn trọng rất mực trong con mắt người đời
bởi tính riêng tư của họ là một dấu hiệu cho thấy họ được Thiên Chúa rất mực
yêu thương và chỉ mình Ngài thấu hiểu bí mật của mình, một bí mật quá quý giá
để mạc khải cho con người.
Vượt xa và vượt trên tất cả những gì có thể biết thì những gì chúng
ta kính trọng nơi các thánh chính là sự bí mật này; mầu nhiệm của sự trong
trắng và tính đồng nhất vốn được ẩn giấu cách hoàn hảo trong Thiên Chúa.
19. Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối khôn ngoan
“Tất cả chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe kết luận của bài giảng: Hãy
kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài: vì đây là toàn bộ đạo làm
người” (Gv 12,13).
Ai đã tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa vốn vượt trên mọi thọ
tạo?…
Kính sợ Chúa là khôn ngoan trọn vẹn, và sự trọn vẹn bắt nguồn từ
hoa trái của nó…
Kính sợ Chúa là vương miện của sự khôn ngoan, đổ đầy bình an và hoa
trái cứu độ…
Hỡi con, nếu con ước ao sự khôn ngoan, hãy giữ công bằng, và Thiên
Chúa sẽ ban sự khôn ngoan cho con… (Gv 1,3.20.22.33).
Trong thâm sâu hiện hữu của chúng ta, Thiên Chúa đang hiện diện,
Đấng muốn chúng ta sống và hiện hữu. Nhưng chúng ta không tìm thấy Ngài chỉ
bằng cách tìm kiếm sự hiện hữu của mình.
Khi đòi hỏi chúng ta sống, Ngài cũng đòi hỏi chúng ta sống
theo một cách nào đó. Mệnh lệnh của Ngài không chỉ bảo chúng ta nên sống theo
một cách nào đó nhưng còn phải sống tốt, và nhất là sống hoàn hảo bằng cách
sống trong Ngài.
Vì vậy, trong những chiều kích thâm sâu hiện hữu của chúng ta,
Thiên Chúa đã đặt ở đó những ngọn đèn lương tâm hầu nói cho chúng ta luật sống.
Sống không phải là sống trừ phi nó tuân theo quy luật này vốn là ý muốn của
Thiên Chúa. Sống cận kề ánh sáng này là tất cả đạo làm người, vì như
thế, con người đến sống trong Thiên Chúa và nhờ Thiên Chúa. Dập tắt ánh sáng
bởi những hành động trái với quy luật này là làm hỏng bản chất thánh thiêng nơi
bản tính của chúng ta. Nó khiến chúng ta không còn trung thực với chính mình,
biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối: mọi tội lỗi đều tác động như nhau, dẫn đến
việc thờ ngẫu tượng, thay thế chân lý của Thiên Chúa bằng sự sai lạc.
Lương tâm lầm lạc là vị thần sai lạc, một vị thần không nói năng
bởi nó câm nín và không làm gì bởi không chút sức lực. Nó là một chiếc mặt nạ
qua đó, chúng ta tuyên sấm với chính mình, nói với chính bản thân những lời
tiên báo lệch lạc, đưa ra bất kỳ câu trả lời nào chúng ta muốn nghe: “Kẻ đã
biến chân lý của Thiên Chúa thành lời nói dối” (Rm 1,25).
Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối khôn ngoan.
Khôn ngoan là nhận biết Chân Lý trong tính chân thực nhất của nó;
khôn ngoan trải nghiệm Chân Lý, đi đến Chân Lý ngang qua thái độ chính trực của
chính linh hồn. Sự khôn ngoan nhận biết Thiên Chúa ở trong ta và ta ở trong
Ngài.
Kính sợ, bước đầu tiên dẫn đến khôn ngoan, là sợ rằng, mình không
chân thật với Thiên Chúa và với chính mình. Đó là sợ rằng, chúng ta đã tự dối
mình, đã ném đời mình dưới chân một vị thần sai lạc.
Nhưng mọi người đều là kẻ nói dối, vì mọi người đều là tội nhân.
Tất cả chúng ta đều sai lạc với Thiên Chúa. “Nhưng Thiên Chúa thì chân thực; và
mọi người đều giả dối, như được viết” (Rm 3,4).
Lòng kính sợ Thiên Chúa, khởi đầu của khôn ngoan, vì thế, là sự
nhìn nhận “lời nói dối ở trong tay hữu mình” (Is 44,20).
“Nếu chúng ta nói mình không có tội, chúng ta lừa dối chính mình,
và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói rằng, chúng ta không phạm
tội, chúng ta biến Ngài thành kẻ nói dối, và Lời của Ngài không ở trong chúng
ta” (1 Ga 1,8.10).
Vì thế, khởi đầu của khôn ngoan là sự xưng thú lỗi lầm. Sự xưng thú
này giành lại cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa. Nó làm cho ánh sáng
chân lý của Ngài toả chiếu trong lương tâm chúng ta, không có nó, chúng ta
không thể tránh tội. Nó mang sức mạnh của ân sủng Ngài vào trong linh hồn chúng
ta, gắn kết hành động của ý muốn chúng ta với chân lý trong khả năng hiểu biết
của mình.
Giải pháp cho vấn đề của cuộc sống là chính sự sống. Cuộc sống
không đạt được bởi lý luận và phân tích, nhưng trước hết bằng việc sống. Vì nếu
không bắt đầu sống, sự khôn ngoan của chúng ta không có nguyên liệu để vận
hành; và nếu không gặp thất bại, không tài nào chúng ta tìm được thành công.
PHẦN HAI: YÊU MẾN SỰ CÔ TỊCH
. Yêu mến sự cô tịch
Yêu mến sự cô tịch và tìm kiếm nó không có nghĩa là liên tục di
chuyển từ chỗ này qua chỗ khác xét về mặt địa lý. Một người trở nên trầm lắng
vào lúc người ấy chợt ý thức sự yên tĩnh riêng tư không thể chuyển nhượng của
mình và thấy rằng, mình sẽ không là bất cứ điều gì khác ngoài sự cô tịch, không
thành vấn đề ngoại cảnh chung quanh. Từ giây phút đó, cô tịch không còn là tiềm
năng, nhưng là hiện thực.
Tuy nhiên, cách kiên quyết, sự cô tịch đích thực luôn đặt chúng ta
trong sự hiện diện của một khả năng không được thực hiện và thậm chí không thể
thực hiện của sự “cô tịch toàn vẹn”. Nhưng điều này phải được hiểu một cách
đúng đắn: vì đã đánh mất tính hiện thực của sự cô tịch đã có của mình, chúng ta
tìm cách, với một nỗi lo lắng quá lớn, thực hiện theo sức người sự thinh lặng
bên ngoài vốn xem ra không thể đạt được. Sự cô tịch hiện thực, như một trong
những yếu tố không thể thiếu của nó, bao hàm một sự không thoả mãn và không
chắc chắn vốn phát xuất từ việc diện đối diện với một khả năng không thể thực
hiện được. Đó không phải là sự đeo đuổi điên rồ những khả năng - đó là một sự
bằng lòng đầy khiêm tốn đặt chúng ta trong sự hiện diện của một thực tại vô
cùng lớn lao, theo một nghĩa nào đó, đã bị chiếm hữu và theo một nghĩa khác, là
một “khả năng” - một đối tượng của lòng trông cậy.
Chỉ khi chết đi và lên thiên đàng, người cô tịch mới thấy rõ ràng
rằng, khả năng này đã được hiện thực hoá trong đời mình tuy họ không biết điều
đó - vì trên hết, sự trầm lắng của họ cốt tại “khả năng” chiếm hữu Thiên Chúa,
và không chiếm hữu điều gì khác ngoài Ngài trong một niềm cậy trông tinh tuyền.
2. Gieo mình vào Đấng Lặng Thinh
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con không biết con sẽ đi về đâu.
Con không thấy đường đi phía trước. Con không chắc nó sẽ kết thúc ở đâu. Con
cũng không thực sự biết mình, và sự kiện con nghĩ mình đang theo đuổi ý muốn
của Chúa không có nghĩa là con đang thực hiện điều đó. Nhưng con tin rằng, ước
muốn làm vui lòng Ngài thực sự làm cho Ngài vui. Và con hy vọng có được ước
muốn đó trong tất cả những gì con làm. Con hy vọng mình sẽ không bao giờ làm
điều gì bên ngoài ước muốn đó. Và con biết, nếu con thực hiện ước muốn này,
Chúa sẽ dẫn dắt trên con đường đúng đắn nhất dẫu con có thể không biết gì về kế
hoạch của Ngài. Vì thế, con sẽ luôn tín thác vào Chúa dù con có thể lạc đường
và bóng tối sự chết vẫn bao phủ. Con sẽ không sợ hãi, vì Chúa mải ở cùng con,
và Ngài sẽ không bao giờ bỏ mặc con khi con phải một mình đối mặt với những
hiểm nguy.
3. Thinh lặng, yếu tính của thánh thiện
Trong thời đại chúng ta, mọi thứ đều là “vấn đề”. Thời đại này là
thời đại của lo lắng bởi chúng ta muốn nó như vậy. Lo lắng không áp đặt trên
chúng ta bởi những sức mạnh bên ngoài nhưng chính chúng ta áp đặt nó trên thế
giới của mình và áp đặt nó trên nhau từ bên trong chính mỗi người.
Trong một thời đại như thế, hẳn sự thánh thiện sẽ có nghĩa là di
chuyển từ khu vực lo lắng đến một khu vực khác, trong đó, không có lo lắng hoặc
có lẽ nó có nghĩa là học hỏi, từ Thiên Chúa, để không lo lắng khi ở giữa lo
lắng.
Cách căn bản, như Max Picard chỉ ra, có thể đi đến kết luận: sống
trong một sự thinh lặng vốn quá hoà hoãn với các mối xung đột bên trong đến nỗi
dù vẫn ở trong chúng ta, chúng không còn là vấn đề (về Thế Giới Thinh Lặng,
tr. 66-67).
Xung đột luôn tồn tại trong tâm hồn con người và chỉ khi nào chúng
ta thích sự phân tích hơn chính sự thinh lặng, chúng mới trở thành vấn đề dai
dẳng và không thể giải quyết. Chúng ta không muốn nói đến việc giải quyết tất
cả mọi xung đột nhưng nói đến việc sống với chúng, vươn lên từ chúng và thấy
chúng trong ánh sáng của những giá trị khách quan bên ngoài vốn làm chúng không
đáng kể bằng việc so sánh.
Vậy, thinh lặng thuộc về yếu tính của thánh thiện. Trong thinh lặng
và lòng cậy trông, sức mạnh của các Thánh được hình thành (x. Is 30,15).
Khi thinh lặng trở nên vấn đề, tôi đã đánh mất sự cô tịch. Khi nó
không còn là vấn đề, tôi thấy mình chiếm hữu cô tịch và có thể tiếp tục chiếm
hữu nó. Vậy mà nó vẫn là vấn đề bởi tôi biết, rốt cuộc, một sự thinh lặng hoàn
toàn chủ quan và bên ngoài là kết quả của một nỗ lực chủ quan sẽ không bao giờ
đầy đủ. Thinh lặng phải khách quan và cụ thể. Đó phải là sự thông hiệp với một
điều gì đó lớn hơn cả thế giới, cao cả như chính Hữu Thể, để rồi trong bình an
sâu thẳm của nó, chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa.
Chúng ta đặt ngôn từ giữa chính mình và sự vật, thậm chí cả Thiên
Chúa cũng trở thành một điều gì huyền hoặc được nhận thức trong một vùng đất
ngôn ngữ không người vốn không còn được dùng như một phương tiện thông hiệp với
thực tại.
Đời sống cô tịch, trở nên thinh lặng, xoá tan màn sương của ngôn từ
mà con người đã đặt giữa tâm trí mình với sự vật.
Trong sự thinh lặng, chúng ta vẫn mặt đối mặt với hữu thể trần trụi
của sự vật; dẫu thế, vẫn thấy sự trần trụi của thực tại mà chúng ta lo sợ không
phải là điều gây nên sợ hãi hay xấu hổ. Nó được bao phủ trong sự kết thân mật
thiết của thinh lặng và thinh lặng này được kết nối với tình yêu.
Thế giới ngôn từ của chúng ta tìm cách xếp hạng, kiểm soát hoặc
thậm chí khinh miệt sự thinh lặng (bởi chúng không thể chứa đựng nó). Thế giới
ngôn từ đó đến gần chúng ta đang khi thinh lặng dạy chúng ta biết thực tại bằng
cách tôn trọng thực tại ở nơi mà ngôn từ đã làm hỏng nó.
Khi một mình trải nghiệm đủ với những thực tại chung quanh, từ sự
thinh lặng vốn là mẹ của Chân Lý, lòng kính trọng của chúng ta sẽ biết cách trổ
sinh những lời tốt đẹp về thực tại đó.
Giữa thế giới thinh lặng, có ngôn từ: giữa thinh lặng của sự vật và
thinh lặng của hữu thể chúng ta, giữa thinh lặng của thế giới và thinh lặng của
Thiên Chúa. Khi thực sự gặp gỡ và nhận biết thế giới trong thinh lặng, ngôn từ
sẽ không tách chúng ta ra khỏi thế giới, cũng không tách chúng ta ra khỏi chính
mình và cả Thiên Chúa bởi lẽ chúng ta không còn hoàn toàn tin rằng, ngôn từ
chứa đựng thực tại.
Chân lý trỗi dậy từ sự lặng thinh của hữu thể cho đến sự hiện diện
lớn lao lặng lẽ của Ngôi Lời. Vậy, khi đắm chìm trong thinh lặng một lần nữa,
chân lý của ngôn từ đánh gục chúng ta xuống trước sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Đúng hơn, Thiên Chúa trỗi dậy từ biển khơi như một kho tàng trên
sóng nước, và khi thuỷ triều ngôn ngữ rút xuống thì sự rực rỡ của Ngài vẫn
chiếu sáng trên những bờ cát của chính hữu thể chúng ta.
4. Tìm được ơn gọi, ý nghĩ và cuộc sống sẽ là một
Một người biết mình khi người đó tìm thấy ơn gọi của mình, khi
người đó không còn nghĩ phải sống làm sao và bắt đầu sống. Vì thế, nếu một
người được mời gọi để sống đời cô tịch, họ sẽ không còn phân vân làm thế nào để
sống và bắt đầu sống bình lặng làm sao một khi đã ở trong sự cô tịch. Nhưng nếu
một người không được mời gọi sống đời cô tịch, thì càng ở một mình, người đó
càng lo lắng về việc sống và quên sống. Khi chúng ta không sống đúng theo ơn
gọi đích thực của mình, ý nghĩ sẽ giết chết đời ta, ý nghĩ sẽ tự nó thay thế
đời ta, hoặc sẽ đầu hàng cuộc sống để rồi cuộc sống ngập tràn ý nghĩ và dập tắt
tiếng nói lương tâm. Khi tìm được ơn gọi của mình - ý nghĩ và cuộc sống sẽ là
một.
Giả thiết một người đã tìm thấy sự toàn vẹn trong ơn gọi đích thực
của mình, thì từ đây, mọi sự đều thống nhất, trật tự và bình an, cầu nguyện và
hoạt động cũng không còn xung đột; việc chiêm ngắm giờ đây không cần phải là
một “trạng thái” đặc biệt, một trạng thái vốn đem người đó ra khỏi những vật
thông thường đang sống động chung quanh vì Thiên Chúa đã thẩm thấu tất cả.
Người đó không quan tâm việc nói về chính mình cho bất kỳ ai ngoài một mình
Thiên Chúa.
5. Sự thinh lặng của Thiên Chúa
Chúng ta cần tìm kiếm sự thinh lặng của Thiên Chúa không chỉ trong
chính mình mà còn trong tha nhân. Trừ phi một người nào khác nói với chúng ta
bằng những lời phát xuất từ Thiên Chúa và thông hiệp với sự yên lặng của Ngài
trong tâm hồn mình, chúng ta vẫn bị cô lập trong linh hồn, một thinh lặng mà
dường như Thiên Chúa đã không còn ở đó. Vì sự thinh lặng bên trong tuỳ thuộc
vào một cuộc tìm kiếm liên lỉ, một tiếng kêu không ngớt trong đêm, một cử chỉ
van vái lặp đi lặp lại trên vực thẳm. Nếu cứ bám víu vào một thứ thinh lặng
được nghĩ là đã tìm thấy một lần thay cho tất cả, chúng ta sẽ không tiếp tục
tìm kiếm Thiên Chúa; và rồi, thinh lặng đó đang dần chết trong tâm hồn mình.
Thinh lặng của Thiên Chúa là một thinh lặng trong đó, Thiên Chúa
không tìm lấy cho mình một chút ngơi nghỉ để nói với chúng ta về Ngài. Một sự
thinh lặng trong đó, Thiên Chúa không dường như vắng mặt, đe doạ một cách nguy
hiểm sự hiện diện liên lỉ của Ngài. Vì Ngài chỉ được tìm thấy khi được tìm
kiếm; khi không còn được tìm kiếm, Ngài trốn chạy. Ngài được nghe chỉ khi chúng
ta hy vọng lắng nghe Ngài; và nếu nghĩ rằng, những gì trông chờ đã được thoả
mãn, chúng ta sẽ ngừng lắng nghe; phần Ngài, sẽ ngưng nói, và rồi, sự thinh
lặng của Ngài sẽ không còn sống động và chết đi dẫu chúng ta có nạp lại nó bằng
những âm vang ồn ào đầy cảm xúc.
6. Thinh lặng và ngôn từ
Lạy Chúa, lòng con chẳng dám tự cao (Tv 130,1).
Cả tự cao lẫn khiêm tốn đều tìm kiếm sự thinh lặng bên trong. Tính
kiêu căng, bằng một sự bất động gượng gạo, tìm cách bắt chước sự thinh lặng của
Thiên Chúa. Nhưng sự thinh lặng của Thiên Chúa là sự hoàn hảo của Đời Sống Tinh
Tuyền đang khi sự thinh lặng của lòng kiêu căng là thinh lặng của sự chết.
Khiêm tốn tìm kiếm thinh lặng không phải trong thụ động nhưng trong
hoạt động có trật tự, một hoạt động vốn thích hợp với sự nghèo túng và vô vọng
của chúng ta trước Thiên Chúa. Lòng khiêm tốn dẫn đến việc cầu nguyện và tìm
kiếm sự thinh lặng qua ngôn từ. Nhưng cách tự nhiên, chúng ta đi từ ngôn từ
sang thinh lặng, và từ thinh lặng sang ngôn từ, nên ở trong mọi vật, khiêm tốn
trở nên thinh lặng. Ngay cả khi khiêm tốn lên tiếng, nó lại còn phải lắng nghe.
Lời lẽ của khiêm tốn thì quá đơn sơ, dịu dàng và nghèo hèn đến nỗi chúng có thể
tìm thấy cách thức dẫn đến sự thinh lặng của Thiên Chúa mà không cần phải nỗ
lực. Thật vậy, khiêm tốn là âm vang thinh lặng của Thiên Chúa, và ngay khi
khiêm tốn được lên tiếng, thì thinh lặng của Thiên Chúa đã hiện diện trong
chúng rồi.
Kiêu căng ngần ngại ra khỏi chính mình vì sợ đánh mất những gì đã
tạo được bên trong; do đó, thinh lặng của kiêu căng bị đe doạ bởi nghĩa cử của
lòng bác ái. Trái lại, khiêm tốn không tìm kiếm gì bên trong chính mình (vì nó
là chính sự thinh lặng của mình), nên không thể thất bại trong an bình và lặng
tĩnh bằng cách đi ra ngoài để lắng nghe những người khác hoặc nói cho họ vì
tình yêu Thiên Chúa thúc bách. Trong mọi sự, khiêm tốn là thinh lặng và nghỉ
ngơi; thậm chí thực hành khiêm tốn chính là nghỉ ngơi. Trong mọi sự, tôi tìm
thấy sự nghỉ ngơi.
Không phải lời nói phá vỡ thinh lặng, nhưng là nỗi lo cần được
người khác nghe. Lời lẽ của kẻ kiêu căng áp đặt thinh lặng lên những người khác
để họ chỉ nghe một mình kẻ đó thôi. Người khiêm tốn nói chỉ để được ngỏ lời,
không cầu xin điều gì ngoại trừ của bố thí, rồi chờ đợi và lắng nghe.
Mục đích cuối cùng của cuộc đời chúng ta là sống trong thinh lặng
để lắng nghe những gì là lẽ sống của mình. Chúng ta đón nhận Đức Kitô bằng cách
lắng nghe Lời Ngài trong niềm tin. Chúng ta lớn lên trong ơn cứu độ của mình
qua thinh lặng và hy vọng, nhưng không sớm thì muộn cũng đến lúc chúng ta phải
tuyên xưng Ngài cách công khai trước mặt người đời, rồi trước tất cả những cư
dân của trời và đất.
Nếu cuộc sống chỉ được rót đầy bởi những lời vô bổ, chúng ta sẽ
không bao giờ nghe được một điều gì, không bao giờ trở nên một điều gì; và cuối
cùng, sẽ bị bỏ mặc vì không còn gì để nói khi phải quyết định một điều gì đó
quan trọng nhất trong đời mình, vì lẽ chúng ta đã nói mọi thứ trước khi cưu
mang một điều gì đó để nói.
Vậy mà thinh lặng lại định đoạt cho lời nói cuối cùng đó nhưng đó
không phải là một sự kết thúc trong chính nó. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta là
một chuỗi gẫm suy về quyết định cuối cùng này - quyết định quan trọng duy nhất
được gẫm suy trong thinh lặng. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, chúng ta buộc
phải nói với người khác, giúp họ thấy con đường họ phải tự quyết cho mình, chỉ
cho họ Đức Kitô. Khi chỉ cho họ Đức Kitô, chính lời nói của chúng ta lại dạy
cho họ một sự thinh lặng mới: thinh lặng của sự Phục sinh. Trong thinh lặng đó,
chính họ được hình thành và được chuẩn bị để cũng có thể nói điều họ đã nghe.
Tôi đã tin, nên tôi đã nói (x. Tv 115,1).
7. Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự
Một khi được giải thoát bởi sự thinh lặng, tôi không còn bị ràng
buộc trong khuôn khổ của cuộc sống nhưng gắn bó với việc sống đời sống đó, tôi
có thể khám phá một hình thức cầu nguyện mà trong đó, cách hiệu quả, không có
sự chia trí nào. Toàn bộ cuộc sống của tôi trở nên một lời cầu nguyện. Toàn bộ
sự thinh lặng nơi tôi ngập tràn cầu nguyện. Thế giới thinh lặng, trong đó, tôi
dìm mình, góp phần vào việc cầu nguyện của tôi.
Tác phẩm của sự nghèo khó chính là sự thống nhất cuộc sống. Trong
thinh lặng, chính sự thống nhất này hàn gắn mọi vết thương của linh hồn. Bao
lâu còn sống trong nghèo khó, bấy lâu chúng ta còn trống rỗng và chẳng vui
thích điều gì khác ngoài Thiên Chúa, vì thế, không thể bị chia trí. Chính sự
túng quẫn không để chúng ta “bị lôi đi” (chia trí).
Nếu ánh sáng ở trong ngươi trở nên bóng tối…
Giả thiết sự “nghèo khó” của tôi là một cơn đói thầm kín sự giàu có
thiêng liêng: giả sử rằng, bằng cách giả vờ làm trống rỗng chính mình, giả vờ
thinh lặng, ấy là thực sự tôi đang tìm cách phỉnh phờ Thiên Chúa để làm giàu
thêm một kinh nghiệm nào đó - rồi thì sao? Mọi chuyện trở nên xao lãng và mọi
tạo vật xen vào để quấy nhiễu cuộc tìm kiếm một kinh nghiệm đặc biệt nào đó của
tôi. Tôi phải tống khứ chúng hoặc chúng sẽ xé tôi ra từng mảnh. Tồi tệ hơn -
chính bản thân tôi là một sự xao lãng. Nhưng điều đáng buồn nhất - nếu việc cầu
nguyện của tôi chỉ quy vào mình, nếu nó chỉ tìm làm giàu cái tôi của mình, thì
lời cầu nguyện của tôi tự nó sẽ là sự xao lãng tiềm tàng lớn lao nhất. Tràn
ngập sự hiếu kỳ của bản thân, tôi gặm sạch cây Hiểu Biết của mình và phóng chạy
khỏi bản thân cũng như khỏi Thiên Chúa. Tôi bị phó mặc cho sự giàu có, lẻ loi
và không gì có thể thoả mãn cơn đói của mình: mọi thứ tôi chạm đến đều hoá nên
một sự xao lãng.
Vậy, hãy để tôi tìm kiếm quà tặng của thinh lặng, nghèo khó và cô
tịch, nơi mà mọi thứ tôi chạm đến đều được biến thành cầu nguyện: nơi mà bầu
trời là lời cầu nguyện của tôi, chim chóc là lời cầu nguyện của tôi, gió thổi
trên cành là lời cầu nguyện của tôi; bởi lẽ, Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.
Để được vậy, tôi phải thực sự nghèo khó. Tôi sẽ không phải tìm kiếm
điều gì nhưng hài lòng với tất cả những gì Chúa ban. Sự nghèo khó thực sự là
nghèo khó của người ăn mày vui mừng khi nhận của bố thí từ bất cứ ai, nhưng
cách đặc biệt từ Thiên Chúa. Nghèo khó vờ vịt là nghèo khó của một con người
vật vờ có tính tự mãn của một thiên thần. Vậy, người nghèo khó đích thực chính
là người biết cho đi và đón nhận với lòng tạ ơn, họ chỉ giữ lấy cho mình những
gì cần dùng. Nghèo khó vờ vịt giả vờ không cần gì, giả vờ không xin, nhưng cố
tìm kiếm mọi thứ và phủ nhận lòng biết ơn đối với bất cứ điều gì.
8. Ngài ở đâu, họ ở đó
“Vậy, nếu người ta bảo anh em: “Này, Người ở trong hoang địa”,
anh em chớ ra đó; “Kìa, Người ở trong phòng kín”, anh em cũng đừng tin. Vì, như
chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương Tây thế nào, thì cuộc quang
lâm của Con Người cũng sẽ như vậy”.
Đức Kitô, Đấng sẽ đến bất ngờ vào giờ sau hết - không ai có thể
đoán trước thời Ngài đến - cũng đến với những ai thuộc về Ngài vào mọi thời
khắc, họ cũng không thể thấy hay đoán trước việc Ngài đến. Ngài ở đâu, họ ở đó.
Như đại bàng, không hiểu thế nào, họ tập hợp theo bản năng và gặp thấy Ngài ở
mọi thời khắc.
Cũng như không tài nào để nói cách chắc chắn Ngài sẽ xuất hiện ở
đâu và lúc nào vào ngày tận thế, nên cũng không tài nào để đoan chắc nơi chốn
và giờ ngày Ngài sẽ mạc khải chính mình cho những tâm hồn chiêm niệm.
Nhiều người tìm Ngài trong sa mạc, nhưng ở đó, họ không thấy Ngài;
nhiều người cùng Ngài giấu mình trong sự ẩn dật và Ngài cũng từ chối mạc khải
chính mình cho họ. Bắt chợt Ngài dễ dàng như bắt chợt tia chớp, và như tia
chớp, Ngài đánh vào nơi Ngài thích.
Mọi tâm hồn chiêm niệm đích thực có chung điểm này: không phải vì
họ quy tụ cách riêng biệt trong sa mạc hoặc tự giam mình trong ẩn dật, nhưng vì
rằng, Ngài ở đâu, họ ở đó. Và bằng cách nào họ tìm thấy Ngài? Bằng kỹ thuật?
Không kỹ thuật nào dành cho việc tìm kiếm Ngài. Họ tìm Ngài do Ý Muốn của
Ngài. Và ý muốn của Ngài là đem cho họ ân sủng, sắp xếp đời sống của họ,
mang họ đến đúng nơi chốn, ở đó, họ có thể tìm thấy Ngài. Cả khi đã ở đó, họ
cũng không biết họ đến đó bằng cách nào và đang thực sự làm gì.
Ngay khi một người sẵn sàng hoàn toàn để một mình sống với Thiên
Chúa, người đó sẽ lòng bên lòng với Ngài bất cứ nơi đâu - ở đồng quê, trong tu
viện, ngoài cánh rừng hay giữa thành phố. Như tia chớp loé sáng từ đông sang
tây chiếu sáng cả chân trời, đánh vào nơi nó muốn; cũng thế, sự tự do vô biên
của Thiên Chúa loé lên trong những chiều kích sâu thẳm của linh hồn và người ấy
được chiếu sáng. Vào lúc đó, dù thấy mình dường như đang ở giữa hành trình,
người đó vẫn cảm thấy như đã đến đích rồi. Vì đời sống ân sủng trên thế gian là
sự khởi đầu của đời sống vinh quang. Dẫu là một lữ khách tạm bợ, mắt người ấy
đã mở ra và thoáng thấy vĩnh cửu.
9. Mỗi khoảnh khắc vẫn là một khám phá mới mẻ
Sống trong Ngài, Đấng vô hạn, và hớn hở vì Ngài vô cùng là một điều
gì đó tuyệt vời hơn cũng như việc cầu nguyện sẽ dễ dàng hơn so với việc luôn cố
gắng để ép cái vô biên của Ngài vào một không gian chật hẹp nơi tâm hồn chúng
ta. Chừng nào tôi thoả lòng khi biết Ngài lớn lao hơn tôi vô cùng và không thể
biết Ngài trừ phi Ngài tỏ mình ra, tôi sẽ có bình an; Ngài ở gần tôi, trong tôi
và tôi sẽ an nghỉ trong Ngài. Nhưng ngay khi tôi muốn biết và muốn tận hưởng
Ngài cho riêng mình, tôi bức bách Ngài, Đấng lẩn trốn tôi và hành động như thế,
tôi bức bách chính bản thân và rơi trở lại cái tôi của mình trong đau khổ và lo
lắng khi biết rằng, Ngài đã rẽ sang lối khác.
Trong cầu nguyện đích thực, dẫu phút này tiếp nối phút kia vẫn im
ắng như nhau, mỗi khoảnh khắc vẫn là một khám phá mới mẻ về một sự thinh lặng
mới mẻ, một sự đi vào mới mẻ trong cái vĩnh cửu đó, nơi mọi sự luôn luôn mới
mẻ. Nhờ khám phá tươi mới này, chúng ta biết được thực tại sâu xa vốn là sự
hiện hữu cụ thể của chúng ta lúc này và ở đây. Trong những chiều kích thâm sâu
của thực tại đó, chúng ta đón nhận từ Chúa Cha ánh sáng, chân lý, khôn ngoan và
bình an. Đây là phản ánh của Thiên Chúa trong linh hồn chúng ta vốn được dựng
nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài.
10. Ngợi khen và cảm tạ
Hãy để điều này trở nên niềm an ủi duy nhất của con, lạy Chúa, con
ở đâu, Ngài được yêu mến và ngợi khen ở đó.
Thực vậy, cây cối yêu mến Ngài nhưng không biết Ngài. Hoa loa kèn
và hoa bắp nói rằng, chúng yêu Ngài nhưng không ý thức sự hiện diện của Ngài.
Những vầng mây xám xinh đẹp lãng đãng băng qua bầu trời ngắm nhìn Ngài như
những trẻ thơ vốn không nghĩ gì về điều chúng mơ đang khi cùng bay.
Nhưng giữa toàn thể những tạo vật này, con biết Ngài, con nhận thức
sự hiện diện của Ngài. Trong chúng và trong con, con biết đến một tình yêu
thương mà chúng không biết; lớn lao hơn, con hổ thẹn và bối rối bởi sự hiện
diện của tình yêu Ngài trong con. Ôi, một tình yêu nhân hậu và kinh khiếp Ngài
dành cho con, và sẽ không bao giờ có thể có trong con nếu Ngài đã không yêu
con! Vì ở giữa những tạo vật vô tri này, những tạo vật không bao giờ xúc phạm
đến Ngài, thì con được Ngài yêu thương và dường như vượt hẳn mọi tạo vật đó,
con lại là kẻ làm tổn thương Ngài. Dưới bầu trời, Ngài nhìn thấy con và những
xúc phạm của con lại được Ngài quên đi - nhưng con, con không bao giờ quên
chúng.
Con chỉ xin một điều: ký ức về những lỗi lầm đó không làm cho con
sợ hãi khi lãnh nhận quà tặng Tình Yêu - quà tặng Ngài đặt trong con. Con sẽ
nhận nó vì con bất xứng. Khi làm vậy, con sẽ chỉ yêu Ngài nhiều hơn và làm vinh
danh lòng thương xót của Ngài hơn nữa.
Nhớ rằng con là một tội nhân, nên con vẫn sẽ yêu mến Ngài dù con
thế nào đi nữa trong quá khứ; biết rằng tình yêu của con thì quý giá vì nó là
tình yêu của Ngài đúng hơn là của con. Cao quý đối với Ngài vì nó phát xuất từ
Con Một của Ngài, nhưng thậm chí còn cao quý hơn vì nó làm cho con thành Con
của Ngài.
11. Sống cô tịch, một ơn gọi đặc biệt
Đến với cô tịch - trao phó chính mình, phó dâng chính mình, ký thác
chính mình hoàn toàn cho cái thinh không của đại ngàn, biển khơi, hay sa mạc
mênh mông; để rồi, bất động toạ tĩnh ở đó khi mặt trời ló dạng đem ánh sáng
khoả lấp cõi thinh không. Cầu nguyện và làm việc vào buổi sáng, lao động và
nghỉ ngơi vào buổi chiều; và lại bất động toạ tĩnh suy niệm khi bóng đêm chùng
xuống trên không gian đó, khi sự thinh lặng phủ mình trong bóng tối và những vì
sao. Đây là một ơn gọi thực sự, một ơn gọi đặc biệt. Một số ít người sẵn sàng
hoàn toàn ký thác cho một sự thinh lặng như thế, để rồi thinh lặng có thể thấm
vào xương của họ, để không hít thở một cái gì ngoài thinh lặng, họ để cho thinh
lặng nuôi sống và biến cái làm nên cuộc sống thành một sự thinh lặng sống động
và cẩn mật cho mình.
Thánh tử đạo là người đã đưa ra một quyết định mạnh mẽ đủ được
chứng minh bằng cái chết.
Vị ẩn tu là người đưa ra một quyết định mạnh mẽ đủ được chứng minh
bằng sự hoang vắng: nghĩa là bằng cái chết. Vì hoang địa đầy rẫy những bấp
bênh, hiểm nguy, sỉ nhục và sợ hãi; suốt ngày, vị ẩn tu luôn đối diện với cái
chết. Vì thế, rõ ràng rằng, thánh ẩn tu là em của thánh tử đạo. Chính Chúa
Thánh Thần quyết định tách riêng thánh tử đạo và thánh ẩn tu trong Đức Kitô.
Ơn gọi tử đạo thuộc về đặc sủng và thật phi thường. Vì thế, theo
một nghĩa nào đó, ơn gọi sống đời cô tịch cũng vậy. Chúng ta không trở thành
những vị thánh tử đạo bởi bất kỳ kế hoạch nhân loại nào, và cũng không trở nên
những thánh ẩn tu bởi những dự liệu hoàn toàn thuần tuý của chính mình. Ngay cả
ước muốn sống đời cô tịch cũng phải siêu nhiên nếu muốn có hiệu quả; và nếu
mang tính siêu nhiên, hẳn ước muốn đó cũng là sự đối nghịch với rất nhiều khát
vọng và kế hoạch nhân loại khác. Thực ra, có thể nhìn tới phía trước và thấy
trước cùng ước ao con đường dẫn chúng ta đến sa mạc, nhưng cuối cùng, chính
Thiên Chúa chứ không phải con người mới làm nên những vị ẩn tu.
Không thành vấn đề, chúng ta được kêu gọi để sống cộng đoàn hay
sống một mình, ơn gọi của chúng ta được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ, các
tiên tri và trên tảng đá góc tường chính là Đức Kitô. Điều này có nghĩa là
chúng ta được mời gọi để đáp lại và thực hiện mầu nhiệm lớn lao quyền năng của
Đức Kitô trong chính mình, quyền năng đã làm cho Ngài chỗi dậy từ cõi chết và
kêu gọi chúng ta từ tận cùng trái đất đến để sống trong Ngài và sống trong Chúa
Cha. Dù ơn gọi của chúng ta là gì, mỗi người đều được kêu gọi để trở nên những
chứng nhân và thừa tác viên Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Kitô hữu sống đời cô tịch không tìm kiếm tĩnh lặng chỉ như một bầu
khí hay một môi trường cho một linh đạo được đề cao hay một linh đạo đặc thù
nào đó. Người đó cũng không tìm kiếm tĩnh lặng như một phương tiện thích hợp để
đạt tới một điều mình yêu thích - chẳng hạn việc chiêm ngắm. Nhưng người đó tìm
kiếm tĩnh lặng như một biểu lộ hiến dâng quà tặng toàn thể chính mình lên Thiên
Chúa. Sự tĩnh lặng của người đó không là một phương thế để nhận một điều gì,
nhưng là một quà tặng chính mình hiến dâng Thiên Chúa. Bằng không, tĩnh lặng đó
có thể ám chỉ việc từ bỏ hay khinh miệt “thế gian” theo nghĩa tiêu cực của nó.
Nó không bao giờ trở nên một sự quên mình Kitô giáo. Thật vậy, nó có thể biểu
lộ những gì có thể thấy nơi người sống đời cô tịch rằng, họ không thích ứng đủ
đối với hầu hết các thao luyện trước mắt của cộng đoàn và vai trò của họ là
thực hiện một chức năng ẩn giấu nào đó trong hầm chứa thiêng liêng của cộng
đoàn.
12. Đời sống cô tịch trước hết là một đời sống cầu nguyện
Đời sống cô tịch trước hết là một đời sống cầu nguyện.
Chúng ta không cầu nguyện vì lợi ích của việc cầu nguyện, nhưng vì
lợi ích của việc được lắng nghe. Chúng ta không cầu nguyện để nghe chính mình
cầu nguyện nhưng để Thiên Chúa có thể nghe và trả lời chúng ta. Cũng thế, chúng
ta không cầu nguyện chỉ để lắng nghe bất kỳ câu trả lời nào: đó phải là câu trả
lời của Thiên Chúa.
Vì thế, người sống đời cô tịch sẽ là người luôn luôn cầu nguyện,
luôn luôn hướng về Thiên Chúa, ước ao sự tinh tuyền trong lời cầu của mình để
dâng lên Ngài. Họ cẩn trọng không thay câu trả lời của Thiên Chúa bằng câu trả
lời của mình, không biến lời cầu nguyện tự nó thành một mục đích, cẩn trọng giữ
cho lời cầu nguyện được ẩn tàng, đơn sơ và trong sáng. Làm như thế, vô hình
chung, họ có thể quên bẵng sự “hoàn thiện” tuỳ thuộc vào lời cầu nguyện của
chính mình; để rồi, họ có thể quên cả chính mình và chỉ sống trong niềm mong
đợi những gì Thiên Chúa đáp trả.
Với tôi, dường như điều này không hoàn toàn có thể hiểu được nếu
chúng ta quên rằng, đời sống cầu nguyện được xây dựng trên lời cầu khấn của
lòng thống hối - không thành vấn đề về sau nó phát triển làm sao.
Không hề phá vỡ sự tinh tuyền của việc cầu nguyện trong cô tịch,
lòng thống hối gìn giữ và bảo vệ tính nguyên tuyền đó. Hơn bất cứ ai khác,
người sống đời cô tịch luôn ý thức về sự nghèo khó và túng quẫn của mình trước
Thiên Chúa; vì tuỳ thuộc trực tiếp vào Ngài về mọi sự, vật chất cũng như tinh
thần nên họ phải cầu xin mọi điều. Lời cầu nguyện của họ là một biểu hiện sự
nghèo khó của mình. Với họ, lòng thống hối khó có thể trở thành một hình thức
đơn thuần, một sự nhượng bộ trước tập tục phàm nhân như thể họ không cần Thiên
Chúa về một điều gì cả.
Người sống đời cô tịch, con người cầu nguyện, sẽ đi đến chỗ nhận
biết Thiên Chúa bằng cách biết rằng, lời cầu khấn của mình luôn luôn
được đáp trả. Từ đó, nếu Thiên Chúa muốn, họ có thể tiến tới việc chiêm
ngắm.
Vì thế, lòng biết ơn là trái tim của một cuộc sống sống đời cô
tịch, là trái tim của đời sống Kitô hữu.
Từ ngày đầu tiên trong hành trình cô tịch, người ẩn tu cần đặt
trọng tâm của mình trên sự hiểu biết làm sao để toàn bộ hữu thể của mình phải
khắc khoải đau đớn trong nước mắt và khát khao một mình Thiên Chúa. Tiếp đến,
như Đanien, họ được thiên thần của Thiên Chúa mang cho câu trả lời của Ngài (x.
Đn 10,12). “Đanien, đừng sợ, bởi vì ngay từ ngày đầu tiên, khi người đem hết lòng
tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã
nghe những lời ngươi nói…”.
Những đặc tính của cầu nguyện:
1. Lòng tin không do dự (x. Mt 21,21; Gc 1,6), phụ thuộc vào tính
“duy nhất” của tâm trí và mục đích.
2. Lòng tin bền vững (x. Lc 11).
13. Sống cô tịch là sống trong Thiên Chúa
Với tôi, dường như đời sống chiêm ngắm lặng lẽ là một sự bắt chước,
một sự làm tràn đầy trong chính mình những lời của Chúa Giêsu: “Người Con không
thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Ngài thấy Chúa Cha làm; vì điều
gì Chúa Cha làm thì Người Con cũng làm như vậy. Vì Chúa Cha yêu người Con và
chỉ cho người Con thấy mọi điều mình làm” (Ga 5,19-20).
Việc bắt chước này cốt tại chỗ ở lại và hành động trong cùng một
mối tương quan với Chúa Giêsu như Ngài với Chúa Cha (x. Ga 5,24). “Ai nghe lời
Thầy, và tin vào Đấng đã sai Thầy thì có sự sống đời đời…”. Chúa Cha lôi kéo
chúng ta đến với Chúa Giêsu (x. Ga 6,37.44-45). “Những ai lắng nghe Chúa Cha,
và đã học với Chúa Cha, thì đến với tôi”. Chúng ta lắng nghe Chúa Cha tốt nhất
trong sự cô tịch. Đức Giêsu, Bánh Sự Sống được ban cho chúng ta trong sự cô
tịch (x. Ga 6,58). “Như Cha đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì
những kẻ ăn tôi, cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy”.
Vì thế, sống cô tịch là đời sống của một người được Chúa Cha lôi
kéo vào trong hoang địa, ở đó, chúng ta được nuôi dưỡng không bởi thức ăn
thiêng liêng nào khác ngoài Đức Giêsu. Vì trong Đức Giêsu, Chúa Cha trao ban
chính Ngài và nuôi dưỡng chúng ta bằng chính sự sống vô biên của Ngài. Vì thế,
đời sống cô tịch phải là một sự hiệp thông và biết ơn liên lỉ, trong đó, bằng
đức tin, chúng ta cảm nhận mọi sự diễn ra trong những chiều kích sâu thẳm của
Thiên Chúa; đồng thời chúng ta đánh mất việc tận hưởng bất kỳ sự sống nào khác
hoặc bất kỳ thức ăn thiêng liêng nào khác của mình.
Ngoài ra, với tôi, dường như đời sống cô tịch thực thi những gì đã
nói trên đây trên bằng sự từ bỏ của tác giả Thánh vịnh: “Nhưng con là một kẻ ăn
xin và nghèo khó: Đức Chúa chăm sóc con” (39,18). Chúng ta sống trong sự tuỳ
thuộc không bao giờ đổi thay vào lòng nhân lành hay thương xót của Chúa Cha; vì
thế, toàn bộ đời sống chúng ta sẽ là một đời sống biết ơn - một sự đáp trả liên
tục trước sự trợ giúp của Ngài đến với chúng ta ở mọi thời khắc. Tôi nghĩ rằng,
mỗi một người đều có thể khám phá chân lý này trong bất cứ ơn gọi nào, miễn sao
đó là ơn gọi thực sự của người đó.
Đời sống cô tịch là đời sống trong đó, chúng ta hướng sự chú ý của
mình về phía Thiên Chúa và vui mừng chỉ trong sự trợ giúp đến từ Ngài. Bất cứ
điều gì Ngài làm cũng là niềm vui của chúng ta. Chúng ta tái tạo lòng nhân từ
của Ngài trong chính mình bằng niềm biết ơn. Nói cách khác, lòng biết ơn của
chúng ta là sự phản ánh lòng nhân từ của Ngài. Đó là điều làm cho chúng ta nên
giống Ngài.
Đời sống cô tịch đích thực mang một tính cách hoàn toàn khác biệt
với sự cô tịch từng phần vốn có thể được vui hưởng lúc này lúc khác trong những
giờ giải lao mà đời sống xã hội cho phép. Khi có được sự cô tịch vào những giờ
giải lao, chúng ta tận hưởng giá trị của nó bằng cách đối chiếu với một giá trị
khác. Khi thực sự sống một mình, sẽ không cần sự đối chiếu nào cả.
Không phải tôi đi vào sự cô tịch để giữ cho cuộc sống mình khỏi
những động đạc, để khiến mọi chuyện tập trung cố định vào một kinh nghiệm nội
tâm nào đó. Khi cô tịch đan xen với cuộc sống thường ngày, nó có thể mặc lấy
tính cách này như một sự ngưng nghỉ, một chốc yên tĩnh cần thiết và một sự dừng
lại đầy tập trung. Ở đây cô tịch không phải là một chốc ngưng nghỉ nhưng vẫn là
một tổng thể liên tục, có thể chúng ta sẽ đi đến chỗ không thừa nhận tất cả ý
nghĩa của việc tập trung và đánh mất những cảm nhận tĩnh mịch thiêng liêng của
mình. Toàn bộ đời sống chúng ta có thể tuôn trào để gặp Đấng Hiện Hữu và là
Đấng Lặng Thinh của những ngày mà trong đó, chúng ta dìm sâu chính mình và có
thể tìm thấy sự cứu độ bằng một cuộc sống lặng lẽ liên lỉ.
Thậm chí có thể rằng, trong cô tịch, tôi sẽ trở lại khởi đầu của
tôi, đồng thời, tái khám phá giá trị và sự hoàn hảo của một lời cầu nguyện lớn
tiếng đơn sơ - và cảm thấy vui sướng với điều này hơn cả việc chiêm ngắm.
Thành viên của một giáo phái nào đó có thể có một sự chiêm ngắm cao
độ, đang khi người ẩn tu duy chỉ có kinh Lạy Cha và Kính Mừng.
Trong sự kiện đó, tôi chọn đời sống của một ẩn sĩ, trong đó, tôi luôn sống
trong Thiên Chúa, nói với Ngài cách đơn sơ, hơn là một đời sống hoạt động rời
rạc được thăng hoa bởi một vài khoảnh khắc phấn khích và sốt sắng.
Người sống đời cô tịch nhất thiết là người làm điều mình muốn. Thực
ra, người đó không có gì khác để làm. Đó là lý do tại sao ơn gọi của họ vừa
nguy hiểm vừa đáng dể duôi. Nguy hiểm bởi thực ra, người đó phải nên thánh bằng
cách làm điều mình muốn thay vì làm điều mình không muốn. Nên thánh bằng cách
làm điều mình muốn thì thật là khó. Điều đó có ý nói rằng, điều bạn muốn luôn
luôn là ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế, nó có nghĩa rằng, bạn dường như không
muốn điều gì không phải là ý muốn của Thiên Chúa và chính Thiên Chúa sẽ khoả
lấp những lựa chọn sai lầm của bạn bằng cách chấp nhận chúng, theo một khía
cạnh tốt, như là “ý muốn của Ngài”.
Ơn gọi này bị dể duôi bởi những ai khôn ngoan sợ làm điều mình muốn
khi biết rõ rằng, điều họ muốn làm không phải là ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng
Người Sống Cô Tịch phải là người có lòng can đảm để làm điều mình muốn làm nhất
trên trần gian - sống trong sự cô tịch. Nó đòi hỏi một sự khiêm tốn anh hùng
cùng với một niềm hy vọng anh hùng - một hy vọng mãnh liệt rằng, Thiên Chúa sẽ
bảo vệ họ chống lại chính mình, Thiên Chúa quá yêu thương họ đến nỗi Ngài sẽ
chấp nhận một sự chọn lựa như thể đó là chọn lựa của Ngài. Một niềm hy vọng như
thế là một dấu chỉ cho thấy việc lựa chọn sống cô tịch là sự lựa chọn của Thiên
Chúa. Ước muốn cô tịch chỉ có thể là một ơn gọi đến từ Thiên Chúa. Ước muốn cô
tịch muốn nói đến hồng ân làm vui lòng Thiên Chúa bằng cách đưa ra những quyết
định của chính mình trong cái bấp bênh dễ đổi thay đầy khiêm tốn của một sự
thinh lặng vĩnh viễn vốn không bao giờ chấp nhận hay không chấp nhận sự lựa
chọn chúng ta đã quyết định.
Làm sao tôi có thể quay trở lại sự cô tịch mỗi khi tưởng nghĩ một
nơi mà tôi chưa bao giờ mô tả cho bất kỳ ai, như là nơi mà tôi không bao giờ
mang ai đến, hoặc như là nơi mà cái im ắng của nó đã ấp ủ một đời sống nội tâm
nơi tôi, một nội tâm không ai biết ngoài một mình Thiên Chúa.
14. Bình an đích thực
Bạn cầu nguyện tốt nhất khi tấm gương linh hồn mình trống trơn mọi
hình ảnh ngoài hình ảnh Chúa Cha Vô Hình. Hình ảnh này là Khôn Ngoan của Chúa
Cha, là Lời của Chúa Cha, Lời Vọt Ra Tình Yêu, vinh quang của Ngài.
Xuyên qua cái tăm tối của hình ảnh Ngài, chúng ta làm vinh danh
Chúa Cha trong niềm cậy trông vốn loại bỏ mọi hình ảnh tương tự ra khỏi linh
hồn mình; một niềm cậy trông khiến chúng ta sống bằng mối tương quan và sự phụ
thuộc hoàn toàn vào Ngài. Một cuộc sống tuỳ thuộc được hoàn thiện trong đức tin
tinh tuyền là đời sống duy nhất hoà hợp với ấn tích của con cái Chúa Cha trong
Đức Kitô.
Tống khứ những hình ảnh.
Chỉ một tình yêu tinh tuyền mới có thể quét sạch cách hoàn hảo khỏi
linh hồn những hình ảnh các tạo vật, từ đó, nâng chúng ta vượt quá những ước
muốn.
Để sẵn sàng cho công việc này, chúng ta đừng tìm cách tống khứ khỏi
chính mình tất cả mọi hình ảnh, nhưng trước tiên, hãy bắt đầu bằng cách thay
thế những hình ảnh độc hại bằng những hình ảnh tốt lành, từ đó, loại bỏ ngay cả
những hình ảnh tốt lành nhưng vô ích hoặc những hình ảnh lôi kéo chúng ta cách
vô bổ vào những đam mê và cảm xúc. Phong cảnh đẹp là một nhà giải phóng tài
giỏi trước những hình ảnh như thế bởi nó có thể xoa dịu và đem lại bình an cho
trí tưởng tượng và những cảm xúc, đồng thời giúp cho ý chí được tự do tìm kiếm
Thiên Chúa trong đức tin.
Hoạt động tinh tế của ân sủng trong linh hồn bị quấy phá nghiêm
trọng bởi tất cả những gì gọi là bạo lực của con người. Đam mê, dục vọng một
khi trở chứng, sẽ bạo hành tinh thần; và nó sẽ trở nên nguy hiểm nhất khi người
ta nghĩ rằng, trong nó, dường như họ tìm thấy bình an. Bạo lực không hoàn toàn
nguy hại cho đến khi nó thôi quấy phá chúng ta.
Bình an, hoa trái của ân sủng là sự ổn định thiêng liêng rất thâm
sâu đối với bạo lực - không thể lay chuyển nó, trừ phi chính chúng ta thừa nhận
sức mạnh của dục vọng trong cung lòng thánh thiêng của mình. Cảm xúc có thể
quấy nhiễu bề mặt hiện hữu của chúng ta nhưng nó sẽ không khuấy động những
chiều kích thâm sâu nếu những chiều kích này được ân sủng nắm giữ và chiếm hữu.
Bạo lực thiêng liêng trở nên nguy hiểm nhất khi nó thiêng liêng
nhất - nghĩa là, ít cảm xúc nhất. Bạo lực tác oai tác quái trong những chiều
kích thâm sâu của ý chí khi không có bất kỳ sự dấy lên nào của toàn bộ con
người chúng ta chống lại nó, chúng ta để ý chí bị giam hãm mà không buồn chiến
đấu. Đó là thứ bạo lực của tội cố ý và tội không chống trả vốn xem ra không
phải là bạo lực mà là hoà bình.
Bên cạnh đó, có một thứ bạo lực của lòng ham muốn thoả hiệp quá mức
khác, cách chung không có tội, nhưng lại cản trở hoạt động của ân sủng cùng với
việc tạo điều kiện cho việc đẩy xa lòng bác ái ra khỏi chúng ta hoàn toàn. Một
thoả hiệp như thế nhấn chìm chúng ta quá sâu vào những quyết định của dục vọng;
vậy mà, nó có thể làm điều đó với cớ là phục vụ Thiên Chúa. Bạo lực thiêng
liêng nguy hiểm nhất chính là khi nó đem ý chí chúng ta đi xa với một hăng
nhiệt lầm lạc tưởng như phát xuất từ Thiên Chúa, nhưng thực tế, do chính dục
vọng gợi lên.
Rất nhiều trong những kế hoạch thao thức nhất của chúng ta cho vinh
quang Chúa chỉ là những đam mê quá mức được nguỵ trang. Bằng chứng là những
hứng khởi do chúng tạo ra. Thiên Chúa của sự bình an không bao giờ được tôn
vinh bằng bạo lực.
Chỉ có một loại bạo lực vốn có thể chiếm được Nước Trời - bạo lực
áp đặt bình an lên các chiều kích sâu thẳm của linh hồn giữa những đam mê dục
vọng. Bạo lực này tự nó là một mệnh lệnh được tạo ra trong chúng ta bởi quyền
năng và tiếng nói của Thiên Chúa bình an vọng lên từ đền thánh của Ngài.
Thế nhưng Chúa ngự nơi đền, vinh quang của
15. Sống cho Thiên Chúa, sống với Thiên Chúa và sống trong Thiên
Chúa
Ngay khi bạn thực sự ở một mình thì có Thiên Chúa ở với bạn.
Có người sống cho Thiên Chúa, có người sống với Thiên Chúa và cũng
có người sống trong Thiên Chúa.
Ai sống cho Thiên Chúa thì sống với những người khác và sống trong
những sinh hoạt của cộng đoàn mình. Cuộc sống của họ là những gì họ làm.
Ai sống với Thiên Chúa thì cũng sống cho Ngài, họ không sống trong
những gì họ làm cho Ngài nhưng sống trong mọi sự trước thánh nhan Ngài. Cuộc
sống của họ cốt để phản ánh Thiên Chúa bằng sự đơn sơ của chính mình và bằng sự
hoàn thiện của hữu thể của Ngài vốn được phản ánh trong sự khó nghèo của họ.
Ai sống trong Thiên Chúa thì không sống với những người khác hay
sống trong chính mình; dẫu vậy, họ sống ít hơn trong những gì họ làm, vì Thiên
Chúa làm mọi sự trong họ.
Khi cùng ngồi dưới một gốc cây, tôi có thể sống cho Thiên Chúa, với
Thiên Chúa hay sống trong Ngài.
Nếu tôi viết cho Ngài điều này, điều đó sẽ không đủ.
Để sống với Ngài, phải luôn kiềm chế lời nói và làm dịu những ước
muốn tiếp xúc gặp gỡ con người, thậm chí là để nói về Thiên Chúa.
Tuy nhiên, nói chuyện tâm tình cùng lúc với con người và với Thiên
Chúa thì không khó miễn chúng ta tìm thấy họ trong Ngài.
Đời sống cô tịch - tự căn bản là một đời sống đơn sơ giản dị nhất.
Đời sống cộng đoàn chuẩn bị cho đời sống cô tịch chừng nào chúng ta tìm thấy
Thiên Chúa trong cái đơn giản của cuộc sống chung, và rồi, chúng ta tìm kiếm và
gặp thấy Thiên Chúa nhiều hơn trong cái đơn giản hơn của cô tịch.
Nhưng nếu đời sống cộng đoàn của chúng ta quá phức tạp - (một phần
do lỗi của chính chúng ta) - thì xem ra con người chúng ta cũng trở nên phức
tạp hơn ngay cả trong cô tịch.
Đừng chạy trốn cộng đoàn để náu ẩn trong sự cô tịch. Trước tiên,
hãy tìm kiếm Thiên Chúa trong cộng đoàn, Ngài sẽ dẫn bạn đến cô tịch.
Người ta không thể hiểu giá trị đích thực của thinh lặng trừ phi
người đó biết thực sự tôn trọng giá trị của ngôn ngữ: vì thực tại vốn có thể
diễn đạt bằng ngôn ngữ được tìm thấy, diện đối diện, và không cần trung gian
trong chính thinh lặng. Chúng ta cũng sẽ không tìm thấy thực tại này trong
chính nó, nghĩa là trong sự thinh lặng riêng của nó trừ phi trước hết chúng ta
được mang đến đó bằng ngôn ngữ.
Lời trong Tin Mừng:
1. Đức Giêsu hoàn tất lời các ngôn sứ (x. Ga 12,32 và Môsê
đặc biệt là Ga 5,47). Những phép lạ của Ngài là “lời” - họ không tin vào lời.
“Ai tin lời tường thuật của chúng con?” (Is 12,41). Lời của Đức Giêsu sẽ
phán xét thế gian (x. Ga 12,41; 15,52).
2. Lời của Đức Giêsu là lời của Chúa Cha (x. Ga 12,49; 17,8).
3. Lời của Ngài thánh hoá chúng ta (x. Ga 15,3).
4. Đặc biệt đến mức chúng là những giáo huấn hoặc ám chỉ những giáo
huấn giữ chúng ta trong tình yêu Ngài (x. Ga 15,10-12) và qua Ngài, mang chúng
ta đến với Chúa Cha (x. Ga 17,6-10).
Lời trong sách Sáng Thế (x. St 2,19-20). Adam đặt tên cho các con
vật, 23; đặt tên cho người đàn bà, 3:20, gọi bà là Eva.
Lời trong thư Thánh Phaolô. “Hãy để lời của Đức Kitô cư ngụ dồi dào
trong anh em” (Cl 3,16). Hãy thấy lý do của việc không nói dối. Hãy so sánh dụ
ngôn Người Gieo Giống, “Hạt giống là lời của Thiên Chúa” (Lc 8).
16. Hữu thể đích thực của tôi ở trong Thiên Chúa
Chúng ta tìm thấy Thiên Chúa trong chính hữu thể của mình, tấm
gương của Ngài.
Nhưng làm sao có thể tìm thấy hữu thể của mình?
Hành động của một con người chính là những cánh cửa lớn nhỏ của hữu
thể. Nếu không hành động, không tài nào chúng ta biết mình là ai. Và kinh
nghiệm về sự hiện hữu của mình là điều không thể nếu mỗi người không có một vài
kinh nghiệm về sự hiểu biết hoặc một vài kinh nghiệm của việc trải nghiệm.
Vì thế không thể tìm thấy những chiều kích sâu xa của hữu thể mình
khi chúng ta từ bỏ mọi hoạt động.
Nếu từ bỏ những hoạt động thiêng liêng, chúng ta có thể lại rơi vào
một bóng tối và bình an nào đó, nhưng đó là bóng tối và bình an của xác thịt.
Chúng ta cảm thấy mình hiện hữu, nhưng hữu thể mà chúng ta cảm
nghiệm là chỉ là hữu thể của xác thịt; và nếu ngủ vùi trong bóng tối này đồng
thời yêu mến sự ngọt ngào của nó, thì một khi trỗi dậy, chúng ta sẽ thực hiện
những công việc của xác thịt.
Vì thế để tìm thấy hữu thể thiêng liêng, chúng ta phải lần xuống
những con đường được tạo nên bởi những hoạt động thiêng liêng của mình.
Nhưng khi đã hành động theo ân sủng, những gì chúng ta làm không
còn là của riêng chúng ta, chúng thuộc về Thiên Chúa. Nếu theo chúng đến tận
ngọn nguồn, ít nữa, một cách tiềm tàng, chúng ta cũng có được khả năng cảm
nghiệm Thiên Chúa vì những hành động của Ngài trong chúng ta lại mạc khải ở đó
chính hữu thể của Ngài.
Toàn thể đời sống là để thánh hoá những hành động của chúng ta bằng
khiêm tốn và niềm tin, đồng thời làm im bặt cả con người chúng ta bằng đức ái.
“Ra khỏi chính mình” là hành vi chóp đỉnh của hữu thể vốn không bị
dịch chuyển bởi chính bản chất của chúng ta nhưng bởi Thiên Chúa, Đấng cùng lúc
vượt trên chúng ta vô cùng và tuy nhiên, cũng là Đấng ở trong những chiều kích
sâu thẳm của hữu thể chúng ta.
Dừng lại ở hành vi này - tôi có ý nói thưởng thức hoa trái của hành
vi này - là ở lại trong hữu thể của Thiên Chúa bên trên hữu thể của chính mình
- Kho tàng của con ở đâu thì lòng trí của con ở đó. Bạn cảm nhận mọi giá trị
(kho tàng) của hành động thiêng liêng nơi mình đều đến từ Thiên Chúa - và tâm
hồn bạn nghỉ ngơi trong nguồn suối mà từ đó mọi điều thiện hảo trong bạn tuôn
trào. Bạn không sở hữu hữu thể của bạn trong chính mình nhưng chỉ trong Thiên
Chúa, từ Ngài, nó phát xuất.
Nhờ đức tin, tôi tìm thấy hữu thể đích thực của tôi trong Thiên
Chúa.
Một hành vi đức tin hoàn hảo cùng lúc phải là một hành vi khiêm tốn
hoàn hảo.
Thiên Chúa không kể ra những bí mật tinh tuyền nhất của Ngài cho
những ai được chuẩn bị để lãnh nhận những mặc khải. Ngài có những bí mật để
thông chuyển cho những ai sẽ truyền đạt một vài ý tưởng về chúng cho những người
khác. Nhưng những bí mật này là tài sản chung của nhiều người. Ngài có những bí
mật khác vốn không thể tiết lộ được. Chính ước muốn chia sẻ chúng cho người
khác khiến chúng ta không thể đón nhận chúng.
Bí mật lớn nhất trong các bí mật của Thiên Chúa chính là Ngài.
Ngài chờ để truyền đạt chính Ngài cho tôi theo một cách thức tôi
không bao giờ có thể diễn tả cho những người khác, hoặc thậm chí cảm nghĩ chúng
một cách mạch lạc. Tôi phải ước muốn nó trong thinh lặng. Chính vì điều này mà
tôi phải từ bỏ tất cả.
17. Hướng về ánh sáng
Công việc bận rộn nhất của một đời sống cô tịch là thể hiện lòng
biết ơn. Người ẩn tu là người nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa rõ hơn
những người khác bởi vì toàn bộ đời sống họ là một đời sống phụ thuộc hoàn toàn
vào lòng nhân từ ẩn giấu của Cha Trên Trời trong thinh lặng và cậy trông.
Càng tiến sâu vào cô tịch, tôi càng thấy rõ sự tốt lành của mọi tạo
vật.
Để sống vui tươi trong cô tịch, chúng ta phải có một sự hiểu biết
đầy lòng yêu thương trước sự tốt lành của người khác, một sự hiểu biết đầy lòng
kính trọng về sự thiện hảo của mọi thọ tạo và một sự hiểu biết khiêm tốn về sự
lành thánh của chính thể xác và linh hồn mình. Làm sao có thể sống trong cô
tịch nếu tôi không thấy khắp nơi sự tốt lành của Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành và
Cứu Chuộc tôi, cũng là Cha của mọi sự tốt lành?
Điều gì làm tôi trở nên xấu xa và đáng ghét đối với chính mình? Đó
là sự điên rồ, sự tối tăm của tôi cũng là những gì đã chia rẽ tôi, bởi tội lỗi,
chống lại ánh sáng Thiên Chúa đã đặt trong linh hồn tôi để trở nên tấm gương
phản ánh và là chứng nhân lòng nhân hậu và sự tốt lành của Ngài.
Tôi sẽ tống khứ sự dữ ra khỏi linh hồn bằng cách vật lộn với bóng
tối của tôi? Đây không phải là điều Thiên Chúa dự liệu cho tôi. Chỉ cần tránh
xa bóng tối để hướng về ánh sáng của Ngài là đủ. Tôi không phải chạy trốn chính
mình, chỉ cần tìm thấy chính mình, không phải vì tôi đã tạo ra chính mình bởi
sự ngốc nghếch của tôi, nhưng vì Ngài đã dựng nên tôi trong sự khôn ngoan và
tái tạo tôi trong lòng nhân từ vô biên của Ngài. Chính Ngài muốn thân xác và
linh hồn tôi là đền thờ của Chúa Thánh Thần, đời tôi là sự phản ánh tình yêu
Thiên Chúa và toàn bộ hữu thể của tôi an nghỉ trong bình an của Ngài. Và rồi,
tôi sẽ thật sự biết Ngài vì tôi ở trong Ngài và Ngài thực sự ở trong tôi.
18. Cơm bánh của người sống đời cô tịch
Thế giới các Thánh vịnh là khu vườn đích thực của người sống đời cô
tịch và Kinh Thánh là thiên đàng của họ. Chúng tiết lộ những bí mật của mình
cho họ; bởi lẽ, trong sự khiêm tốn và nghèo khó tột cùng của mình, họ không có
gì khác để sống ngoài những hoa quả các Thánh vịnh tặng ban. Đối với người cô
tịch đích thực, việc đọc Kinh Thánh không còn là một “thao luyện” giữa những
thao luyện khác, một phương tiện “vun trồng” tri thức, “đời sống thiêng liêng”
hoặc “cảm kích phụng vụ”. Đối với những ai đọc Kinh Thánh theo phương pháp học
thuật, hoặc theo một cách nhìn thẩm mỹ hay thuần tuý đạo đức, Kinh Thánh thực
sự đem lại niềm phấn chấn mới mẻ với những ý tưởng bổ ích. Nhưng để học biết
những bí quyết bên trong của Kinh Thánh, chúng ta phải coi Kinh Thánh là cơm
bánh thiết thực hằng ngày của mình, trong đó mỗi người tìm gặp Thiên Chúa khi
thật sự đói khát Ngài - và thông thường, chúng ta không thể tìm thấy Ngài ở đâu
khác, cũng không có nơi nào khác để tìm Ngài!
Trong cô tịch, cuối cùng, ôi lạy Chúa, con khám phá ra rằng, Chúa
hằng khát khao tình yêu của lòng con, tình yêu của lòng con như là - tình yêu
của một trái tim con người.
Con đã tìm thấy và con đã biết, nhờ lòng thương xót bao la của
Ngài, tình yêu của một trái tim con người vốn bị bỏ rơi, tan vỡ và nghèo khó
thì làm hài lòng và thu hút sự chú tâm của lòng thương xót Ngài nhất; và lạy
Chúa, chính niềm khát khao và an ủi của Ngài lại ở rất gần những kẻ yêu mến
Ngài, họ gọi Ngài là Cha của họ. Rằng, có lẽ Ngài không có niềm an ủi nào lớn
hơn (nếu con có thể nói như vậy) là an ủi những đứa con đau khổ của Ngài và
những ai nghèo khó và trắng tay khi đến với Ngài mà không có gì ngoại trừ con
người trơ trọi, những giới hạn và niềm tín thác lớn lao vào lòng thương xót của
Ngài.
Chỉ sự cô tịch mới dạy con rằng, con không là thần thánh hay một
thiên sứ để làm vui lòng Ngài; con không cần trở nên một người tinh thông thuần
khiết nhưng vô cảm hay không có cái bất toàn của kiếp người trước khi Ngài lắng
nghe con.
Ngài không đợi con trở nên hoàn hảo rồi mới đến với con, nghe con
và trả lời con. Chính sự hèn hạ và tính người nơi con đã lôi kéo Ngài, để rồi
biến con thành kẻ ngang hàng bằng cách hạ mình xuống tận mức của con và sống
trong con bằng sự chăm sóc nhân từ của Ngài.
Và giờ đây, chính nỗi khát khao của Ngài, chứ không phải con đem
cho Ngài lòng biết ơn và sự nhận biết có được từ các thiên thần vĩ đại của
Ngài, nhưng từ tình yêu và lòng biết ơn phát xuất bởi tâm hồn của một đứa trẻ,
con của một người đàn bà, Con Một của Ngài.
Lạy Cha, con biết Cha gọi con sống một mình với Cha và học biết
rằng, nếu con không là một con người trơ trọi, một con người trơ trọi có thể
phạm mọi lỗi lầm, mọi điều xấu xa và cũng có thể dành cho Cha một tình cảm con
người hư hỏng và mỏng dòn, thì con sẽ không thể làm con của Cha. Cha khao khát
tình yêu của một trái tim con người bởi Con của Cha cũng yêu Cha bằng trái tim
như thế và Ngài đã trở nên Con Người để trái tim con và trái tim Ngài yêu Cha
trong chỉ một tình yêu, một tình yêu mang tính người được sinh ra và rung động
bởi Thánh Thần.
Vì thế, nếu con không yêu mến Cha bằng tình yêu của một con người
với sự đơn sơ của nó và bằng sự khiêm tốn với chính bản thân, con sẽ không bao
giờ nếm hưởng được vị ngọt ngào tràn đầy của lòng nhân từ đầy tình phụ tử của
Cha, của Con Cha… chừng nào con còn sống và sẽ phải chết đi một cách vô ích.
Con cần là một con người và vẫn là một con người để thánh giá của
Đức Kitô không trở nên vô ích. Đức Giêsu đã không chết cho các thiên thần nhưng
cho con người.
Đây là những gì con học biết từ các Thánh vịnh trong sự cô tịch, vì
các Thánh vịnh chất chứa bao đơn sơ của con người như Đavít, biết Thiên Chúa
như con người và yêu Ngài như con người; vì thế, biết Ngài, Thiên Chúa chân
thực Duy Nhất, Đấng sẽ sai Người Con Duy Nhất của mình đến với con người, giống
con người đến nỗi trong khi vẫn là con người, có thể yêu mến Ngài bằng một tình
yêu thần linh.
Và đây là mầu nhiệm ơn gọi của chúng ta: không phải chúng ta thôi
là con người để trở nên thiên thần hay một thần minh, nhưng rằng, tình yêu nơi
trái tim con người của tôi có thể trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho Thiên
Chúa và cho con người; những giọt nước mắt con người của tôi có thể lăn dài từ
mắt tôi như những giọt nước mắt của Thiên Chúa bởi chúng vọt lên từ chuyển động
của Thánh Thần Ngài trong trái tim Con Một, hiện thân của Ngài. Thế nên, Quà
Tặng của lòng Hiếu Thảo lớn lên trong cô tịch được nuôi dưỡng bằng các Thánh
vịnh.
Một khi học biết được điều này, tình yêu của chúng ta đối với người
khác trở nên thuần khiết và mạnh mẽ. Chúng ta đến với họ không chút kiêu kỳ, tự
mãn; yêu thương họ với một tình yêu thuần khiết, dịu dàng và kín đáo của chính
tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Đây chính là hoa trái và là mục đích đích thực của một đời sống cô
tịch Kitô giáo.
Nguyên tác: Thoughts in Solitude
Tác giả: Thomas Merton
Người dịch: Lm. Minh Anh (TGP.
Huế)