SỐNG MÙA VỌNG
Mùa Vọng, ngày xưa
thường gọi là “Mùa Áp” (theo tiếng Latinh là Adventus, từ động từ Advenire, tiếng
Anh là Advent, có nghĩa là “đến gần”), với ý nghĩa là Mùa “trông đợi”, “mong
chờ”.
Chữ Vọng theo từ điển
Hán-Việt có 2 nghĩa:
Nghĩa thứ nhất 妄 (gồm chữa Nữ và chữ Vô) là Viễn vông, hư giả. Chữ Vọng này hiểu là vô
vọng. Td: vọng ngữ, vọng chấp, vọng niệm.
Nghĩa thứ hai望 (gồm chữ Chủ, chữ
Nguyệt[1] và chữ vô) là trông mong, chờ
đợi, ngưỡng mộ. Chữ Vọng này mới là hy vọng. Nó còn có nghĩa là ngưỡng vọng,
ngửa trông lên Trời với lòng mong mỏi. Td:
Vọng bái hay Vọng nhựt vào ngày rằm âm lịch.
Theo truyền thống Giáo
Hội, Mùa Vọng có bốn ý nghĩa sau: Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị đón Chúa Kitô
"đã đến" lần thứ nhất; Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ
đến" lần thứ hai vào ngày tận thế; Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời
mỗi người chúng ta; Mùa chuẩn bị tâm
hồn Kitô hữu xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới.
1/ Mùa Vọng là Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị
đón Chúa Kitô “đã đến” lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn năm. Kỷ niệm ở đây không đơn
thuần là hoài niệm, không chỉ là những hình ảnh hay biến bố để ghi nhớ, nhưng
là một thực tại để sống.
Mùa Vọng trước tiên là Mùa để chúng ta sống lại
lịch sử ơn cứu độ của Đức Kitô trong cuộc đời mình, bắt đầu từ việc dân Do thái
mong đợi và chuẩn bị Đấng Messia (Chúa Kitô) đến để "giải phóng" họ
khỏi ách nô lệ, đặc biệt là nô lệ tội lỗi. Isaia đã loan báo, Gioan Tẩy Giả đã
dọn đường, dân chúng cũng đã chịu phép rửa sám hối để đón nhận Đấng Messia.
Đấng Messia là Đức Kitô đã đến, ban đầu người
ta cũng hồ hỡi đón nhận Ngài, nhưng rồi thấy Ngài là Đấng không giống như mình
nghĩ, không hành động như mình mong, không thực hiện những điều như mình muốn,
nên người ta dần dần bỏ Ngài. Hơn nữa, vì quyền hành và tham vọng, vì kiêu căng
và lòng chai dạ đá, nên các vị lãnh đạo tôn giáo muốn khai trừ Ngài.
Quả thật, “Ngài
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Người Do
Thái đã muốn nắn đúc Vị Cứu Tinh theo ý đồ và tham vọng của họ, muốn đúc khuôn
một Vị Cứu Thế theo quan niệm và mơ ước của họ, nên đã không nhận ra hay không
muốn nhận ra Ngài. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã chết cho những ảo tưởng, kiêu căng
và tội lỗi của họ, và thật ra cũng là của nhân loại, của mỗi người chúng ta.
Cho tới ngày nay họ vẫn còn gục đều vào bức
tường than khóc để chờ đợi một Đấng Messia như lòng họ mong ước, chứ không như
Thiên Chúa ước mong. Như vậy, sống lại lịch sử của ơn cứu độ trong Mùa vọng là
để chúng ta xác tín rằng, thái độ mong đợi và chuẩn bị Chúa đến trước tiên phải
là hành vi tẩy não và thanh lọc cuộc sống mình, để không rơi
vào tình trạng vong thân và lạc mất cứu độ như dân Do Thái xưa.
Nói đến tẩy
não là vì trong đầu óc ta đầy những tạp niệm, định kiến, thành kiến, thiên
kiến; cũng như những hình dung và quan niệm lệch lạc hoặc thiếu xót về Thiên
Chúa, về chính mình và tha nhân, để từ đó sáng lên một cái nhìn trung thực,
đúng đắn, rõ ràng và thâm sâu về mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Nói đến thanh
lọc là vì bản thân ta luôn dễ bị ô nhiễm bởi nhiều ham muốn, đam mê, dục
vọng, khiến ta sa lạc, và nô lệ cho tội lỗi. Tội lỗi làm tâm trí ta trở nên đen
tối không còn khả năng nhận diện và gặp gỡ Chúa. Vì thế, tẩy não và thanh lọc
bản thân điều kiện tối cần. Đó cũng là hành vi tự cứu độ mình trước khi đón
nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
2/ Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô “sẽ
đến” lần thứ hai vào ngày tận thế. Ngày đó cũng là ngày “không ngờ”, ngày mà “Con Người sẽ ngự đến đầy quyền năng và uy
nghi cao cả!” để xét xử phân minh. Tuy nhiên đối với những ai có lòng tin
nơi Đấng Cứu Thế, và sống theo Phúc Âm của Ngài, thì ngày đó, không đáng kinh
khiếp, nhưng lại là “Ngày Giải Thoát” để bước vào miền hạnh phúc viên mãn của
cuộc sống “trường sinh, vinh hiển”, một “Trời Mới Đất Mới” (Is 65, 17; 66, 22 ;
Kh 21, 1-4). Hoa quả của lòng tin chính là đức ái trong mọi tương quan hằng
ngày. Tiêu chuẩn chính yếu của ngày chung thẩm không có gì khác hơn là tình yêu
mến, là đức ái (x. Mt 25, 32-55).
Dostoievski có lần kể câu chuyện về một người
phụ nữ ở dưới luyện ngục, tha thiết xin thánh Phêrô cho lên thiên đàng. Thánh
nhân yêu cầu bà nhớ lại xem đã làm được điều gì tốt để ngài có thể dựa vào lý
do đó mà xét cho vào Thiên đàng. Người phụ nữ nhìn lại thật tỉ mỉ cuộc đời và
nhớ chắc chắn đã có lần cho lão ăn mày khốn khổ một củ hành. Bà vội trình với
thánh Phêrô và ngài phán, vì ngươi đã cho kẻ khó một củ hành nên bây giờ ta sẽ
cột sợi dây vào củ hành thả xuống luyện ngục, rồi ngươi cứ bám vào đó, ta sẽ
kéo lên. Thế là người phụ nữ bám chặt vào củ hành để thánh Phêrô kéo lên. Khổ
nỗi khi thấy bà được kéo lên, những người khác nhao nhao xin theo và bà ra sức
dẫy dụa đạp họ xuống, vừa đạp vừa la “một mình tao lên thôi”! Nhưng vì dẫy dụa
quá nên sợi chỉ đứt luôn và bà vẫn ở lại chỗ cũ.
Tới lúc lên thiên đàng mà vẫn còn ích kỷ. Câu
chuyện này có thể làm ta liên tưởng đến hình ảnh các nhân vật tư tế và trợ tế
trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (x. Lc 10) khi họ vội vã lên đền thờ mà bỏ
quên tha nhân trong cảnh đau khổ. Thiếu tình yêu, thiếu bác ái với tha nhân,
thì những cố gắng chu toàn các bổn phận thờ phượng có nghĩa lý gì? “Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này:
“Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9, 13).
3- Mùa
Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô
"sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta. Không ai
biết được ngày giờ nào, vì thế, hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng. Như Chúa Giêsu
nói với chúng ta: “Chúng con hãy coi
chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào!”
(Mc 13, 33). Thánh Phaolô cũng khuyên: “Chúng
ta mong chờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra …” và mong rằng “chúng ta bền vững đến cùng, không có gì
đáng trách trong ngày Chúa Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1Tx 5, 23)
Thường
xuyên suy gẫm về sự chết là cách thế hữu hiệu nhất để sống cách tốt nhất. Đức
Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm: “Nếu tôi biết ngày mai mình sẽ chết, thì hôm
nay tôi sẽ sống một ngày đẹp nhất”. Chúng ta chưa sống từng ngày đẹp nhất
là vì cứ tưởng mình còn lâu mới chết. Đó cũng là cám dỗ của ma quỉ để ta mê say
cuộc sống này mà mất đi sự cảnh giác.
Ai
cũng dễ ham mê gây dựng cho mình một sự nghiệp trần thế, muốn có uy tín hơn,
sáng giá hơn, chức vụ cao hơn, ảnh hưởng lớn hơn, mọi người nể phục hơn, làm
nên những công trình to tát hơn. Ít có ai muốn sống âm thầm, hiền lành, khiêm
tốn và vui lòng chịu khó, chịu khổ theo ý Chúa muốn; ít ai muốn chịu khinh khi,
chịu xóa mình, chịu quên lãng, để sống cho Chúa và tha nhân. Nhưng rồi tất cả
những gì chúng ta gầy dựng để mong hưởng thụ cho riêng mình đều là hư vô, vì
khi nằm xuống trong lòng đất rồi thì tất cả đều chấm dứt, chẳng còn lại gì. Chẳng ai còn nhớ đến, thế hệ tương lai
cũng chẳng biết ta là ai, hiện hữu cũng vậy, không hiện hữu cũng thế, duy chỉ
một mình Chúa biết. Quả thật, ý nghĩa và giá trị cuộc sống của ta chỉ ở nơi
Chúa mà thôi. Vì thế, đừng bao giờ tìm kiếm những gì ngoài Chúa, những gì không
phải là Chúa.
4. Thực
tế, Mùa Vọng là mùa chúng ta chuẩn
bị tâm hồn xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới. Thật sự ta chẳng bao
giờ xứng đáng được với chính Chúa, Đấng thánh thiện vô ngần, nhưng chỉ là bớt
bất xứng hơn. Điều này đòi hỏi mỗi người cứ phải hoán cải, sửa đổi và tu chỉnh
cuộc sống không ngừng, để góp phần với Chúa làm cho cuộc sống trở nên chân thật
hơn, khiêm tốn hơn, yêu thương hơn, cao đẹp hơn, an bình hơn, như tiên tri
Isaia đã hô hào, như Gioan Tẩy Giả đã loan báo, như trong thơ 2Phêrô 3-9 đã nhắc lại “Thiên Chúa kiên nhẫn đối với anh em; vì Ngài không muốn cho ai phải
diệt vong, nhưng muốn mỗi người đi đến chỗ ăn năn hối cải …”.
Nguyễn Trãi có câu: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu thị bách niên cơ”
(Một bước sa chân là ngàn đời ân hận. Quay đầu trở lại là trăm năm cơ đồ). Cần
làm một cuộc trở lại cách đặc biệt trong Mùa Vọng này: trở lại với Chúa, trở lại
với anh em, và trở lại với chính mình để đón nhận một sức sống mới.
Chúa Giáng Sinh không chỉ là một biến cố
hồng phúc đối với Đức Maria ngày xưa, nhưng còn là một biến cố ân phúc đối với
mỗi người chúng ta ngày nay. Theo cha Zundel, điều này có nghĩa là Chúa cũng
muốn cho chúng ta nên giống như Đức Mẹ là cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa
lớn lên trong cuộc đời mình. Đây là điều chúng ta đọc thấy trong phụng vụ lễ
Giáng sinh: “Một đứa trẻ được sinh ra cho
chúng ta”.
Thiên
Chúa muốn sinh ra từ chúng ta cũng như chúng ta được sinh ra từ Ngài. Điều bí
ẩn sâu sắc nhất của Phúc Âm, đó là Thiên Chúa muốn sinh ra từ lòng mến của
chúng ta. Người ta chỉ tin vào Thiên Chúa, tin vào Phúc Âm khi bộ mặt của Chúa
Giêsu lộ rõ trong đời sống của chúng ta, để từ đó ta mới có thể trao ban Chúa
cách đích thực cho người khác. Mỗi lần khuôn mặt người khác được sáng lên do sự
tiếp xúc với lòng bác ái của chúng ta, thì đó là nét mới của khuôn mặt Thiên
Chúa được lộ ra. Nếu không như thế, thì đời sống thiêng liêng, mọi hoạt động tông
đồ và truyền giáo đâu có nghĩa gì. Đó cũng chính là sự thể hiện tính cách mầu
nhiệm, hiệp thông và sứ vụ của Giáo Hội trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Hiểu như thế và xác tín thâm sâu như vậy, chúng ta mới thấy Lễ
Giáng Sinh có một ý nghĩa trọng đại trong từng năm của cuộc đời mình. Nhờ đó,
ta biết chuẩn bị bằng cách cải đổi tâm hồn mình như thế nào để phát sinh hiệu
quả ơn thánh và làm lớn mạnh công trình tình yêu mà Chúa muốn thực hiện nơi mỗi
người chúng ta.
Lm.
Thái Nguyên
2010
[1] Vầng trăng còn là biểu tượng của Chân, Thiện, Mỹ mà
con người hằng ngưỡng vọng. Truyền thống Phật giáo
ghi nhận là hầu hết những sự kiện quan trọng trong cuộc đời đức Phật đều diễn
ra vào những đêm trăng tròn.